Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Bài giảng môn tâm lý học chuyên ngành sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.46 KB, 106 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Khoa Sư phạm kỹ thuật










BÀI GIẢNG MÔN HỌC

TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH








Người biên soạn: Ths. Dương Thị Kim Oanh










HÀ NỘI – 2009

2
MỤC TIÊU MÔN HỌC

Sau khi học xong môn học này, sinh viên có khả năng:

1. Hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh học nghề, cơ sở tâm lý học của việc tổ chức
hoạt động dạy và học, phẩm chất và năng lực cơ bản của người giáo viên.
2. Hiểu được cơ sở tâm lý học của việc tổ chức quá trình lao động hợp lý và những vấn đề cơ
bản của hoạt động dạy nghề.
3. Bước đầu vận dụng những hiểu biết trên vào hoạt động giảng dạy tại các trường dạy nghề.
3
MỤC LỤC

PHẦN I. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI 5
CHƯƠNG I. NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ 5
TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 5
1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA
TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 5
2. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC
LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 7
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI, TÂM LÝHỌC 12
4. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 13
5. LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ THEO LỨA TUỔI 13
CÂU HỎI ÔN TẬP 25
CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH 26

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 26
1. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 26
2. SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 29
3. NHỮNG ĐẶC ĐI
ỂM NHÂN CÁCH CHỦ YỂU CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG 30
CÂU HỎI ÔN TẬP 34
CHƯƠNG III. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI SINH VIÊN 35
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ẢHH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA LỨA TUÔI
SINH VIÊN 35
2. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA LỨA TUỔI SINH VIÊN 38
3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CHỦ YẾU CỦA LỨA TUỔI SINH VIÊN 41
CÂU HỎI ÔN TẬP 48
PHẦN II. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM 49
CHƯƠNG I. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC 49
1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC 49
2. HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG HỌC 51
3. CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC LĨNH HỘI TRI THỨC, CÁC PHƯƠNG THỨC
HÀNH ĐỘNG VÀ PHƯƠNG THỨC TƯ DUY 54
CÂU HỎI ÔN TẬP 57
CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN 58
1. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC 58
2. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 60
3. MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 61
4. NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 63
5. UY TÍN CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 72
6. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO
VIÊN 73
CÂU HỎI ÔN TẬP 74

PHẦN III. TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 75
CHƯƠNG I. NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 75
1. TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG LÀ GÌ? 75
4
2. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 75
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 77
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 78
5. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG VỚI CÁC NGÀNH KHOA HỌC
KHÁC 82
CÂU HỎI ÔN TẬP 85
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC 86
QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG 86
1. SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG 86
2. VẤN ĐỀ CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG VÀ NGHỈ NGƠI 87
3. VẤN ĐỀ THẨM MỸ HỌC TRONG LAO ĐỘNG 91
CÂU HỎI ÔN TẬP 97
CHƯƠNG III. SỰ THÍCH ỨNG CỦA CON NGƯỜI VỚI KỸ THUẬT VÀ CÔNG VIỆC 98
1. CHỌN NGHỀ VÀ CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆP 98
2. VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGHỀ NGHIỆP 100
3. HÌNH THÀNH KỸ NĂNG, KỸ XẢO TAY NGHỀ CAO` 103
CÂU HỎI ÔN TẬP 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

5
PHẦN I. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI

CHƯƠNG I. NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ
TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM

Trong hệ thống các khoa học sư phạm, cùng với Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi

và Tâm lý học sư phạm là hai chuyên ngành tâm lý học trực tiếp góp phần hình thành quan điểm
sư phạm và bồi dưỡng trình độ kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường sư phạm cũng
như các trường có khoa sư phạm. Hai chuyên ngành tâm lý học này gắn bó mật thiết với nhau,
trong đó Tâm lý học lứa tuổi (nay còn gọi là Tâm lý học phát triển) là cơ sở không thể thiếu được
của Tâm lý học sư phạm. Chính vì vậy, nhà giáo dục Nga K.D.Usinxki đã viết: “Các bạn hãy
nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn muốn điều khiển, các bạn hãy
hành động căn cứ trên những quy luật này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng những
quy luật này vào đó”
1
.
1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA
TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Trong lịch sử các khoa học về con người, Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập, tách
ra khỏi Triết học từ năm 1879. Cũng từ đó, Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm ra đời gắn
liền với sự thâm nhập của các tư tưởng di truyền học. Cùng với học thuyết tiến hóa, những thành
tựu trong việc nghiên cứu hoạt động phản xạ của con người do I.M.Xêtrênôp tiến hành đã khẳng
định mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng tâm lý và sinh lý, chỉ ra sự phát triển tâm lý gắn liền
với cơ sở sinh lý thần kinh và não bộ con người. Có thể nói, tư tưởng của S.Darwin, I.M.Xêtrênôp
đã góp phần làm rõ vấn đề về nguồn gốc phát triển tâm lý con người; các con đường, quy luật,
điều
kiện và động lực của sự phát triển tâm lý; vai trò của dạy học, giáo dục đối với sự hình thành và
phát triển tâm lý con người, qua đó góp phần thúc đẩy hai chuyên ngành Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm tại thời điểm lúc đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Cùng với những thành tựu trên, các công trình nghiên cứu dựa trên sự tích lũy và tổng kết
kinh nghiệm của những quan sát về sự phát triển tâm lý trẻ em và tâm lý học giáo dục trẻ đã đặt
nền móng cơ sở thực tiễn cho Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm lúc bấy giờ. Những kết
quả nghiên cứu trong Tâm lý học đại cương như Quy luật tâm lý của Weber và Feisner, nghiên cứu
Trí nhớ của Ebbinhauz, nghiên cứu cảm giác và vận động trong tâm lý học của W.Wundt bắt

1

K.D.Usinxki. Tuyển tập. tập 8. Nhà xuất bản viện khoa học giáo dục nước cộng hòa liên bang Nga. 1950. trang 55 (tiếng
Nga).
6
đầu thâm nhập vào Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngoài ra, những tác phẩm đầu tiên
về Tâm lý học sư phạm như Tâm lý học sư phạm của nhà giáo dục, nhà tâm lý học Nga
P.P.Karterev, Nói chuyện với các giáo viên về Tâm lý học của nhà tâm lý học Mỹ W.James đã
mở ra triển vọng cho sự phát triển của chuyên ngành này.
Năm 1906, ở Nga đã tổ chức Hội nghị Tâm lý học sư phạm lần thứ nhất tại Peterburg. Tại
hội nghị này, người ta kịch liệt phê phán tính lý luận sáo rỗng trong Tâm lý học sư phạm và khẳng
định phải có nghiên cứu thực nghiệm về Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Các nhà tâm
lý học và giáo dục học cũng cho rắng, cần phải chỉ ra nguồn gốc phát triển tâm lý trong quan hệ
của nó với quá trình dạy học.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Tâm lý học sư phạm và Tâm lý học lứa tuổi phải
kể đến sự ra đời của trường phái Nhi đồng học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trường phái
này là sự kết hợp máy móc những quan điểm Tâm lý học, Sinh lý học, Sinh vật học về sự phát
triển tâm lý của trẻ em. Ở Liên Xô vào những năm 20-30 của thế kỷ XX, trường phái Nhi đồng học
có tham vọ
ng giữ vai trò của khoa học duy nhất macxit về trẻ em, coi sự tác động của hai nhân tố
là môi trường và di truyền quyết định trực tiếp sự phát triển tâm lý trẻ em. Họ coi Tâm lý học là
khoa học về các yếu tố chủ quan, còn Giáo dục học là kinh nghiệm chủ nghĩa. Những quan điểm
trên của trường phái Nhi đồng học đã có ảnh hưởng không tốt tới Tâm lý học, Giáo dục h
ọc và
hoạt động giảng dạy trong nhà trường nói chung. Điều này đã được nêu lên trong các phê phán có
tính nguyên tắc nhiều luận điểm của trường phái Nhi đồng học.
Quan điểm đúng đắn của N.K.Crupxcaia, A.X.Macarencô đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu
các vấn đề hình thành, phát triển nhân cách trẻ em trong giáo dục và hoạt động tập thể.
A.X.Macarencô đã khẳng định: “Nhà giáo dục hiểu biết học sinh không phải trong quá trình
nghiên cứu học sinh một cách thờ ơ mà trong chính quá trình cùng làm việc với học sinh và trong
chính sự giúp đỡ học sinh một cách tích cực. Nhà giáo dục phải xem xét học sinh không phải như
là đối tượng nghiên cứu, mà là đối tượng giáo dục”

1
.
Lý luận về sự phát triển các chức năng tâm lý bậc cao của L.X.Vưgôtxki có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ông cho rằng:
“Mọi chức năng trong sự phát triển văn hóa của trẻ được bộ lộ hai lần, trong hai phương diện: lần
đầu tiên trong phương diện xã hội, sau đó là phương diện tâm lý, đầu tiên gi
ữa người này với
người kia như là một phạm trù tâm giao, rồi đến bên trong trẻ như một phạm trù tâm lý”
2
. Luận
điểm này của L.X.Vưgôtxki đã được các nhà tâm lý học thừa nhận và cụ thể hóa trong các công
trình nghiên cứu lý luận và thực nghiệm, góp phần xây dựng và phát triển Tâm lý học lứa tuổi,
Tâm lý học sư phạm có kết quả.

1
A.X.Macarencô. Toàn tập. Tập V. Trang 91 (Tiếng Nga)

2
L.X.Vưgôtxki. Sự phát triển chức năng tâm lý bậc cao. Tiếng Nga. M. 1960. Trang 197-198
7
Sự trưởng thành của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sự phạm gắn liền với tên tuổi của
nhiều nhà tâm lý học ở nhiều nước, đặc biệt là các nhà tâm lý học như A.N.Lêônchiev,
Đ.B.Encônhin, A.A.Liublinxcaia, J.Bruner, J.Piaget, H.Wallon, P.Janet Ngày nay, Tâm lý học
lứa tuổi được nghiên cứu với những quan điểm mới về tâm lý học phát triển, nghiên cứu sự hình
thành con người từ trong bào thai cho đến suốt cuộc đời, gắn liền với nền văn hóa xã hội lịch sử và
các tiến bộ xã hội của nền văn minh nhân loại, của giáo dục hiện đại.

2. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC
LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
2.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm

Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là hai lĩnh vực tâm lý học gắn bó chặt chẽ với
nhau trong hoạt động sư phạm, hoạt động giáo dục. Đây là hai chuyên ngành cơ bản, phát triển
sớm nhất của khoa học tâm lý. Chúng có đối tượng nghiên cứu xác định mặc dù chúng có chung
khách thể là con người trong sự phát triển tâm lý ở các giai đoạn phát triển của nó.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi
Tâm lý học lứa tuổi là khoa học nghiên cứu những đặc điểm tâm lý, các quy luật, các điều
kiện, động lực phát triển tâm lý theo lứa tuổi, những biến đổi của các quá trình tâm lý, các phẩm
chất tâm lý trong sự hình thành, phát triển nhân cách con người.
Tâm lý học lứa tuổi không chỉ chú ý nghiên cứu đặc điểm tâm lý của cá nhân ở các lứa tuổi
khác nhau, các đặc điểm khác biệt về tâm lý con người trong phạm vi cùng một lứa tuổi mà còn
nghiên cứu khả năng lứa tuổi trong việc lĩnh hội tri thức, phương thức hành động, các dạng hoạt
động khác nhau của cá nhân đang được phát triển. Các dấu hiệu đặc trưng cho sự phát triển tâm lý
con người từ việc nảy sinh cái mới, sự chuyển biến từ những phản ứng đơn giản đến những hành
động phức tạp, từ việc nắm ngôn ngữ đến sự hình thành ý thức, tự ý thức nhân cách của con người
là nh
ững cứ liệu để từ đó rút ra những đặc điểm tâm lý theo các giai đoạn lứa tuổi khác nhau và rút
ra những quy luật cơ bản về sự phát triển tâm lý con người.
Tâm lý học lứa tuổi bao gồm nhiều lĩnh vực nghiên cứu cụ thể với tư cách là phân ngành của
Tâm lý học phát triển. Cụ thể:
- Tâm lý học về đời sống thai nhi trọng bụng mẹ.
- Tâm lý học tuổi hài nhi.
- Tâm lý học tuổi mầm non.
- Tâm lý học lứa tuổi học sinh tiểu học.
- Tâm lý học lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
- Tâm lý học lứa tuổi học sinh trung học phổ thông.
- Tâm lý học lứa tuổi sinh viên.
8
- Tâm lý học người trưởng thành.
- Tâm lý học người già.
- Tâm lý học trẻ em phát triển không bình thường (phát triển sớm hoặc chậm phát triển ).

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm
Tâm lý học sư phạm nghiên cứu các đặc điểm tâm lý, các quy luật tâm lý của việc dạy học và
giáo dục, nghiên cứu cơ sở tâm lý của quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các phẩm chất
trí tuệ và nhân cách người học. Đồng thời, tâm lý học sư phạm cũng nghiên cứu các yếu tố tâm lý
về phía người làm công tác giáo dục, những vấn đề tâm lý của mối quan hệ giữa giáo viên và học
sinh cũng như quan hệ qua lại giữa học sinh với nhau.
Ngoài ra, việc vạch ra nội dung tâm lý, cơ sở tâm lý của quá trình dạy học và giáo dục của
Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm còn tạ
o ra cơ sở khoa học cho việc xác định nguyên tắc, hệ thống
phương pháp, biện pháp tiến hành điều khiển quá trình dạy học, giáo dục nhằm hình thành và phát
triển trí tuệ, nhân cách người học tới mức cao nhất, đem lại hiệu quả trong dạy học và giáo dục.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
2.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học lứa tu
ổi
- Tâm lý học lứa tuổi chỉ ra các đặc điểm tâm lý của con người được hình thành và phát triển
trong từng giai đoạn lứa tuổi và trong suốt cuộc đời, những quy luật hình thành và biểu
hiện tâm lý của con người trong mỗi giai đoạn phát triển tâm lý, chỉ ra các điều kiện, động
lực của sự phát triển tâm lý.
- Tâm lý học lứa tuổi cung cấp cơ sở tâm lý lứa tuổi của việc vận dụng các nguyên tắc,
phương pháp, biện pháp dạy học và giáo dục phù hợp với đặc điểm và quy luật tâm lý lứa
tuổi, tổ chức hợp lý quá trình sư phạm nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động
dạy học và giáo dục.
- Tâm lý học lứa tuổi không những cung cấp cơ sở tâm lý cho giáo viên trong hoạt động sư
phạm mà còn giúp giáo viên, các nhà giáo dục có ph
ương pháp đối xử khéo léo với đồng
nghiệp, học sinh và tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân.
2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm
Nhiệm vụ chung của Tâm lý học sư phạm là dựa trên những thành tựu của Tâm lý học đại
cương, Tâm lý học lứa tuổi để vạch ra cơ sở tâm lý học sư phạm cho hoạt động dạy học, hoạt động
giáo dục và việc rèn luyện các phẩm chất, năng lực cần thiết của người giáo viên. Cụ thể là:

- Chỉ ra các quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục.
- Nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của việc hình thành tri thức khoa học, hình thành và
phát triển kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh.
- Chỉ ra cơ sở tâm lý của việc điều khi
ển quá trình dạy học và giáo dục, tổ chức họat động
cho học sinh ở trên lớp và ngoài giờ học cũng như xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên
9
với học sinh, giữa các học sinh với nhau, giữa nhà trường với gia đình và các lực lượng
giáo dục khác.
- Tâm lý học sư phạm nghiên cứu đặc trưng lao động sư phạm của giáo viên, hệ thống phẩm
chất, năng lực của người giáo viên, việc tự rèn luyện và hoàn thiện nhân cách, năng lực
nghề nghiệp của người giáo viên.
2.3. Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Để nghiên cứu các đặc điểm tâm lý và sự phát triển tâm lý của con người trong cuộc sống,
trong dạy học và giáo dục cần phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau của
khoa học tâm lý. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
không nằm ngoài các phương pháp nghiên cứu nói chung của Tâm lý học, trong đó có các phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Các phương pháp điều tra viết.
- Phương pháp trò chuyện.
-
Trong các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu cơ bản của Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm là phương pháp quan sát và phương pháp thực nghiệm.
2.3.1. Phương pháp quan sát.
Xuất phát từ việc những biểu hiện tâm lý của con người thường được thể hiện qua lời nói,
cử chỉ, hành vi và hoạt động nên trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm quan sát được

coi là phương pháp nghiên cứu cơ bản, đầu tiên.
Quan sát là quá trình tri giác, theo dõi có mục đích, có kế hoạch sự nảy sinh, diễn biến và
thể hiện tâm lý của trẻ qua hành vi bên ngoài trong điều kiên tự nhiên. Nhà nghiên cứu cần ghi lại
một cách nghiêm túc, khách quan những sự kiện thu được. K
ết quả quan sát tùy thuộc vào việc xác
định rõ ràng mục đích, nội dung quan sát và chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho sự quan sát.
Cần tổ chức việc quan sát đáp ứng được các yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Quan sát những biểu hiện tâm lý của học sinh trong điều kiện tự nhiên của cuộc sống, nhất
là trong hoạt động vui chơi, học tập, lao động và quan hệ giao tiếp. Việ
c sử dụng kết quả
của phương pháp quan sát không chỉ để giáo dục học sinh mà quan trọng hơn là chính
trong quá trình dạy học và giáo dục học sinh, giáo viên vừa giáo dục, vừa nghiên cứu, vùa
nghiên cứu vừa giáo dục, hướng học sinh vào vùng phát triển gần nhất.
- Cần quan sát một cách có hệ thống xuất phát từ nguyên tắc về tính toàn vẹn của nhân cách.
Xem xét những biểu hiện tâm lý cụ thể của học sinh trong những hoàn cảnh cụ thể, riêng
10
biệt của nhân cách đang phát triển cũng như những biểu hiện tâm lý cụ thể trong mối quan
hệ với các mặt khác của nhân cách.
- Quan sát phải đảm bảo tính khách quan. Việc ghi chép và rút ra những nhận xét thu được
từ những sự kiện quan sát được cần đảm bảo tính khách quan và thận trọng, cần xác định
những nguyên nhân gây ra những sự kiện quan sát được, dự đoán xu thế biến đổi của
chúng. Chẳng hạn, nhà tâm lý học người Đức V.Stern đã dùng nhật ký quan sát về trẻ em
để xây dựng giả thuyết của mình về những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý
của trẻ. Hay nhà tâm lý học Thụy Sỹ J.Piaget dựa trên những tài liệu quan sát trẻ em, trong
đó có ba người con của ông để nêu lên sự phân chia các giai đoạn phát triển trí tuệ của trẻ

Phương pháp quan sát có các ưu điểm sau:Tiến hành nhanh; Khâu chuẩn bị không mất
nhiều thời gian; Tài liệu thu được trực quan, đa dạng về tâm lý con người song phương pháp này
chỉ cho biết nhữn biểu hiện tâm lý ra hành vi bên ngoài, nhà nghiên cứu khó hiểu chúng một cách
chính xác, các tài liệu quan sát chỉ được ghi lại dưới hình thức miêu tả. Vì vậy, khi sử dụng

phương pháp quan sát, nhà nghiên cứu phải phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác để
nghiên cứu tâm lý con người. Có như vậy, phương pháp quan sát mới có hiệu quả cao.
2.3.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, phương pháp thực nghiệm có vai trò
đặc biệt quan trọng.
Thực nghiệm là quá trình tác động vào con người một cách chủ động trong những điều
kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần nghiên cứu một cách khách
quan.
Trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, người ta thường sử dụng các hình thức
thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm được diễn ra trong điều kiện bình thường của
cuộc sống, trong đó nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra các nhân tố tác động thực nghiệm giúp
cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung cần thực nghiệm. Tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu, người ta chia thực nghiệm tự nhiên thành thực nghiệm tự nhiên nhận định (nêu lên thực trạng
của vấn đề nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể) và thực nghiệm tự nhiên hình thành còn gọi là thực
nghiệm giáo dục (nhà nghiên cứu chủ động tiến hành các tác động giáo dục nhằm hình thành một
số phẩm chất tâm lý nào đó ở người được thực nghiệm).
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm đượ
c tiến hành dưới điều kiện
khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài. Người làm thí nghiệm tự tạo ra các
điều kiện làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần nghiên cứu. Vì thế có thể tiến hành
nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực nghiệm tự nhiên.
11
Tuy nhiên, dù thực nghiệm được tiến hành trong phòng thí nghiệm hay trong điều kiện tự
nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực
nghiệm, vì thế phải tiến hành thực nghiệm một số lần và phối kết hợp đồng bộ với nhiều phương
pháp nghiên cứu khác.
2.3.3. Phương pháp trắc nghiệm tâm lý (test)
Trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, người ta thường dùng test để đo nghiệm
các mức độ, trình độ phát triển tâm lý của con người.

Test là một phép đo luờng tâm lý đã được chuẩn hóa trên một số lượng người đủ là đại
diện tiêu biểu.
Khoa học tâm lý đã sử dụng một số test về trí tuệ, năng lực, nhân cách như:
- Test đo khả năng tâm vận động (Test Denver).
- Các test về trí tuệ: Gille, Binet-Simon, Wechsler, Raven
- Test về nhân cách: Eysenck, Murray, Rorschach
Test tâm lý có ưu điểm là đo trực tiếp các biểu hiện tâm lý qua việc giải các bài test, tiến
hành nhanh, đảm bảo lượng hóa, chuẩn hóa việc đo đạc. Song test tâm lý chỉ cho biết kết quả, ít
bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả. Test đòi hỏi phải chuẩn bị công phu,
đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của một bộ test. Vì vậy, cần sử dụng test như là một trong những
phương pháp chẩn đoán tâm lý con người ở một thời điểm nhất định.
2.3.4. Phương pháp điều tra
Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu
nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó, có thể trả lời viết (thường là như
vậy), nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại.
Câu hỏi dùng dể điều tra có thể là câu hỏi đóng (có nhiều đáp ánh sẵn để đối tượng lựa
chọn) hay câu hỏi mở để họ tự trả lời để điều tra thăm dò chung hau điều tra chuyên đề đi sâu vào
một khía cạnh.
Dùng phương pháp quan sát có thể trong một thời gian ngắn thu th
ập được một số ý kiến
lớn nhưng là ý kiến chủ quan. Để có tài liệu tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều
tra viên (người sẽ phổ biến bản câu hỏi cho các đối tượng). Có như vậy, kết quả thu được sẽ có giá
trị khoa học cao.
2.3.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp dựa vào các kết quả
, sản phẩm (vật chất hay tinh thần) của hoạt động
do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người, bởi vì trong sản phẩm do
con người làm ra có chứa đựng dấu vết tâm lý, ý thức, nhân cách của con người.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này cần chú ý tới các kết quả hoạt động và các kết
quả hoạt động này phải được xem xét trong mối liên hệ với những điều kiện tiến hành hoạt động.

2.3.6. Phương pháp đàm thoại ( trò chuyện)
12
Đây là phương pháp đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để trao đổi,
hỏi thêm nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp đàm thoại có thể tiến hành trực tiếp hay gián tiếp tùy sự liên quan của đối
tượng với điều ta cần biết. Có thể đặt câu hỏi thẳng hay hỏi đường vòng.
Muốn phương pháp đàm thoại có kết quả tốt, nhà nghiên cứu nên:
1. Xác định rõ mục đích, yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu).
2. Tìm hiểu trước một số đặc điểm về đối tượng đàm thoại.
3. Có kế hoạch trước để điều chỉnh câu chuyện theo mục đích đã dự định.
4. Nên linh hoạt trong việc điều chỉnh để câu chuyện vẫn giữ được lôgic, vừa đáp ứng
được yêu cầu của người nghiên cứu.
Trên đây là một số phương pháp cơ bản thường được dùng trong nghiên cứu của Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Mỗi phương pháp nghiên cứu đều có ưu điểm và hạn chế của
nó, vì vậy muốn nghiên cứu chức năng tâm lý nào đó một cách khách quan và khoa học đòi hỏi
nhà nghiên cứu phải:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp với vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để có được kết quả toàn diện,
khách quan.

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI, TÂM LÝHỌC SƯ PHẠM VỚI CÁC
KHOA HỌC KHÁC
Khi nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, cần sử dụng các thành tựu của
nhiều khoa học khác và đến lượt mình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm lại cung cấp
những tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho nhiều khoa học khác.
¾ Với Triết học: Các luận điểm của Triết học duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử đã cung
cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc nghiên cứu sự phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách của con người trong ho
ạt động, giao tiếp và trong các mối quan hệ xã hội.
Ngược lại, các thành tựu trong việc nghiên cứu tâm lý con người đóng góp không nhỏ cho

triết học. Các nhà triết học đã khẳng định: “Lịch sử phát triển trí tuệ của trẻ em là một
trong những lĩnh vực tri thức hợp thành lý luận nhận thức chung và phép biện chứng”.
¾ Với sinh lý học người: Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư ph
ạm thường sử dụng các
kết quả nghiên cứu về giải phẫu sinh lý người và hoạt động thần kinh cấp cao với tư cách là
cơ sở khoa học tự nhiên của tâm lý học.
¾ Với Tâm lý học đại cương: Tâm lý học đại cương cung cấp các khái niệm cơ bản, các quy
luật cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lý con người cho việc nghiên cứu Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngược lại, nhờ những thành tựu của hai chuyên ngành
13
tâm lý học này mà những khái niệm của Tâm lý học đại cương trở nên phong phú, sâu sắc
hơn.
¾ Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau,
bổ sung cho nhau một cách biện chứng. Hai chuyên ngành Tâm lý học này tạo thành một
thể thống nhất, khó tách bạch. Việc phân ranh giới giữa hai chuyên ngành này có tính
tương đối. Cả Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu sự hình thành và
phát triển tâm lý học trong hoạt động sống, trong quá trình dạy học và giáo dục, cùng phục
vụ đắc lực cho sự phát triển của con người.
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm cung cấp cơ sở lý luận cho các khoa học giáo
dục, đặc biệt là cho hoạt động dạy học và giáo dục học sinh.

4. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lý luận,
góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống lại những quan điểm duy tâm, phản khoa học về sự
nảy sinh, phát triển tâm lý con người, về nguồn gốc, động lực, các điều kiện hình thành và phát
triển tâm lý, khẳng định quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về sự phát triển tâm lý
con người.
Tâm lý học lứa tuổi cung cấp cơ sở khoa học cho Tâm lý học sư phạm cũng như các ngành
Tâm lý học khác trong việc tổ chức quá trình dạy học, giáo dục, quá trình hoạt động phù hợp với
các đặc điểm tâm lý lứa tuổi, tuân theo các quy luật hình thành, biểu hiện tâm lý, phát huy vai trò

của các yếu tố tâm lý cho phù hợp với mục đích, nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động, đem
lại hiệu quả về mặt công việc và về quan hệ con người. Trong lĩnh vực giáo dục con người, Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có vai trò đặc biệt quan trọng.
Những hiểu biết về đặc điểm tâm lý lứa tuổi, về quy luật hình thành, phát triển tâm lý trong
dạy học và giáo dục giúp học sinh, giáo viên và mọi người ở mọi lứa tuổi khác nhau có cơ sở trong
việc khéo léo ứng xử, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách, xây dựng tốt các mối quan hệ giao
lưu, quan hệ liên nhân cách, quan hệ xã hội. Ngoài ra, Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
còn có nhiều ý nghĩa thực tiễn đối với các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội như quân sự, an
ninh, thể thao, y tế, sản xuất, kinh doanh

5. LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ THEO LỨA TUỔI
5.1. Vấn đề phát triển tâm lý
Trong tâm lý học, v
ấn đề phát triển tâm lý được xem xét theo nhiều phương diện khác
nhau. Có thể khái quát vấn đề phát triển tâm lý theo ba phương diện cơ bản sau:
14
- Sự phát triển tâm lý trong giới động vật.
- Sự phát triển tâm lý trong lịch sử loài người và trong sự phát sinh cá thể con người (từ
trong bào thai cho đến khi tuổi già, trước khi chết).
- Sự phát triển tâm lý ở thế hệ trẻ (từ tuổi sơ sinh đến tuổi thanh niên).
Trong ba phương diện trên, phương diện thứ ba được nghiên cứu rộng rãi hơn.
Vậy thế nào là sự phát triển tâm lý ?
5.1.1. Phát triển là gì?
Phát triển là quá trình biến đổi của sự vật, hiện tượng từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức
tạp. Phát triển là quá trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình
nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân
sự vật, hiện tượng. Nói đến sự phát triển là nói đến s
ự thay đổi chuyển hóa về chất, tạo nên một
trình độ, một mức độ mới cao hơn về chất so với cái cũ.
Khái niệm phát triển liên quan và có sự phân biệt với các khái niệm tăng trưởng, chín muồi.

Cụ thể:
- Tăng trưởng chủ yếu là sự gia tăng về mặt số lượng của sự vật, hiện tượng như chiều
cao, cân nặ
ng
- Chín muồi được dùng để chỉ sự tăng trưởng đã đạt tới một độ nhất định. Chẳng hạn,
trước đây, khi nói tới sự chín muồi về mặt sinh học của nam và nữ, cha ông ta thường
nói nữ thập tam, nam thập lục (tuổi dậy thì ở nữ thường là 13 trở đi, ở nam thường kà
16 trở đi). Tuy nhiên, ngày nay độ chín muồi sinh dục ở nữ và nam có thể sớm hơn do
điều kiện sống và sự phát triển về mặt cơ thể thiếu niên diễn ra sớm hơn.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng, chín muồi và trưởng thành là mối quan hệ biện chứng có
tính nhân quả: Sự tăng trưởng, chín muồi dẫn đến sự biến đổi về chất (phát triển), chất lượng mới
lại tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và chín muồi ở mức cao hơn.
5.1.2. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý
Dựa trên quan điểm triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà tâm lý học khoa
học coi sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm tâm lý mới về chất, những
cấu tạo tâm lý mới ở những giai
đoạn lứa tuổi khác nhau. Bất cứ mức độ nào của trình độ phát
triển tâm lý đi trước cũng là sự chuẩn bị và chuyển hóa cho trình độ sau cao hơn. Sự phát triển tâm
lý diễn ra từ thấp tới cao, theo từng giai đoạn như một quá trình, trong đó có những bước nhảy,
những khủng hoảng và những đột biến. Sự phát triển tâm lý trong từng giai đoạn lứa tuổi phụ
thuộc vào hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó.
Khi đề cập tới sự phát triển tâm lý, nhà tâm lý học Nga A.N.Lêônchiev đã nêu lên ba
nguyên tắc cơ bản sau:
- Sự phát triển tâm lý là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm của loài người.
- Sự phát triển tâm lý là quá trình hình thành hệ thống các chức năng của não.
15
- Sự phát triển tâm lý trước tiên là sự phát triển trí tuệ, thực chất là sự hình thành các
hành động trí tuệ.
Cụ thể hóa ba nguyên tắc về sự phát triển tâm lý trên đây, A.N.Lêônchiev đã xem xét sự
phát triển tâm lý của con người như là:

- Quá trình con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử, thể hiện qua việc tiếp thu tri
thức cũng như phương thức hoạt động. Đây là mặt cơ bản, chủ yếu có tính chất quyết
định đối với sự phát triển tâm lý.
- Quá trình phát triển các cơ chế tâm lý của việc vận dụng các phương thức hoạt động và
vốn tri thức đã tiếp thu được vào các hoạt động cụ thể trong cuộc sống.
- Sự phát triển những thuộc tính chung của nhân cách, trong đó có các thuộc tính chung
có tác dụng quyết định nhất, đó là:
o Những thuộc tính chung của xu hướng nhân cách.
o Những đặc điểm, cấu trúc tâm lý trong hoạt động.
o Sự phát triển các cơ chế của ý thức.
Các chỉ số cơ bản của sự phát triển tâm lý: Theo quan điểm truyền thống, sự phát triển tâm lý
con người được đánh giá qua ba chỉ số cơ bản thể hiện ba mặt của đời sống tâm lý con người.
Đó là:
- Sự phát triển nhận thức: Chuyển từ sự phản ánh bề mặt của sự vật, hiện tượng riêng lẻ
tới nhận thức bản chất của chúng, vạch ra mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật, tới
những tri thức có hệ thống.
- Sự phát triển tình cảm: Tình cảm ngày càng mở rộng phạm vi, phân hóa phức tạp, có
nội dung xã hội cao hơn, có cơ sở lý tính đầy đủ hơn.
- Nắm vững hệ thống những hành động, hoạt động: Sự phát triển tâm lý con người biểu
hiện trong những biến đổi về chất lượng của hành động, hoạt động, từ không chủ định
lên chủ định, từ không có ý thức lên có ý thức. Các dạng hoạt động ngày càng phong
phú về nội dung, trình độ, cấu trúc và phương hướng.
Ngày nay, theo quan điểm hiện đại, người ta có cách nhìn mới mẻ về sự phát triển tâm lý
của trẻ, xem xét hành vi, hoạt động của trẻ xuất hiện như thế nào, có thể dự đoán được chiều
hướng biến đổi và sự hình thành phát triển các hành vi, hoạt động có tính quy luật theo sự biến đổi
của thời gian. Đó là sự biến đổi về chất ở con người. Liên quan chặt chẽ với khái niệm biến đổi về
chất là việc tổ ch
ức lại hành vi, hoạt động trong sự phối hợp chặt chẽ giữa sự tổ chức và sử dụng
khả năng phát triển của trẻ. Quá trình phát triển bao gồm những biến đổi về chất và sự tổ chức lại
hành vi theo độ tuổi, diễn ra theo trình tự, mang tính chất tích lũy và có sự định hướng. Cụ thể:

- Có trình tự tức là các biến đổi diễn ra theo một trình tự
lôgíc.
- Có tích lũy tức là một phần nào đó bao gồm tất cả những gì đã có trước đó, cộng thêm
với mức độ cao hơn.
16
- Có định hướng tức là sự phát triển luôn hướng tới một trình độ mới, cao hơn.
Sự phát triển tâm lý trẻ em không mang tính ngẫu nhiên mà diễn ra có quy luật. Trong quá
trình phát triển tâm lý của từng đứa trẻ có những điểm khác biệt, song bao giờ cũng có nét chung,
thống nhất cho mọi trẻ em. Tất cả trẻ em đều trải qua những bước hoặc những giai đoạn phát triển
nhất định. Trong một số trường hợp đặc biệt, trẻ em có thể phát triển sớm, phát triển muộn hoặc
phát triển không bình thường, đó là những trường hợp có những sai lệch trong sự phát triển tâm lý.
Về nhiều phương diện, trẻ em ngày nay phát triển nhanh hơn so với trước đây. Điều này là do sự
tiến bộ của các phương tiện thông tin đại chúng, các phương tiện kỹ thuật hiện đại, người lớn chú ý
nhiều hơn tới việc dạy dỗ và tạo điều kiện cho trẻ em tiếp xúc với cuộc sống mới.
5.1.3. Một số quan niệm chưa đúng về sự phát triển tâm lý
Quan điểm duy tâm nói chung xem sự phát triển tâm lý chỉ là sự chín muồi, trưởng thành của
các yếu tố sinh vật định sẵn từ trước trong gen di truyền. Sự phát triển tâm lý chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi về mặt chất lượng của các hiện tượng tâm lý như số lượng từ ngữ, khả năng nhớ, chú ý,
tốc độ hình thành kỹ xảo chứ không phải là sự chuyển biến về chất lượng. Sự phát triển tâm lý
diễn ra một cách tự phát, không tuân theo quy luật và cũng không thể điều khiển được. Quan điểm
chưa đúng này được thể hiện cụ thể ở một số học thuyết sau:
¾ Thuyết tiền định:
Những người theo thuyết tiền định xem sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật
gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi mới ra đời. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính
chất cá thể đều là tiền định (được quyết định trước), đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật và sự
phát triển chỉ là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và
được quyết định trước bằng con đường di truyền này. Chẳng hạn, S.Freud coi động lực của sự phát
triển tâm lý là các bản năng; J. ĐiUây xem nhu cầu và các thuộc tính tâm lý được sắp đặt sẵn trong
gen.
Học thuyết này cũng cho rằng, các yếu tố di truyền quyết định giới hạn của giáo dục. Môi

trường chỉ là yếu tố điều chỉnh,
yếu tố thể hiện, một nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà Tâm lý học
người Mỹ E.Thorndike cho rằng: “Tự nhiên bạn cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần
phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất” và “vốn tự nhiên”
đó đặt ra giới hạn cho sự phát tri
ển, cho nên “một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả
nào đó dù có giảng dạy tốt, số khác lại toẻ ra có thành tích dù giảng dạy tồi”
1
.
Như vậy, với quan niệm như trên, vai trò của yếu tố giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là
nhân tố bên ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự
nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Vì vậy, thuyết tiền định đã có kết luận sư phạm sai lầm khi
xem mọi sự can thiệp vào quá trình tự nhiên của trẻ đều là s
ự tuỳ tiện không thể tha thứ được.

1
Theo V.A. Cruchetxki, Những cơ sở tâm lý học sư phạm. Nxb giáo dục Hà Nội. T1. Tr31. 1980
17
Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng những quan điểm của thuyết tiền định về nguồn gốc
của sự phát triển tâm lý còn có nhiều hạn chế. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên trẻ sinh đôi từ
một trứng do các nhà tâm lý học Liên Xô (trước đây) như V.V.Cônbannôpxki, A.R.Luria,
A.N.Mirênôva và nhà tâm lý học người Pháp R.Razjô đã chỉ ra rằng với cơ sở bẩm sinh giống
nhau, tuỳ thuộc vào phương pháp dạy học, các trẻ sinh đôi từ một trứng thể hiện những khả năng
khác nhau về năng lực.
Trên thực tế, yếu tố bẩm sinh có vai trò quan trọng, được xem như tiền đề vật chất của sự
phát triển tâm lý con người, chúng không hoàn toàn định sẵn từ trước mọi khả năng phát triển tâm
lý. Trong cùng tiền đề vật chất như nhau, nhưng do sự tác động của giáo dục, sự rèn luyện và mức
độ tích cực hoạt động khác nhau, con người khác nhau về sự phát triển tâm lý.
¾ Thuyết môi trường
Đối lập với thuyết tiền định, những người theo thuyết môi trường giải thích sự phát triển

tâm lý bằng tác động của môi trường tự nhiên, hoàn cảnh sống xung quan con người. Họ xem môi
trường là nhân tố quyết định sự phát triển tâm lý con người.
Thuyết môi trường bắt nguồn từ nước Anh, họ coi trẻ em sinh ra như tờ giấy trắng, như
tấm gỗ mộc hoặc tấm bảng sạch sẽ, sự phát triển tâm lý hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên
ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ lên tờ giấy cái gì thì nó nên thế …
Chủ nghĩa Mac-Lênin đã khẳng định vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của con người với
tư cách là chủ thể hoạt động, coi hoàn cảnh, môi trường có vai trò nhất đinh đối với sự phát triển
tâm lý con người và con người không hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh. C.Mác nói: “Hoàn cảnh
có tác dụng cải tạo con người trong chừng mực, con người tác động đến hoàn cảnh”. Hoạt động
của con người mà cơ bản là hoạt động lao động đã cải tạo thế giới, sáng tạo ra thế giới và cải tạo
chính bản thân con người.
¾ Thuy
ết hội tụ hai yếu tố
Khi nghiên cứu sự phát triển tâm lý trẻ em, các nhà tâm lý học theo thuyết hội tụ hai yếu tố
tính tới tác động của cả hai yếu tố môi trường và di truyền. Ví dụ như nhà di truyền học người Anh
S.Auerbac cho rằng: “Trình độ phát triển trí tuệ, những năng lực chuyên biệt, những phẩm chất cá
nhân, tất cả những cái đó là kết quả của s
ự tác động qua lại giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi
trường”. Nhà tâm lý học người Đức V.Stecnơ và nhà tâm lý học người Mỹ Anataxi coi cả hai yếu
tố di truyền và môi trường cùng quyết định sự phát triển tâm lý con người. Họ quan niệm rằng, cả
hai yếu tố này hội tụ lại cùng quyết định một cách máy móc sự phát triển tâm lý, trong đó yếu tố di
truyền giữ vai trò quyết định, môi tr
ường chỉ là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được
định sẵn trong gen di truyền thành hiện thực.
Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém thuyết tiền định và thuyết môi trường.
Tính chất máy móc và siêu hình của các quan điểm trên đều đã bị phê phán.
18
Tóm lại, mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên có vẻ khác nhau
nhưng thực chất quan điểm của các tác giả đó đều có những sai lầm giống nhau. Cụ thể:
- Các quan điểm trên đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người hoặc là bất biến, hoặc là

tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền quyết định, hoặc là do ảnh hưởng của môi
trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em của tầng lớp có
đặc quyền đặc lợi đều có trình độ phá triển tâm lý hơn hẳn con em giai cấp bị bóc lột. Do
vậy, sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên và hợp lý.
- Các tác giả này đánh giá không đúng vai trò của yếu tố giáo dục. Họ xem xét sự phát triển
của trẻ em một cách tác rời và không phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể mà trong đó
quá trình ấy diễn ra. Do vậy, họ đều đánh giá thấp vai trò của yếu tố giáo dục, xem nhẹ
nhân tố xã hội lịch sử.
- Cả ba trường phái trên đều phủ nhận tính tích cực hoạt động của từng cá nhân, coi thường
những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển của cá nhân. Họ
coi trẻ em như
là một thực thể thụ động, tự nhiên, cam chịu ảnh hưởng có tính chất quyết
định của nhân tố di truyền và môi trường. Họ không thấy được, con người là một thực thể
xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên, có thể cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân để phát
triển nhân cách. Vì phủ nhận tính tích cực hoạt động của con người nên họ không thể giải
thích tại sao trong nhữ
ng điệu kiện của cùng một môi trường xã hội lại hình thành nên
những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ số, hoặc vì sao những người giống nhau về ngoại
hình nhưng thế giới nội tâm, nội dung và hình thức hành vi lại được hình thành trong
những môi trường xã hội khác nhau.
Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, yếu tố bẩm sinh di truyền là những yếu tố thể chất -
tiền đề vật chất của tâm lý, không định sẵn tâm lý. Hoàn cảnh sống có vai trò quan trọng, nhưng
hoàn cảnh xã hội, nền văn hoá xã hội quyết định tâm lý con người, trong đó giáo dục là yếu tố chủ
đạo, hoạt động của cá nhân mỗi người là yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển tâm lý con người.
5.2. Điều kiện, quy luật và động lực của phát triển tâm lý
5.2.1. Điều kiện phát triển tâm lý
5.2.1.1. Điều kiện thể chất
Đặc điểm cơ thể, đặc điểm của các giác quan của hệ thần kinh được xem là tiền đề vật chất,
điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho việc hình thành một hoạt động nào đó. Song các đặc
điểm thể chất của con người không phải là nhân tố quyết định, không phải là động lực của sự phát

triển tâm lý.
5.2.1.2. Các điều kiện sống
Các điều kiện sống có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của con người, nhưng chúng
không quyết định trực tiếp đến sự phát triển tâm lý mà chúng tác động thông qua mối quan hệ qua
lại giữa con người với hoàn cảnh. Các ảnh hưởng bên ngoài tác động gián tiếp đến sự phát triển
19
tâm lý cá nhân thông qua những điều kiện bên trong của con người, trong đó có kinh nghiệm riêng
và vai trò chủ thể của cá nhân.
Trong các nhân tố của cuộc sống, trước hết phải nói tới vai trò của vốn kinh nghiệm xã hội,
nền văn hoá xã hội, các mối quan hệ xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Bản chất của con người là sự tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”. Điều đó có nghĩa là những đặc điểm tâm lý của cá nhân được quyết
định bởi đặc điểm các mối quan hệ xã hội mà cá nhân con người gia nhập vào đó với tư cách là
thành viên của xã hội. Quá trình phát triển tâm lý là quá trình con người lĩnh hội nền văn hóa xã
hội, vốn kinh nghiệm xã hội, quá trình con người tiếp nhận nền văn hoá theo con đường tự phát và
tự giác. Con đường tự giác được thể hiện qua giáo dục, đó là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch, có phương pháp nhằm hình thành ở con người những phẩm chất nhân cách, đáp ứng các
yêu cầu của xã hội. Vì vậy, giáo dục là nhân tố chủ đạo, quyết định sự phát triển tâm lý của con
người.
5.2.1.3. Tính tích cực hoạt động của con người
Tính tích cực hoạt động của con người là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển tâm lý.
Quá trình tác động qua lại giữa con người và môi trường được tiến hành thông qua chính hoạt
động của con người trong môi trường đó. Hoạt động của con người có tính mục đích, tính xã hội
được xem là điều kiện quyết định sự phát triển tâm lý.
5.2.2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý
5.2.2.1. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
Trong những điều kiện, thậm chí ngay trong những điều kiện thuận lợi nhất của việc giáo
dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau … cũng không thể phát triển ở
mức độ như nhau. Có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hoạt động tâm lý
nào đó. Chẳng hạn, giai đoạn thuận lợi cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 đến 5 tuổi, cho sự
hình thành nhiều kỹ xảo vận động là khoảng từ 6 đến 11 tuổi, cho sự hình thành t

ư duy toán học là
giai đoạn từ 15 - 20 tuổi.
Ngay trong sự phát triển cơ thể trẻ cũng thể hiện tính không đồng đều. Ví dụ, chiều cao và
trọng lượng của trẻ tăng nhanh trong 2 năm đầu sau khi sinh và trong thời kỳ phát dục.
Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý còn thể hiện ở chỗ có sự khác biệt về sự phát
triển tâm lý giữa các cá nhân ngay trong cùng một độ tuổi. Các chức năng tâm lý và ngay cả các
nét tâm lý cá nhân của trẻ em khác nhau cũng không đạt một mức độ như nhau (dù chúng ở cùng
một độ tuổi).
5.2.2.2. Tính toàn vẹn của tâm lý
Cùng với sự phát triển, tâm lý con người có tính toàn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát
triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý
trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp thiếu hệ thống, những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể
hiện ở chỗ những tâm trạng đó dần chuyển thành các nét nhân cách. Chẳng hạn, tâm trạng vui vẻ,
20
thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung, phù hợp với lứa tuổi nếu được lặp lại thường
xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu lao động.
Tính toàn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành vi của trẻ. Cùng
với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở
nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và ngày càng bộ lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo thường
hành động vì muốn thoả mãn một điều gì đó và động cơ thay đổi luôn trong một ngày. Nhưng
thiếu niên và thanh niên thường hành động do động cơ xã hội, do tinh thần nghĩa vụ, do sự phát
triển toàn diện của bản thân … thúc đẩy.
5.2.2.3. Tính mềm dảo và khả năng bù trừ
Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẻo. Vì thể, dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà
tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em.
Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ. Khi mỗi chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó
yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được tăng cường phát triển mạnh hơn để bù đắp
hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu hoặc bị hỏng đó. Ví dụ, khuyết tật thị giác được bù
đắp bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động thính giác, khứu giác; trí nhớ kém có thể được bù trừ
bằng tính tổ chức cao, tính chính xác trong hoạt động.

Trên đây là một số quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em. Những quy luật này chỉ
mà một xu thế mà sự phát triển tâm lý của trẻ có thể xảy ra và chúng có sau so với ảnh hưởng của
môi trường (trong đó có giáo dục). Sự phát tri
ển và ngay cả tính độc đáo của những xu thế đó cũng
phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ (trước hết là giáo dục). Sự phát triển tâm lý của trẻ không
tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy luật xã hội. Dù bộ óc có tinh vi đến đâu đi chăng nữa
nhưng không sống trong xã hội loài người, không được hưởng sự giáo dục và dạy dỗ của thế hệ
trước thì trẻ cũng không thể trở thành nhân cách. Do vậy, nắm được các quy luật nói trên, người
lớn và các nhà giáo dục cần tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tâm lý của trẻ.
5.2.3. Động lực của sự phát triển tâm lý
Sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, giữa các mâu thuẫn bên trong. Vì vậy,
động lực của sự phát triển là sự nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết các mâu thuẫn đó.
Trong sự phát triển tâm lý trẻ em thì đó là các mâu thuẫn biện chứng giữa cái mới và cái
cũ; giữa cái đang được nảy sinh, đang được khắc phục trong quá trình dạy học và giáo dục; mâu
thuẫn giữa nhu cầu mới nảy sinh do hoạt động và khả năng thoả mãn chúng; mâu thuẫn giữa khả
năng của trẻ đang được phát triển trong những hình thức của các mối quan hệ đã được hình thành
và các hình thứ
c hoạt động cũ; mẫu thuẫn giữa những yêu cầu ngày càng tăng của xã hội, của tập
thể, của người lớn với trình độ phát triển tâm lý hiện tại của trẻ ….
Việc nảy sinh các mâu thuẫn và việc trẻ em tích cực giải quyết các mâu thuẫn đó dưới sự
hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát triển. Tất nhiên,sự phát
triển tâm lý của trẻ không phẳng lặng mà đầy biến động trong đó có những cuộc khủng hoảng và
21
đột biến tạo ra sự nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển tâm lý của trẻ (khủng hoảng ở lứa tuổi
lên ba, ở tuổi thiếu niên 14-15 tuổi …).
5.3. Dạy học và sự phát triển tâm lý
Quan niệm cho rằng dạy học có tác dụng phát triển học sinh đã được thể hiện ở nhiều nhà
giáo dục kiệt xuất như J.J.Rutxô, I.G.Pextalôzi, A. Đixtecvec, K. Đ. Usinxki … Chẳng hạn, K.D.
Usinxki cho rằng có hai cách tác động đến sự phát triển trí tuệ học sinh, đó là:
- Qua quá trình thu nhận tri thức mà trí tuệ được rèn luyện.

- Hướng nhiều hơn vào chính bản thân sự phát triển, học sinh phải lĩnh hội một tài liệu học
tập nhất định. Con đường này dẫn đến hình thành tư duy lôgic.
Trong các quan điểm về mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ, có nhiều quan
điểm khác nhau, như tựu chung l
ại có ba loại quan điểm cơ bản sau:
- Phát triển trí tuệ là quá trình độc lập, có những quy luật riêng, không phụ thuộc vào dạy
học (Jêmx, J.Piaget …).
- Sự phát triển trí tuệ là kết quả tác động của nhiều yếu tố. Dạy học có vai trò điều chỉnh mối
liên hệ giữa các chức năng tâm lý (B.G.Ananhiev) …
- Dạy học là hình thức tất yếu bên trong và chung nhất quyết định sự phát tri
ển trí tuệ. Sự
phát triển trí tuệ là qúa trình có bản chất xã hội lịch sử. Các giai đoạn phát triển và các đặc
điểm tâm lý cá nhân bị quy định bởi hệ thống tổ chức và cách thức truyền đạt cho cá nhân
kinh nghiệm xã hội (L.X.Vưgôtxki, A.N.Lêônchiev).
Quan điểm cơ bản của L.X.Vưgôtxki là:
- Sự phát triển tâm lý của con người mang bản chất xã hội. Sự phát triển không chỉ quy vào
việc nắm tri thức, kỹ năng và sự phát triển diễn ra trong quá trình dạy học mà còn đem lại
những đặc điểm mới và cấu tạo lại các chức năng tâm lý.
- Đặc điểm nổi bật của tuổi đi học là xuất hiện và phát triển tính có ý thức, tính có chủ định
của các quá trình tâm lý đang xuất hiện và phát triển.
- Dạy học và giáo dục đi trước sự phát tri
ển; phát triển vừa là kết quả, vừa là chức năng của
dạy học và giáo dục. Dạy học phải hướng vào vùng phát triển gần nhất, hướng vào sự hình
thành những cấu tạo tâm lý mới sẽ có ở người học.
Một mặt, L.X.Vưgôtxki chỉ rõ giữa dạy học và phát triển trí tuệ có mối quan hệ chặt chẽ,
mặt khác ông cũng không bỏ qua quy luật nội tại của bản thân sự phát triển tâm lý trẻ em. Các quá
trình nội tại của sự phát triển do dạy học sản sinh ra là lôgic của chúng.
Sau L.X.Vưgôtxki, nhiều nhà tâm lý học Liên Xô (trước đây) đã đặc biệt chú ý đến mối
quan hệ giữa dạy học và sự phát triển tâm lý. Các nhà khoa học đã chỉ rõ vai trò chủ đạo của dạy
học và giáo dục đối với sự phát triển tâm lý. Tuy nhiên, họ cũng nhấn mạnh vai trò chủ động, tích

cực của bản thân trẻ. Ở một mức độ nhất định, con người có khả năng tự giáo dục dưới sự chỉ đạo
của, hướng dẫn của nhà giáo dục và những người xung quanh. Để giữ được vai trò chủ đạo, giáo
22
dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát triển chứ không chờ đợi sự phát triển. Giáo dục
phải đi trước một bước, đón trước sự phát triển, tạo điều kiện cho trẻ tích cực, chủ động giải quyết
mọi mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển của trẻ tới mức cao hơn.
5.4. Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý
5.4.1. Quan niệm về sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý
Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý là một trong những vấn đề quan trọng của Tâm
lý học lứa tuổi.
Trong thực tế, khi xem xét sự phát triển của con ngưòi dưới khía cạnh nguồn gốc phát sinh
cá thể, các nhà tâm lý học phát triển cho rằng, sự nảy sinh, hình thành những mầm mống tâm lý
của con người có từ trong thời kỳ bào thai. Từ đó nảy sinh vấn đề thai giáo, tiếp cận thai nhi từ
trong bụng mẹ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề này còn nhiều tranh luận, vẫn chưa có thể khái
quát những đặc điểm tâm lý thai nhi. Vì vậy, trong bài giảng này chỉ bàn đến sự phân chia giai
đoạn phát triển tâm lý từ khi con người sinh ra cho đến tuổi già.
Tuân theo nguyên lý chung của mọi sự phát triển, sự phát triển tâm lý của con người từ khi
sinh ra cho đến khi qua đời trải qua nhiều giai đoạn (còn gọi là giai đoạn lứa tuổi). Việc xác định
chính xác các giai đoạn phát triển tâm lý, tìm ra các quy luật đặc thù của sự phát triển tâm lý trong
từng giai đoạn cũng như quy luật và cơ chế chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang giai đoạn lứa
tuổi khác có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Sự phát triển tâm lý của con người về
phương diện cá thể là một quá trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ, mức độ này sang cấp độ, mức
độ khác. Ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm lý đạt tới chất lượng mới và diễn ra theo các quy
luật đặc thù.
Xung quanh việc phân chia giai đoạn phát triển tâm lý có nhiều quan điểm khác nhau như:
¾ Quan điểm sinh vật hoá coi sự phát triển tâm lý tuân theo các quy luật tự nhiên của sinh
vật, mang tính bất biến và được chia ra một cách tuyệ
t đối về các giai đoạn lứa tuổi.
¾ Chủ nghĩa hành vi không thừa nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sự phát triển tâm lý chỉ là
tính kỹ xảo hành vi, vì vậy không có sự phân chia phát triển tâm lý theo giai đoạn lứa tuổi.

¾ Trái lại, các nhà tâm lý học Macxit có quan niệm đúng đắn về lứa tuổi và sự phát triển tâm
lý theo giai đoạn lứa tuổi.
Chẳng hạn: L.X.Vưgôtxki coi lứa tuổi như là một thời kỳ, một mức độ phát triển nhất định,
có ý nghĩa đối với sự phát triển chung của con người. L.X.Vưgôtxki căn cứ vào những thời điểm
mà sự phát triển tâm lý có những đột biến để xác định thời kỳ phát triển tâm lý theo quan điểm xã
hội lịch sử. Đặc điểm tâm lý ở mỗi giai đoạn lứa tuổi được quyết định bởi một tổ hợp nhiều yếu tố
như các đặc điểm của hoàn cảnh sống, các đặc điểm cơ thể, đặc điểm của các yêu cầu đề ra cho trẻ
ở giai đoạn đó, do mối quan hệ của trẻ với thế giới xung quanh, trình độ tâm lý mà trẻ đã đạt được
ở giai đoạn trước đó …
23
Các nhà tâm lý học Macxit cũng chỉ rõ mối liên hệ giữa trình độ phát triển của quan hệ
quan hệ với thế giới xung quanh, trình độ phát triển của các tri thức, các phương thức, các năng lực
quyết định thời kỳ lứa tuổi.
Sự biến đổi các điều kiện sống của trẻ, sự biến đổi các hình thức dạy học và giáo dục là
nhân tố cơ bản quyết định đặc điểm lứa tuổi.
Nhà tâm lý học A.N.Lêônchiev chỉ ra rằng, sự phát triển tâm lý của con người gắn liền với
sự phát triển hoạt động, trong đó hoạt động chủ đạo ở mỗi giai đoạn lứa tuổi có tính quyết định.
Lứa tuổi chỉ có ý nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ. Tuổi
không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung,
đặc trưng, điển hình cho lứa tuổi đó, nói lên xu hướng phát triển chung. Lứa tuổi không phải là
phạm trù tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuổi có thể phù hợp với
trình độ phát triển của trẻ, có thể đi trước hoặc chậm hơn sự phát triển. Dạy học và giáo dục phải
hướng trẻ vào vùng phát triển gần nhất của trẻ. Giúp trẻ đạt mức độ phát triển cao hơn.
5.4.2. Các gia đoạn phát triển tâm lý theo lứa tuổi
Có nhiều cách phân chia giai đoạn phát triển tâm lý theo lứa tuổi.
5.4.2.1. Căn cứ theo sự phát triển tư duy của trẻ từ lúc sinh ra đến tuổi thiếu niên
Theo cách phân chia này, J.Piaget đã chia sự phát triển của trẻ em thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn cảm giác vận động (giác động): từ sơ sinh đến 2 tuổi
- Giai đoạn tư duy tiền thao tác: từ 2 tuổi đến 7 tuổi
- Giai đoạn thao tác cụ thể: từ 7,8 tuổi đến 11,12 tuổi

- Giai đoạn thao tác hình thức: từ 11,12 tuổi đến 14,15 tuổi
5.4.2.2. Căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của con người, sự trường thành về cơ
thể, những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của con người. Theo cách phân chia
này thì sự phát triển tâm lý của con người theo các giai đoạn lứa tuổi sau:
¾ Giai đoạn sơ sinh và hài nhi (từ 0-1 tuổi): Hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người
lớn, trước hết là người mẹ chiếm vị trí hàng đầu, quyết định sự hình thành và phát tri
ển tâm
lý của trẻ. Giai đoạn này gồm hai thời kỳ:
- Thời kỳ sơ sinh: 2 tháng đầu tiên sau khi sinh
- Thời kỳ tuổi hài nhi: từ 2 tháng đến 1 năm
¾ Giai đoạn trước tuổi học (1 tuổi đến 6 tuổi), gồm tuổi vườn trẻ và tuổi mẫu giáo
- Tuổi vườn trẻ (từ 1 tuổi đến 3 tuổi): hoạt động với đồ vật giữ vai trò chủ đạo, sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi này là thành tựu nổi bật, xuất hiện những
tiền đề của sự hình thành nhân cách.
- Tuổi mẫu giáo (từ 3 tuổi đến 6 tuổi): vui chơi trở thành hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi
này, ở trẻ có sự phát triển mạnh về trí lực, nhân cách.
¾ Giai đoạn tuổi đi học, có thể chia thành 4 thời kỳ sau:
24
- Thời kỳ đầu tuổi học (từ 6 tuổi đến 11 tuổi - nhi đồng hoặc học sinh tiểu học): Hoạt
động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh nhỏ. Thời kỳ này ở trẻ phát triển
mạnh về nhận thức, tình cảm, ý chí, ý thức và nhân cách.
- Thời kỳ giữa tuổi học (từ 12 tuổi đến 15 tuổi - thiếu niên hoặc học sinh trung học cơ
sở): Đây là quãng đời diễn ra những biến cố rất đặc biệt, xuất hiện những khủng
hoảng, xu hướng vươn lên làm người lớn. Ở lứa tuổi này, hoạt động chủ đạo là học
tập và quan hệ giao tiếp với bạn. Lứa tuổi này có sự phát triển mạnh về nhận thức
trí tuệ, tình cảm, ý chí và các phẩm chất nhân cách.
- Thời kỳ cuối tuổi học sinh (từ 15 tuổi đến 17,18 tuổi - đầu tuổi thanh niên hoặc học
sinh trung học phổ thông): Sự phát triển thể chất đang hoàn chỉnh, có sự trưởng
thành về giới tính, vai trò xã hội của trẻ thay đổi rõ rệt; hoạt động học tập gắn liền
với xu hướng học lên, xu hường chọn nghề, vào đời; sự phát triển trí tuệ ở mức cao,

có sự phát triển mạnh về tự ý thức, tự đánh giá, thể hiện rõ ý thức nghề nghiệp và sự
chuẩn bị cho cuộc sống tương lai; thể hiện rõ tính tích cực xã hội, hình thành mạnh
mẽ thế giới quan; đời sống tình cảm phong phú, đa dạng, tình bạn có cơ sở lý trí và
khá bền vững, nảy sinh tình yêu nam nữ.
- Thời kỳ sinh viên (từ 18,19 tuổi đến 24,25 tuổi): Sự phát triển thể chất ở mức độ
hoàn thiện, vai trò xã hội của sinh viên thể hiện rõ nét, hoạt động của sinh viên
mang tính nghề nghiệp, chính trị xã hội, văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao … thể
hiện rõ năng lực tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục, phát triển định hướng giá trị
nhân cách và định hướng giá trị xã hội.
¾ Giai đoạn tuổi trưởng thành (từ 24,25 tuổi đến 45,50 tuổi)
Cuộc sống lao động nghề nghiệp và cuộc sống gia đình, nghĩa vụ gia đình và nghĩa vụ xã
hội nặng nề hơn.
¾ Giai đoạn người có tuổi (từ 50-55 tuổi trở đi)
Là tuổi con người giàu kinh nghiệm sống và cống hiến nhiều nhất cho xã hội, bắt đầu xuất
hiện dấu hiệu khủng hoảng giữa đời, thể hiện sự chậm chạp. Từ 60 tuổi trở đi xuất hiện sự thoái
hoá dần các cơ quan nội tạng như hệ thần kinh. Xuất hiện một số bệnh tuổi già như giảm trí nhớ,
phản ứng chậm chạp, có hội chứng về hưu …
Như vậy, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lứa tuổ
i nói trên có những đặc điểm tâm lý đặc trưng.
Sự chuyển từ thời kỳ này, giai đoạn này sang thời kỳ khác, giai đoạn khác gắn liền với sự xuất hiện
những cấu tạo tâm lý mới của nhân cách.

25
CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích quan điểm của thuyết tiền định về sự phát triển tâm lý. Thuyết tiền định có điểm gì
cần phê phán ?
2. Những người theo thuyết môi trường quan niệm như thế nào về sự phát triển tâm lý ? Họ đã có
sai lầm ở điểm nào trong học thuyết của mình ?
3. Từ việc phân tích quan điểm của thuyết hội tụ hai yếu tố về sự phát triển tâm lý, hãy rút ra

những kết luận sư phạm phần thiết cho hoạt động dạy học và giáo dục.
4. Phân tích những sai lầm cơ bản của thuyết tiền định, thuyết môi trường và thuyết hội tụ hai yếu
tố về sự phát triển tâm lý, từ đó rút ra những kết luận sư phạm cần thiết cho hoạt động dạy học và
giáo dục.
5. Phân tích luận điểm cơ bản của tâm lý học duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý con người,
từ đó hãy rút ra những kết luận sư phạm cần thiết cho hoạt động dạy học và giáo dục.
6. Phân tích vai trò của yếu tố bẩm sinh di truyền, giáo dục, hoạt động của cá nhân đối với sự phát
triển tâm lý theo quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng, từ đó hãy rút ra những kết luận sư
phạm cần thiết cho hoạt động dạy học và giáo dục.
7. Trình bày quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em.
8. Phân tích mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển tâm lý.
9. Trình bày sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em và các hoạt động chủ đạo ứng với
các giai đoạn phát triển đó.
10. Tại sao nói giai đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa tương đối? Cho ví dụ minh hoạ.

×