Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

tiểu luận những vấn đề cốt lõi trong nghiên cứu của sự đổi mới và cách tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.53 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI

ĐỀ TÀI :
NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI TRONG
NGHIÊN CỨU CỦA SỰ ĐỔI MỚI VÀ
CÁCH TÂN

Thầy hướng dẫn :
TS. Nguyễn Hữu Lam
ThS. Trần Hồng Hải
Nhóm 1:
1. Đào Hùng Anh
2. Trần Thái Bảo
3. Huỳnh Gia Xuyên
4. Nguyễn Thành Sơn
-1-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI TRONG NGHIÊN CỨU CỦA SỰ ĐỔI
MỚI VÀ CÁCH TÂN.
Quyển sách này chứa đựng các vấn đề đậm chất lý thuyết, đứng trên góc độ
phân tích từng phần riêng biệt và sẽ dọc thời gian với quá trình thay đổi và
đổi mới một cách trải rộng. Giống như các lý thuyết khác, điểm quan trọng
nhất khi nhìn vào là sự đa dạng về ý tưởng và các thành phần của vấn đề
này. Nhưng khi chúng ta nhìn lại xa hơn, về chuẩn mực và vấn đề trung tâm
thì vấn đề này là khâu chính của chương này.
Thông suốt cuốn sách ba câu hỏi cơ bản được thể hiện chúng như sau:


 Bản chất của sự thay đổi là gì?
 Chúng ta nghiên cứu sự thay đổi và cách t ân như thế nào?
 Vấn đề chính gì của lý thuyết cốt lõi cho sự thay đổi và cách tân nên
kết hợp như thế nào?
Chương này sẽ cho nhiều câu trả lời cho các câu hỏi đó và cân nhắc các mối
liên quan của chúng đến việc nghiên cứu tương lai trong sự thai đổi và cách
tân của tổ chức. đồng thời củng bàn đến nhiều lý thuyết trong quyển sách và
sự liên hệ của chúng đến từng lý thuyết một với nhau thông qua sự nhận biết
vị trí của chúng có liên quan đến các câu hỏi trên như thế nào.
Chương này được cơ cấu thông qua ba câu hỏi trên. Và chương kế tiếp sẽ
bàn về ba quan điểm về bản chất của thay đổi và cách tân đồng thời cân nhắc
các lý thuy ết có liên hệ thế nào đến việc trả lời các câu hỏi đó. Ba phương
pháp tiếp cận đến thay đổi và cách tân sẽ cho các hướng khác nhau để giải
quyết các hiện tượng thực tế của sự thay đổi và cách tân. Sau đó chúng ta
chuyển đến các mô hình của việc nghiên cứu sự thay đổi và cách t ân. Có ba
phương pháp nghiên cứu là, nghiên cứu sự khác biệt, nghiên cứu quy trình,
và nghiên cứu theo mô hình. Chúng sẽ cho ta các kết quả về sự thay đổi và
cách tân. Phương pháp diễn giải của các mô hình sẽ cho chúng ta các cơ sở
lý thuyết mà chúng thực hiện. Trong phần thứ ba của cuốn sách chúng ta sẽ
bàn về các khía cạnh chính yếu của sự thay đổi và cách tân của các tổ chức,
về lý thuyết cách t ân, các mức độ phân tích, về thời điểm. Ba vấn đề này là
tiêu chuẩn chung cho các phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực này. Chúng
-2-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
tôi mô tả các su hướng hiện hành và các ưu điểm của sự thay đổi dựa trên 3
mặt này và đưa ra các đề xuất về các đặt tuyến có thể trong tương lai cho sự
phát triển. Trong chương củng chứa đựng các lý thuyết khác nửa mà không
được nhắc đến nhiều trong các chương về sau.

Bản chất của thay đổi là gì?

M ột người có thể trả lời câu hỏi này như thế nào dựa trên lý thuyết về sự
thay đổi và cách tân của tổ chức. Coi vị trí của sự thay đổi cần một lý thuy ết
nói lên diện mạo của sự thay đổi và cách tân và để làm lệch đi sự chú ý của
các lý thuyết khác. Sự thay đổi là một hiện tượng đa dạng mà các phương
pháp đều cố gắn giới hạn chúng. Nhưng khi nhìn vào với từng mặt của vấn
đề chúng ta có thể thấy một số câu trả lời rất nổi bật, nhưng ở đây chúng tôi
sẽ trả lời câu hỏi này với ba lời giải đáp. Mỗi câu trả lời sẽ tập trung trên
từng khía cạnh một của sự thay đổi và cách tân. Trong khi không có câu trả
lời nào là hoàn thiện cho mọi góc cạnh của sự thay đổi cả. N hưng nếu t ập
trung chúng lại thì chúng ta có thể chỉ ra một lý thuyết cho sự thay đổi và
cách tân.

Lý thuyết của sự thay đối với lý thuyết thay đổi.
Định nghĩa chủ yếu của sự thay đổi và cách tân là mô tả vai trò của con
người trong các quy trình. Theo Binnis’s (1966) có sự vượt trội trong các lý
thuyết, đã tập trung vào vấn đề thế nào là sự thay đổi của tổ chức và tìm ra
các nhân tố của sự thay đổi, và lý thuy ết thay đổi thì đã đề cập đến sự thay
đổi có thể như thế nào và bằng cách nào có thể quản lý được chúng trong tổ
chức đã tỏ ra rất hữu ích. Cách đề cập này đã chỉ ra vai trò của con người
trong sự thay đổi của tổ chức trong điều kiện tập trung vào việc có hay
không có hoạch định về thay đổi đã bàn bạc bởi Seo tại chương 4. Hoạch
định sự thay đổi là một sự hình thành có chủ ý và hoạch định sự thay đổi có
hiệu quả như thế nào trong lý thuy ết sự thay đổi. Có một quy cách để thực
hiện hoạch định sự thay đổi; thay đổi để cải thiện hiện trạng và đạt đến một
điểm mà có trạng thái ổn định hơn. Mặt khác, sự không hoạch định có thể có
-3-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
hay không ảnh hưởng bởi nhân tố con người. Nó có thể làm cho tổ chức có
thể đạt đến một trạng thái tốt hay xấu. Sự tương phản giữa hoạch định và
không hoạch định sự thay đổi tập trung vào sự chú ý ở sự suy giảm trong

vấn đề dàng dựng, xây dựng hay điều khiển, lý thuyết của hoạch định sự
thay đổi chỉ rỏ phương hướng để thành công và điều khiển quy trình của sự
thai đổi. Lý thuyết về sự không hoạch định sự thay đổi, xét trên một phương
diện nào đó, cho thấy rằng thay đổi là làm suy giảm lực cho việc bị ám ảnh
bởi sự thay đổi nhưng không cần thiết phải có hoạch định hay quản lý nó.
Trong khi sự hoạch định hay không hoạch định sự thay đổi có thể được nhìn
từ góc độ ngược lại. Thì thật là hữu ích khi chúng ta cân nhắc chúng cùng
một lúc. Tất cả sự hoạch định thay đổi xảy ra trong một quy trình bản chất
trong mọi tổ chức. Ví dụ như, một chiến lược quy trình hoạch định cho sự
thay đổi cho một tổ chức xảy ra trong một tổ chức sẽ diễn ra do chính vòng
đời của nó và cũng có liên quan đến một phần của của các tổ chức khác. Sự
giao nhau của ba quy trình thay đổi đó, một hoạch định và hai quy trình
không hoạch định, sẽ tạo nên hình thù của tổ chức và sự hiểu biết của quy
trình thay đổi xung quanh có thể cho phép nhà quản trị đưa ra chiến lược
một cách hiệu quả hơn. N gược lại, không hoạch định quy trình thay đổi có
thể “Khai hóa” thông qua sự can thiệp vào và làm chuyển theo hướng hữu
ích hơn. Để làm được việc này, người lập kết hoạch phải làm theo thói quen
tốt cần thiết, để vẻ trên sự hiểu biết của anh ta một quy trình thay đổi. Người
hoạch định sử dụng sự quá ngưởng của quy trình để đo đạt vấn đề cần thiết.
Tất cả các lý thuy ết về sự thay đổi trong cuốn sách này được đánh giá cao,
trong đó có lý thuyết của McGrath và Tschan’s Nhóm thích ứng mềm dẻo (ở
chương thứ 3), Baum và Rao’s lý thuyết coevolutionary (chương 8), nhiều lý
thuyết khác của các học viện được Van de Ven và Hargrave bình luận trong
(chương 9), Lewin (chương 5) và Hinings (chương 10), Lý thuy ết về văn
hóa thay đổi được bình luận bởi Hatch (chương 7) và Dooley bàn về mô
hình mềm dẻo (chương 12). Trong khi họ bàn luận và đề ra một số đề nghị
cho các lý thuyết về thay đổi của tổ chức, nhưng các lý thuyết chưa thực
thiết kế một cách dức khoát các đề nghị trong sự thay đổi. Những chương
-4-
QTSTD-NHÓM1-MBA8

khác trong sách bàn về sự thay đổi, như woodman và Dewett trong tường sự
thay đổi ở (chương 2) và Seo trong hoạch định sự thay đổi của tổ chức
(chương 4). Drazin Logic của tổ chức (chương 6). Bởi vì lý thuyết của logic
học là lý thuyết của sự thay đổi nhưng các nhà quản trì và các nhà hoạt động
trong sự thay đổi cũng xem logic là mục tiêu hay m ục đích của sự thay đổi
trong tổ chức.
Lý thuyết của sự thay đổi và cách tân trong tổ chức làm một lý thuyết khoa
học, hơn làm m ột vấn đề về thực hành. Như vậy vấn đề này có ưu điển cho
các nhà nghiên cứu có thể sử dụng nếu họ có thể hiểu được sự thay đổi và
phát triển. Như vậy các nhân tố và quy trình trong nghiên cứu sự thay đổi có
thể được nhận thấy rỏ. Theo Pfeffer (1982, p.37) đưa ra ý tưởng, “ Thừa kế
định nghĩa thuộc về người quản trị là cái gì? là vấn đề quan trọng, cái gì là
biến thiên, và đôi khi làm thế nào để đo sự biến thiên t hay đổi có thể làm
giảm đi các nhân tố giải thích và lối nói của vấn đề theo hướng mà chúng
không hữu dụng trong khoa học.” theo cách tiếp cận này thì học thuật thuần
túy có vẽ có hiệu quả.
M ặt dầu vậy, yêu cầu rộng hơn có thể tạo ra được các lý thuyết mà có thể có
liên quan ít nhiều đến thực tế. Quy trình diễn tả trong mối quan hệ rộng và lý
thuyết về sự thay đổi. Rất khó để kiểm soát hay đạt được một cách nhanh
chóng. Số đông và tổ chức riêng lẽ và các thành viên thì có rất ít kể đến,
miêu tả như một vật thể được thả ra giữa biển với quá ít khả năng mà chúng
có tồn tại. M ột số bài học trong bài viết này cho việc tạo lại hình thể và hành
động để đối mặt với tình trạng thực tế này, nhưng nhiều phần của bài viết
theo mối liên hệ của các nhà làm luật của chính phủ và các chiến lược lâu
dày cho các nhà quản trị. Những lời khuyên rằng các nhà quản trị và các
chuyên gia về thay đổi phải nhận biết được sự khó khăng như thế nào của
sự thay đổi và cách tân để có thể quản lý được chúng, những quy trình thay
đổi này có thể s ẽ diễn biến theo một chiều hướng mà không được chờ đón.
Giá trị mà có thể nhìn thấy ở đây có lẽ là vấn đề này nhưng rất khó có thể trở
nên hữu ích cho các nhà quản trị nhận ra cách làm thế nào để quản lý được

sự thay đổi trong công ty. Có một vấn đề cần thiết quan trong trong việc tìm
-5-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
ra các mối liên quan của lý thuyết trong thực tế cho sự thay đổi trong tổ
chức. Sự thiếu cơ sở lý thuy ết có thể chuyển sang các dạng thực hành có thể
xảy ra, Việc này nhấn m ạnh đến nhiều nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực
kinh tế vĩ mô có thể xảy ra cho tổ chức và tổng thể. Việc này có xu hướng là
các chú ý trực tiếp xa rời với các nhân tố mà có thể được quản lý và xây
dựng. Lý thuyết về chủ động hành động cho cá nhân (chương 2), cho nhóm
(Chương 3), và cho tổ chức (chương 4, 6, 9) có thể cúng cấp các thông tin dể
dàng hơn cho việc áp dụng thực tế.

Thay đổi gián đoạn so sánh với sự thay đổi liên tục:
Weick và Quinn (1999) mô tả sự thay đổi trong điều kiện nhiệp độ của
chúng, định nhĩa “đặt trưng tỉ lệ, nhịp điệu, hay mẫu của công việc hay hành
động” (Random House Dítionary, cit ied in weick và Quinn 1999, p.365).
Dựa trên tempo, chúng thì khác nhau với đoạn và với sự thay đổi liên tục.
Thay đổi giai đoạn được tưởng tượng giống như “không thường xuy ên,
không liên tục và có chủ tâm” (p.365), trong khi đó thì thay đổi liên tục được
tưởng tượng như là “tiếp diễn, biến hóa và tích lũy” (p.375). hai hình thái
này tạo ra sự thay đổi có sự liên đới với phép ẩn dụ khác nhau của tổ chức,
khung phân tích khác, lý thuyết về sự can t hiệp và vai trò thuộc tính cả các
nhóm tư vấn sự thay đổi, thể hiện trong bảng 1.1. Sự khác biệt giữa thay đổi
gián đoạn và thay đổi liên tục là sự tương quan với nhiều vấn đề khác, bao
gồm sự tăng trưởng so với sự thay đổi quyết liệt (e.g, Tushaman et al. và
Romannelli, 1985) sự thay đổi liên tục so với sự thay đổi không liên t ục
(Meyer et al., 1993) và sự thay đổi có khả năng so với sự thay đổi xóa bỏ
thẩm quy ền ( Abernathy and Clark, 1985).
Lý thuy ết trong cuốn sách này bao gồm:
- Huấn luyện và thay đổi được lập sau cho từng trương hợp thay đổi cụ

thể được bàn bạc bởi woodman và Dewett ( chương 2).
- Lý thuyết nhấn mạnh trạng thái cân bằng (được bàn trong trong nhiều
chương).
- Lý thuy ết về luận lý của tổ chức ( chương 6).
-6-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
- Các lý thuyết thời kỳ đầu và sau của hoạch định sự thay đổi được bàn
bởi Seo et al. (chương 4).
- Lý thuy ết lựa chọn chiến lược (Lewin et al, chương 5)
- Sự tiến hóa kinh tế (chương 5).
- Lý thuy ết của Schein về thay đổi văn hóa (chương 7).
- Hầu hết các quy luận hành động thu thập được bàn bởi Ven và
Hargrave (chương 9).
- Lý thuy ết của Greenwood về sự thay đổi trong lĩnh vực tổ chức (
chương 10).
Lý thuy ết về sự thay đổi liên tục bao gồm:
- Sự tương t ác giữa cá nhân và xã hội đến sự thay đổi thành phần
(woodman và D ewett chương 2).
- Lý thuy ết về học hỏi trong tổ chức được bàn bởi Seo (chương 4) và
Lewin (chương 5).
- Lý thuy ết ngẫu nhiên (chương 5).
- Lý thuyết mối quan hệ cộng đồng và tổng thể (Baum và Rao, chương
8).
- Lý thuy ết của Hatch về sự thay đổi văn hóa (chương 7).
- Thiết kế tổ chức và nghệ thuật truyền thông được bàn bởi Van de Ven
và Hargrave (chương 9).

-7-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
Bảng 1.1 : So sánh giữa thay đổi gián đoạn và thay đổi liên tục


Tính ch
ất

Thay đ
ổi gián đoạn

Thay đ
ổi li
ên t
ục

Phép ẩn dụ về tổ
chức.



Khung phân tích






Các lý thuyết liên
quan









Vai trò của tác
nhân sự thay đổi.

Tổ chức là thiên về sự không
muốn thay đổi và t hay đổi là
không thường xuyên, không
liên tục và không chủ tâm.
.
Thay đổi là xảy ra một cách
thỉnh thoản hay có tính phân
kỳ từ trạng thái cân bằng. Do
bên ngoài tác động. Có sự
không thích hợp cho tổ chức
cho việc thích ứng với môi
trường của sự thay đổi.

Viển cảnh: Vĩ mô, khoản
cách, toàn cầu.
Tầm quan trọng: dung trong
thời kỳ ngắn.
Khái niệm quan trọng: sự trì
trệ, cấu trúc sâu hay tương
quan, khởi sự, thay thế, tính
gián đoạn, cách mạng.



Chủ tâm thay đổi: Hũy bỏ,
thay đổi, tạo lập lại, thay đổi
là quán tính, tuyến tính, cấp
tiến, và yêu cầu sự can thiệp
từ bên ngoài.
Tổ chức là nổi bật và tự
tổ chức và thay đổi là
bất biến, biến chuyển và
chồng chất mãi.

Thay đổi là mô hình của
sự biến cải vô tận trong
quy trình tiến hóa và
thực hành xã hội. nó
được gây ra bởi tính
không ổn định của tổ
chức và yêu cầu hành
động đối mặt với sự
thay biến đổi hằng
ngày. Có tính tích lũy
và rất đa dạng.
Viển cảnh: Vi mô,
đóng, tính địa phương.
Tầm quan trọng: trong
dài hạn.
Khái niệm quan trọng:
Hồi quy sự ảnh hưởng
lẩn nhau, có tính tùy
hứng, sự chuyển dịch
và học hỏi.


Không phương hướng
của các xu thế hiện hữu,
-8-
QTSTD-NHÓM1-MBA8


Nguồn khởi xướng: N gười
tạo ra hay đổi được tìm thấy
điểm của đòn bẫy trong tổ
chức. Tác nhân thay đổi thay
đổi hệ thống đo lường, giản
đồ .


thay đ
ổi l
à vòng l
ặp,
quy trình không có kết
thúc, luôn vận động và
tồn tại vĩnh cửu.


Ý thức của người tạo
dựng là người nhận
dạng sự thay đổi. Tác
nhân thay dổi nhận biết,
tạo ra sự đáng chú ý,
chuyển đổi và học tập.

Nguồn W eick and Quinn (1999)
M ột số lý thuyết kết hợp cả hai lĩnh vực của lý thuyết thay đổi gián đoạn và
thay đổi liên tục. Nhiều lý thuyết phát triển được giới thiệu thông suốt quyển
sách, tổng quát nhấn mạnh sự thay đổi liên tục ở mức độ vi mô của hệ thống
cư xử của cá nhân, nhưng sự thay đổi thường dựa trên nền tản của sự không
liên tục. Lý thuyết hệ thống phức hợp thích ứng của McGrath và Ts chan của
nhóm cũng được xây dựng xung quanh hai vấn đề của sự thay đổi liên tục và
gián đoạn. Hơn thế nửa, một số lý thuyết được bàn đến ở trên như lý thuyết
của Greenwood về sự thay đổi của tổ chức, kết hợp giữa sự thay đổi liên tục
với mức độ hành động thực tiễn có thể dịch chuy ển quy trình thông qua sự
không liên tục. Trong khi lý thuyết tập trung vào không liên tục, nó được coi
là quy trình phía dưới của liên tục của các hành động cho việc xây dựng lên
các bộ phận của lý thuyết.
M ột số lý thuy ết rơi vào khu vực nào đó giữa hai thái cự đã được bàn đến đã
có nét đặc biệt không cần thiết. Từ sự thay đổi gián đoạn thì dể hiểu hơn ở
cách nhìn vĩ mô hay phân tích trên diện rộng. Trong khi đó thay đổi liên tục
thì tốt hơn cho việc phân tích dựa trên mức độ vi mô hoặc phân tích địa
phương. Và chúng không hề có sự đối lập và hoàn toàn có thể dùng và có
triển vọng sử dùng (chương 13). Hơn thế nửa, thực tế cho rằng có một số sự
-9-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
thay đổi xảy ra với chúng ta một cách từ từ và hầu hết không thể thấy rỏ,
nhưng ngược lại một số khác thì phát triển đều đặng bởi một số bước ngoặt
gãy đổ quan trọng, tiếp tục cho minh chứng sự không mâu thuẫn của gián
đoạn và liên tục của thay đổi.

Bốn động lực cơ bản cho sự thay đổi:
Định nghĩa thứ ba cho sự thay đổi trên phương diện cơ học. Van de Ven và
Poole (1995) định nghĩa bốn lý thuyết đơn giản liên quan giải thích cho quy
trình của sự thay đổi và cách t ân. Hình 1.1 chỉ rằng mỗi lý thuyết là một quy

trình của sự phát triển, mở ra một chuỗi khác nhau cho các sự kiện thay đổi,
và cho việc chi phối với các cơ chế khác nhau được sinh ra hay các động
lực.


- M ô hình vòng đời mô tả quy trình của thay đổi trong thực tế như một
quy trình thông qua quy trình cần thiết của giai đoạn hay thời kỳ. Bài
viết đặc biệt về giai đoạn và thời kỳ được đặt ra và quy định bởi tổ
chức, bắt đầu của một vòng lặp.
Thuy
ế
t ti
ế
n h
ó
a

Thuy
ế
t v
ò
ng
đ

i

Thuy
ế
t
m


c
đ
í
ch lu

n

Thuy
ế
t bi

n ch

ng

-10-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
- M ô hình mục đích luận nhìn vào sự phát triển như mộ vòng lặp của
công thức thành công, sự thi hành, sự đánh giá và sự sửa đổi của hành
động hay mục đích dựa trên cái gì được học hỏi hay mong đợi bởi
thực thể. Chuỗi sự kiện nổi bật lên thông qua sự xây dựng xã hội của
vấn đề được hình dung giữa từng cá nhân bên trong thực thể.
- M ô hình phép biện chứng của mối liên hệ mâu thuẫn của sự phát triển
giữa các thực thể tương giao của các luận đề đối lập và các phản đề
va chạm nhau và t ạo thành sự tổng hợp, trở nên luận đề cho chu trình
tiếp theo của một loạt biện chứng khác. Sự đối đầu và mâu thuẫn
giữa các thực thể tạo ra quy trình biện chứng này.
- M ô hình tiến hóa của sự phát triển chứa đựng quy trình đặc trưng của
sự biến đổi, lựa chọn, và sự kiện của khả năng nhớ giữa các thực thể

trong tổng thể. Vòng tiến triển này được xây dựng bởi sự tranh đua
giữa các thực thể hiện hữu trong tổng thể.
Bốn lý thuyết đó có thể được biểu lộ thông qua hai hướng. Chỉ số đo lường
sự thay đổi, các câu hỏi về sự thay đổi được trình bài trong các hành động
của từng thực thể riêng biệt hay đa thực thể? Sự tiến hóa và lý thuyết biện
chứng vận hành trên đa thực thể. Sức mạnh của sự tiến hóa được định nghĩa
trong vấn đề chúng ảnh hưởng cho tổng thể và khống có ý nghĩa xa ở mức
độ của thực thể đơn lẽ. Lý thuyết biện chứng đòi hỏi ít nhất hai thực thể để
đưa vào vai trò của luận đề và phản đề. M ặt khác, lý thuyết vòng đời và lý
thuyết mục đích luận vận hành trên thực thể đơn. Trong trường hợp mô hình
vòng đời, sự phát triển được giải thích như phương trình của tiềm năng nội
tại trong thực thể. Trong khi thực thể môi trường và các thực thể khác có thể
tự chúng định hình một cách nội tại, chúng phụ thuộc vào tiềm năng nội tại
một cách nghiêm khắc. Sự thúc đẩy thực tế cho sự phát triển đến từ bên
trong thực thể đơn, cho toàn bộ quy trình phát triển của thực thể. Lý thuy ết
về cứu cánh, cũng vậy, yêu cầu chỉ mục tiêu của một thực thể, sự xây dựng
xã hội, để giải thích cho sự phát triển. Lý thuyết cứu cánh có thể vận hành
trong nhiều thành viên của tổ chức hay một nhóm tổ chức khi có sự thống
nhất giữa các cá nhân cho phép chúng cá thể hành động trong các thực thể tổ
-11-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
chức độc lập. t huyết cơ học tổng quát của bốn quy trình lý thuyết cũng có
nhiều điểm khác nhau theo chiều thứ hai theo cách quy trình của sự thay đổi
được phải được tiên nghiệm hay quy trình được xây dựng và nảy sinh như
một quy trình của sự thay đổi được m ở ra. Phương thức ra lệnh của kênh
thay đổi phát triển của thực thể trong hướng thứ cấp, sự tồn tại và phỏng
theo kinh điển có sự hình thành của chúng trong các định nghĩa theo cách có
thể đếm được. Phương thức xây dựng của sự thay đổi sinh ra một cách vô
tiền lệ, trong sự nghiên cứu quá khứ thường không liên tục và không thể
đoán trước được sự khởi đầu trong quá khứ. Động lực ra lệnh gợi lên một

quy trình của trường hợp thay đổi với một chương trình tiền tạo dựng hay
một thủ tục hành động. Động lực xây dựng, trong một mặt khác sản xuất ra
một quy trình hành động mới mà có thể tạo ra công thức nguyên bản của các
thực thể. Lý thuyết Vòng đời và lý thuyết sự phát triển vận hành trong theo
phương t hức ra lệnh. Trong khi lý thuyết về cứu cánh và lý thuyết biện
chứng lại vận hành trong phương thức xây dựng.
Hai chiều của đơn vị và cách thức của sự thay đổi định nghĩa thuyết cơ học
sinh ra từ sự vận động và quy trình. Chúng khác nhau theo chiều hướng, sự
lớn lên của thay đổi, sự cơ bản của thay đổi và khả năng phá hủy sự thay đổi,
những cái mà có thể phân loại sự t hay đổi của tổ chức dựa trên hệ quả và
hậu quả do chúng gây ra. Một mặt ưu điểm của hệ thống hình học là có t hể
phân biệt từng động lực của quy trình thay đổi trước khi chúng được kết luận
là gì.
Khung chung nhất của các lý thuyết cho nghiên cứu về sự thay đổi và cách
tân trong cuốn sách này là mô hình vòng đời, cái mà phản ánh tầm quan
trọng trên các mô hình trong sự phát triển về cách nghỉ về sự phát triển và
thay đổi. Ví dụ như mô hình của vòng đời chứa đựng lý thuy ết về sự phát
triển nhóm ( chương 3), mô hình tổng hợp (chương 9) và mô hình xã hội
(chương 2). Mô hình thuyết cứu cánh, mà được nhấn mạnh vai trò của người
lãnh đạo và các tổ chức thay đổi như việc xây dựng sự thay đổi với các
thành viên của tổ chức, cũng là những cái chung. Ví dụ trong phần này bao
gồm lý thuyết của Schein về sự thay đổi xã hội (chương 7), lý thuyết về thiết
-12-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
kế tổ chức (chương 9) và lý thuyết hệ thống tự tổ chức (chương 6 và 12).
Phát triển phổ biến trong hai thập kỷ qua là lý thuyết tiến hóa, đó là mô hình
cộng sản và tập thể (chương 8) được thể hiện. M ô hình biện chứng không
được sử dụng nhiều. Trong quyển sách này Seo đã diễn tả trong chương 4
trên việc phân tích biện chứng và mô hình biện chứng trong lý thuyết hành
động thu thập được bàn trong chương 9 và lý t huyết của Hatch về sự thay

đổi ã hội (chương 7 và 13). Các công trình nghiên cứu khác dựa trên mô
hình biện chứng trong đó gồm Farjoun (2002) và Smith và Berg (1987).
Hơn thế nữa, lý t huyết về sự thay đổi không luôn luôn được xây dựng chỉ
trên một động lực. Van de Ven và Poole (1995) cũng đã bàn rằng sự kết hợp
của ba động lực đã t ạo ra lý thuyết về sự thay đổi ngược lại, cho thấy sự
phức tạp của quá trình thay đổi và có sự khác biệt hoàn toàn khi ta chỉ xét
đến chỉ một động lực duy nhất tác động cho sự thay đổi, nếu chúng ta cân
nhắt đến một, hai, ba hay bốn động lực thì có lẽ sẽ tạo ra một lý thuy ết khác
về sự thay đổi. Có bằng chứng rằng 16 sự diễn giải của sự thay đổi của tổ
chức là có thể một cách hợp lý và logic. Có thể thấy trên bảng 1.2 là tương
tự để cho ví dụ về sự ảnh hưởng lẩn nhau tạo hiệu ứng cả bốn động lực để
lựa chọn lý thuyết hợp lý trong vấn đề quản trị.
Bốn sự lựa chọn thứ nhất miêu tả “ảnh hưởng chính” của sự tạo ra ảnh
hưởng cơ học dưới lý t huyết: chương trình của lý thuyết vòng đời, ban hành
có mục đích của lý thuyết về thuyết cứu cánh, sự m âu thuẫn và sự đối đầu
của lý thuyết biến chứng, và sự đấu tranh sinh tồn của lý thuyết tiến hóa. Các
“ lý thuyết động lực đơn này” đã tạo ra các trương hợp khi chỉ một của bốn
động lực đó được chọn để vận hành.
M ười hai lựa chọn còn lại miêu tả “ ảnh hưởng của sự tương tác” của vận
hành phụ thuộc lẩn nhau của hai hay nhiều hơn trong bốn nhân tố tác động.
Lựa chọn từ 5 đến 10 được gọi là “ lý thuyết động lực đôi” bởi vì chúng
miêu tả trường hợp khi chỉ có hai trong số bốn nhân tố được vận hành và cho
ra quy trình thay đổi của tổ chức. Lựa chọn từ 11 đến 14 miêu tả “ lý thuyết
ba động lực”, lúc đó ba trong số bốn nhân tố được xét đến sự vận hành có
tương tác cho sự thay đổi của tổ chức. Lựa chọn 15 là “Lý thuyết bốn động
-13-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
lực” đó là trường hợp phức t ạp nhất khi tất cả bốn nhân tố được đưa vào và
tương tác nhau để cho ra một tình trạng nào đó. Cuối cùng, là lựa chọn 16
miêu tả một trường hợp không có hiệu lực, khi không có bất cứ động lực nào

được cho vào được nhận diện. Ví dụ như các vấn đề được bàn đến do Vn de
Ven và Poole (1995) và Poole (2000). Trong chương 13. Poole và Van de
Ven mở rộng khung nghiên cứu có chứa đựng sự biến đổi của bốn động lực
cơ bản.
M ột số lý thuyết trong cuốn sách này kết hợp hai hài nhiều hơn các động
lực cơ bản. Trong lý thuyết của Greenwood , là lý thuyết của sự thay đổi tổ
chức (chương 10).
Bảng 1.2 : Những lý thuyết của thay đổi và phát triển tổ chức có thể hợp

S
ự tác động lẫn nhau l
àm
phát sinh nh
ững ph
ương pháp


Động lực
bắt buộc
bên trong
thực thể :
sắp xảy ra
chương
trình
Động lực có
tính chất
xây dựng
bên trong
thực tế : có
mục đích

ban hành
Đ

ng l

c có
tính chất xây
dựng giữa
những thực
thể : mâu
thuẫn và
những sự
tổng hợp
Động lực
bắt buộc
giữa những
thực thể :
sự chọn lựa
có tính cạnh
tranh
1. Chu k
ỳ sống
(Cameron và
Whetten, 1983)
có không không không
2. Thuy
ết mục
đích luận (March
và Simon, 1958)
không có không không

3. Phép biện
chứng (Benson,
1977)
không không có
-14-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
4. S

ti
ến hóa
(Hannan và
Freeman, 1977)
không không không có
Những lý thuyết
hai động lực

5
.
L

ý thuy
ết thiết
kế hệ thống cấp
bậc (Clark,
1985)
có có không không
6. Mâu thu
ẫn
nhóm (Simmel,
1908; Coser,

1958)
không có có không
7. Sinh t hái h
ọc
cộng đồng
(Astley, 1985)
không không có có
8. Nh
ững mô
hình thích ứng
với sự chọn lựa
(Aldrich, 1979)
có không không có
9. Nh
ững giai
đoạn phát triển
và khủng hoảng
của tổ chức
(Greiner, 1972)
có không có không
10. Tr
ạng thái
cân bằng nhấn
mạnh của tổ
chức (Tushman
và Romanelli,
không có không có
-15-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
1985)


Nh
ững lý thuyết
ba động lực

11. Sự điều
chỉnh lẫn nhau
của người ủng hộ
(Lindblom,
1965)
có có có không
12. ?

không







13. ?



không






14. Tâm lý xã
h
ội của tổ chức
(Weick, 1979)
có có không có
Nh
ững lý thuyết
bốn động lực

15. Nh
ững quá
trình phát triển
của nhân loại
(Riegel, 1976)
có có có có
16. ?

Thùng
rác (Cohen,
M arch, và Olsen,
1972)
không không không không
Nguồn : phỏng theo Van de Ven và Poole (1995)
Thay đổi thuộc về tổ chức (chương 10), một mô hình chu kỳ sống mô tả cấp
độ tiến bộ về mặt vĩ mô của sự thay đổi, nhưng sự thay đổi được điều khiển
bởi hành động thuộc về thuyết mục đích luận bởi những cá nhân và những tổ
chức. Chương 9 mô tả những lý thuyết của sự thay đổi thuộc về tổ chức
thông qua tập hợp hành động làm thay đổi những tổ chức mà được dựa trên
mâu thuẫn có tính chất biện chứng, mà còn bộc lộ thông qua những giai

đoạn của một mô hình chu kỳ sống. M âu thuẫn bên trong những lý thuyết
-16-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
này ở cấp độ vi mô là một lý thuyết mục đích luận của tác nhân cá nhân. Tại
những câu gợi ý cuối cùng này, những mô hình khác của sự thay đổi thường
ẩn chứa những lý thuy ết dựa trên một mô hình đơn lẻ. M ột cách để làm xuất
hiện những giả định bên dưới những lý thuyết của sự thay đổi và sự đổi mới
là nhận diện những động lực khác mà hoạt động dọc theo những sự kết hợp
tổ chức đó trong một lý thuyết.
Ba sự khái niệm hóa về thay đổi giải thích những tác động khác nhau của
hiện tượng và cung cấp một cách hữu ích để sắp xếp những giả định cơ bản
của những lý thuy ết thay đổi và sự đổi mới. Những câu trả lời của họ cho
câu hỏi “Bản chất của sự thay đổi là gì ?” bổ sung cho một lý thuyết khác.
Sự khác biệt của Bennis tập trung sự chú ý vào quyền chọn lựa của nhân loại
và vào sự quản lý thay đổi, Weick và Quinn tập trung vào đặc tính của sự
thay đổi chính bản thân nó, và Van de Ven và Poole tập trung vào sự thay
đổi xảy ra như thế nào. Những lý thuyết của Bennis về sự thay đổi nói chung
phù hợp với chu kỳ sống, sự tiến hóa, và phạm trù phép biện chứng, trong
khi những lý thuyết của sự đang thay đổi có khuynh hướng thuộc về góc độ
của thuyết mục đích luận. Hầu hết những lý thuyết của sự thay đổi thì tiếp
tục phát triển không ngừng, trong khi đó những lý thuyết của sự đang thay
đổi có khuynh hướng chia ra từng giai đoạn. Thế nhưng sự phù hợp là ít rõ
ràng, sự tiến hóa và chu kỳ sống vận động có khuynh hướng hoạt động tiếp
tục trong những điều kiện, trong khi phép biện chứng và những động lực của
thuyết mục đích luận thì chia ra từng giai đoạn nhiều hơn.
Sự thay đổi và sự đổi mới phù hợp tốt với loại “những khái niệm tranh cãi
cần thiết” mà nói chung không đồng ý với việc dựa trên những định nghĩa
nguồn gốc. Cuộc đấu tranh để trả lời cho câu hỏi ‘‘Bản chất của sự thay đổi
là gì ?’’ là quan trọng, tuy nhiên, vì nó khuyến khích chúng ta làm việc với
cường độ cao để định nghĩa nền t ảng về sự thay đổi là gì và làm sáng tỏ

“những sự khác biệt mà tạo nên một sự khác biệt” dọc theo thay đổi của
những giảng đường mà thay đổi và sự đổi mới diễn ra.
Nhiều sự giống nhau được nói về câu hỏi thứ hai, ‘‘Cách tiếp cận tốt nhất
cho việc nghiên cứu sự thay đổi và sự đổi mới là gì ?’’
-17-
QTSTD-NHÓM1-MBA8

Những cách tiế p cận để nghiên cứu sự thay đổi và sự đổi mới
M ohr (1982; Poole và những người khác., 2000) lần đầu tiên phân biệt
những cách tiếp cận về thay đổi và những cách tiếp cận về quá trình đối với
những bài nghiên cứu khoa học xã hội, và sự khác biệt khá thuyết phục trong
những bài nghiên cứu về tổ chức. Trong những điều kiện nói chung, một lý
thuyết thay đổi giải thích sự thay đổi dưới dạng những mối quan hệ giữa
những biến độc lập và những biến phụ thuộc, trong khi một lý thuyết quá
trình giải thích một chuỗi những sự kiện ảnh hưởng như thế nào đến một vài
kết quả. Hai cách tiếp cận này thì nhường chỗ cho những khái niệm khác về
sự thay đổi và ám chỉ phải có những tiêu chuẩn khác để đánh giá nghiên cứu
về sự thay đổi và sự đổi mới. Hình vẽ 1.2 cung cấp một bức tranh về sự so
sánh giữa hai cách tiếp cận này.
M ột lý thuyết thay đổi tập trung vào những biến số mà đại diện cho những
tác động hoặc những thuộc tính quan trọng của đề tài nghiên cứu. Những sự
giải thích đưa đến một hình t hức của những câu khẳng định thuộc về nguyên
nhân hoặc những mô hình mà bao gồm những biến số này (ví dụ, X là
nguyên nhân của Y, mà là nguy ên nhân của Z), và một mục tiêu tiềm ẩn của
nghiên cứu về thay đổi là thiết lập những điều kiện cần thiết và có đủ điều
kiện để mang đến một kết quả. Nghiên cứu về thay đổi dùng những bảng
thiết kế nghiên cứu phỏng vấn điều tra và thực nghiệm và được đặt trong mô
hình tuy ến t ính nói chung mà giải thích cho hầu hết những phương pháp
thống kê nói chung, bao gồm phân tích phương sai (ANOVA), hồi quy, phân
tích nhân tố, và mô hình cấu trúc cân bằng. Một tiêu chuẩn quan trọng để

đánh giá những lý thuyết thay đổi là tính khái quát hóa của chúng, mà liên
quan đến một loạt những trường hợp, hiện tượng, hoặc những tình huống sự
giải thích thuộc về nguyên nhân vận dụng.
M ột vài những loại nghiên cứu khác về sự thay đổi và sự đổi mới của tổ
chức dưới đây theo cách tiếp cận thay đổi
1. Có lẽ hầu hết những loại phổ biến của việc nghiên cứu thay đổi giải
quyết thay đổi như một biến số như là tỷ lệ của sự đổi mới (Rogers,
-18-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
1995), hoặc chiều sâu của sự thay đổi (Harrison 1970, cũng như
Woodman và Dewett, chương 2). Mục tiêu của những nghiên cứu này
để giải thích và/hoặc dự đoán việc xảy ra và quy mô của sự thay đổi
hoặc những tác động của sự thay đổi đến những biến số khác. Những
hệ phương pháp đã vận dụng những nghiên cứu này từ phòng thí
nghiệm một cách tương đối không phức tạp (M athieu và những người
khác., 2000) và phỏng vấn điều tra (Morrison, 1993) thiết kế phức tạp
những chuỗi thời gian và những mô hình sự kiện lịch sử (Mayer và
Tuma, 1990).
2. M ột vài nghiên cứu giải quyết thay đổi như một ngữ cảnh cho những
quá trình khác nhau thuộc về nguy ên nhân. Ho không nghiên cứu sự
thay đổi thuộc về bản chất, nhưng thay vào đó họ xem thay đổi như là
một khung mà ở đó những hiện tượng khác xảy ra. Đối tượng của
những nghiên cứu này là phát triển và kiểm tra những mối quan hệ
nguyên nhân – kết quả bên trong một ngữ cảnh đang thay đổi hoặc để
kiểm tra những lý thuy ết của những phản ứng đơn vị cá nhân để thay
đổi những đơn vị ở một cấp độ cao hơn. Một nghiên cứu của những
bệnh viện tư nhân phản ứng lại sự thay đổi như thế nào trong thực tế
tổ chức ở lĩnh vực y khoa bởi Goodrich và Salancik (1996) là một ví
dụ của loại nghiên cứu này.


-19-
QTSTD-NHÓM1-MBA8











3. M ột cách tiếp cận phổ biến t ăng lên là nghiên cứu thay đổi ở những
cấp độ phức tạp của phân tích (D ansereau và những người khác,
1999). M ột vài nghiên cứu trong nhóm này tập trung vào những tác
động của sự thay đổi trong một biến số tại một cấp độ của sự phân
tích đến những biến số tại những cấp độ khác – ví dụ, những phong
cách lãnh đạo chuyển đổi như thế nào ảnh hưởng đến những đơn vị
làm việc và tạo ra những tập hợp trong những tổ chức làm việc ngoài
giờ (Avolio và Bass, 1995). Những phương pháp để thực hiện phân
tích đa cấp độ bao gồm mô hình tuyến tính theo thứ bậc, bên trong và
giữa phân tích, và phân tích sự phụ thuộc lẫn nhau (Kashy và những
người khác., 1999; Klein và Koslowski, 2000).
Cách tiếp cận thay đổi hữu ích trong việc nghiên cứu sự thay đổi và
những quá trình của sự đổi mới ở hai khía cạnh quan trọng. Đầu tiên,
những lý thuyết thay đổi cung cấp những hình ảnh tốt của những phương
pháp mà điều khiển một quá trình, và những phương pháp nghiên cứu
thay đổi thì rất thích hợp cho việc kiểm tra những giả thuyết liên quan
đến những phương pháp. Thứ hai, cách tiếp cận thay đổi hữu ích cho

nghiên cứu của những quá trình mà hoạt động một cách nhanh chóng dựa
vào thang đo của nhân loại, như là trường hợp của nhiều cá nhân hoặc
cấp độ nhóm thay đổi những quá trình (ví dụ, xã hội nhận diện thông tin
Nh
ững thuộc tính :

 Môi trường (x
1
)
 Công nghệ (x
2
)
 Quá trình ra
quyết định (x
3
)
 Những nguồn
tài nguyên (x
4
)

Chi
ến
lược
thay
đổi (Y)

Chi
ến
lược A


Chi
ến
lược B


Nh
ững sự kiện

 Những ho ạt động
 Những chọn lựa
Lý thuy
ết
quy mô thay đ
ổi


Lý thuy
ết
quá

trình


Hình vẽ 1.2 : Hai cách tiếp cận để giải thích chiến lược thay đổi. Dựa trên Mohr
(1982) và Langley (1999)

-20-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
hoặc sự thay đổi trong những cấu trúc thuộc về nhận thức). Trong khi

những loại này mở ra như một cách tiếp cận quá trình mô tả bên dưới,
chúng hoạt động một cách nhanh chóng đến nỗi mà chúng được nghiên
cứu rất hiệu quả với những phương pháp thay đổi mà giả định đồng nhất,
mối quan hệ nhân quả trực tiếp.
Cách tiếp cận thay đổi cũng có những giới hạn (Poole và những người
khác., 2000). Nó thì khó khăn để nghiên cứu những hoạt động hoặc
những bước mà sự thay đổi và sự đổi mới mở ra sử dụng những phương
pháp thay đổi. Trong khi một vài hệ phương pháp nghiên cứu của những
quá trình được vận dụng trong nghiên cứu thay đổi (ví dụ, Davison và
những người khác., 1980; Davison và những người khác., 1978; Poole và
Roth 1989a, Poole và Roth 1989b), họ yêu cầu những nhà nghiên cứu
tách những biến số từ dữ liệu xử lý, mà thúc ép họ nghiên cứu quá trình
tại một phạm vi (ít nhất). Như một kết quả, những cách tiếp cận thay đổi
gây khó khăn để nghiên cứu những tác động quan trọng về sự thay đổi
xảy ra như thế nào. Đằng sau của hầu hết những lý thuyết thay đổi là một
“câu chuyện” dựa trên quá trình về những mối quan hệ giữa những biến
số mà cho ra những lý thuyết mạch lạc. Tuy nhiên, điều này gây khó
khăn cho việc kiểm tra hoặc nghiên cứu có tính chất kể chuyện với
những cách tiếp cận thay đổi.
Những phương pháp thiết kế của nghiên cứu thay đổi giả định rằng mối
quan hệ nhân quả trong hệ thống là “cư xử đúng đắn”. Điều này kéo theo (a)
nguyên nhân sự lưu thông từ những đơn vị lớn hơn đến những đơn vị nhỏ
hơn, nhưng không ngược lại (ví dụ, tổ chức ảnh hưởng đến thành viên của
chính tổ chức đó, nhưng hành vi của thành viên đơn lẻ không ảnh hưởng đến
tổ chức đó) và (b) những nhân tố gây ra nguy ên nhân hoạt động đồng nhất
bắt chéo nhau nhiều trường hợp và xấp xỉ cùng thang đo về thời gian
(Abbott, 1988). Những giả định này dường như không giới hạn một cách đặc
biệt bên trong một khung thay đổi, nhưng chúng loại trừ ảnh hưởng của một
vài nhân tố và những ảnh hưởng nhắc đến rõ ràng trong một quá trình, bao
gồm những sự kiện then chốt, nhiều những nguyên nhân hoạt động thất

-21-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
thường tại những phần khác nhau của t ổ chức và tại những thời điểm khác
nhau, những nguyên nhân hoạt động bắt chéo nhau rất lớn tại những thang
đo thời gian khác nhau, và những chuỗi sự kiện trói buộc lại với nhau trong
một kiểu dáng ngẫu nhiên để đưa đến một vài kết quả. Thí dụ như những đề
tài về lịch sử hoặc lý lịch, những mô hình thuộc cấu trúc không cân bằng.
Những lý thuyết quá trình cố gắng kết hợp chặt chẽ những nhân tố và những
ảnh hưởng này.
Tiêu điểm chính của một lý thuy ết quá trình là một chuỗi những sự kiện mà
trải qua thời gian để đưa đến một vài kết quả. Những sự giải thích trong
những lý thuyết quá trình có khuynh hướng phức tạp hơn những sự giải
thích về thay đổi tùy thuộc vào sự phức tạp của những sự kiện, sự cần thiết
để giải thích cho sự liên quan giữa những sự kiện thuộc về thời gian, những
thang đo thời gian khác nhau trong cùng một quá trình, và bản chất động của
những quá trình. Những sự giải thích quá trình có lẽ bao gồm (a) một sự tính
toán của một sự kiện đưa đến kết quả như thế nào và ảnh hưởng đến những
sự kiện theo sau thì như thế nào (ví dụ, những sự kiện loại A có xác suất
thành công là 0.7 bởi những sự kiện loại B và xác suất thành công là 0.3 bởi
những sự kiện loại C); (b) một sự giải thích của mô hình tổng quát mà tạo ra
những chuỗi (ví dụ., quá trình phát triển ba giai đoạn A, B, và C), hoặc (c) cả
hai (trong trường hợp sự giải thích ở cấp độ vi mô và mô hình tổng quát
được nối kết). Những lý thuyết quá trình kết hợp chặt chẽ với một vài loại
khác nhau của những tác động trong sự giải thích của chúng, bao gồm những
sự kiện then chốt và bước ngoặt, sự ảnh hưởng theo ngữ cảnh, những mô
hình tạo thành cho lời hướng dẫn tổng quát đến sự thay đổi, và những nhân
tố gây ra nguyên nhân mà ảnh hưởng đến một chuỗi những sự kiện. Poole và
những người khác. (2000) tranh cãi rằng những sự giải thích về quá trình kết
hợp chặt chẽ với mô hình bốn nguyên nhân của Aristotle, thêm hình thức và
sự tạo ra kết quả cuối cùng có ảnh hưởng kết quả cuối cùng mà là nền tảng

của sự giải thích những nhân tố gây ra nguyên nhân trong nghiên cứu về
thay đổi (xem McKelvey [2002] có một trường hợp liên quan đến tất cả bốn
nguyên nhân của Aristotelean trong bài nghiên cứu về tổ chức).
-22-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
Nghiên cứu về quá trình vận dụng những thiết kế chọn lựa mà nhận diện
hoặc tái tổ chức quá trình thông qua sự quan sát trực tiếp, phân tích cấu trúc,
hoặc nhiều trường hợp trong thực tế. Phân tích dữ liệu quá trình cần những
phương pháp (a) nhận diện và kiểm tra những sự liên kết theo thời gian giữa
những sự kiện và cả những mô hình tổng quát theo thời gian (Poole và
những người khác., 2000) và (b) đương đầu với những thang đo về thời gian
phức tạp mà thường diễn ra trong những quá trình (ở đó một vài sự kiện kéo
dài trong nhiều năm, những sự kiện khác được gắn vào với chúng hoạt động
trong những thời kỳ ngắn hơn, và những sự kiện được gắn vào bên trong
những sự kiện này cùng thời kỳ ngắn hơn) (Langley, 1999). Trong khi đa số
những bài nghiên cứu về thay đổi dựa theo những thủ tục giả thuyết suy diễn,
nghiên cứu quy trình vận dụng hỗn hợp của nhiều cách tiếp cận. Thông
thường, những nghiên cứu về quy trình xuất phát từ lý thuy ết về sự quan sát,
nhưng trong một vài trường hợp chúng kiểm tra những mô hình lập giả
thuyết của quá trình thay đổi, và trong những trường hợp khác họ sử dụng để
giới thiệu lại nhờ đó những lý thuyết được sử dụng để hướng dẫn sự quan sát
hơn là định rõ những lý thuyết (Poole và những người khác., 2000, trang
115–117); đương nhiên, những nghiên cứu kỹ lưỡng của những quá trình
vận dụng hai hoặc thậm chí tất cả những cách tiếp cận này (ví dụ, Van de
Ven và những người khác., 1999). Như một kết quả, cả hai cách tiếp cận
định tính và định lượng được sử dụng trong nghiên cứu về quá trình (xem
Langley, 1999, và Poole và những người khác., 2000 về những mô tả cho
những phương pháp quá trình).
Giống như những lý thuyết thay đổi, những lý thuyết quá trình cố gắng phát
biểu khái quát, nhưng một sự khái quát hóa về quá trình phụ thuộc vào tính

linh hoạt, “trình độ mà nó bao gồm một phạm vi rộng lớn của những mô
hình phát triển không qua sửa đổi của đặc tính cần thiết (Poole và những
người khác., 2000, trang 43). Một sự giải thích cho quá trình linh hoạt “kéo
dài ra” hoặc “thu hẹp lại” để phù hợp với những trường hợp cụ thể mà khác
với tiến độ và khoảng thời gian của chúng. Chẳng hạn, mô hình trạng thái
cân bằng ngắt quãng của sự thay đổi tổ chức (Gersick, 1991; Tushman and
-23-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
Romanelli, 1985) thì tình linh hoạt rất cao vì nó vận dụng những quá trình
cho một tuần và nhiều năm và một loạt những quá trình rộng lớn khác nhau,
bao gồm sự thay đổi của tổ chức, sự phát triển của nhóm, và sự cải tiến của
công nghệ. Bảng 1.3 một vài điểm so sánh cơ bản về cách t iếp cận theo thay
đổi và cách tiếp cận theo quá trình.
Langley (1999) và Poole và những người khác (2000) nhận diện một vài loại
khác nhau của những nghiên cứu về sự thay đổi và sự đổi mới dựa theo cách
tiếp cận theo quá trình. Họ sắp đặt một chuỗi liên tục sơ lược từ sự lý giải
cao độ đến định lượng :
1. Một vài của hầu hết công việc có ảnh hưởng trong những nghiên cứu về tổ
chức đưa ra một hình thức của những quá trình lịch sử có tính chất tường
thuật mà thuật lại một câu chuyện chi tiết của một quá trình (ví dụ., Bartunek,
1984; Chandler, 1964; Pettigrew, 1985). Những bài báo cáo phong phú này
phức tạp đan xen nhiều chủ đề và, theo những chú ý của Langley (1999),
tính chất rất dày đặc của chúng xuất phát từ những lý thuyết tính toán chi ly
một điều gì đó của một sự thách thức.
2. Một cách tiếp cận tập trung hơn là nhiều nghiên cứu cụ thể trong thực tế
(Leonard-Barton, 1990). Những nghiên cứu này được thiết kế để so sánh và
đối chiếu với một số trường hợp bị giới hạn “hoặc(a) dự đoán những kết quả
giống nhau (một sự tái tạo tầm thường) hoặc (b) đưa ra những kết quả trái
ngược nhau nhưng dự đoán được những nguyên nhân (một sự tái tạo tầm
thường)’’ (Yin 1984, trang 48–49) thông qua sự phân tích định tính sâu sắc.

Những nghiên cứu này thường sử dụng những phương pháp khác nhau của
sự tổng kết và rút ra nghĩa từ những trường hợp trong nghiên cứu, như là
bản đồ thị giác (Langley và Truax, 1994; M intzberg, Raisinghani, và
Theoret1976; Quinn, 1980; Van de Ven và Grazman 1999), những sự thể
hiện của ma trận (Kuhn và Poole, 2000; Miles và Huberman, 1994), và sự so
sánh của những đoạn trích dẫn và những tạp san thời sự của những sự kiện
(Leonard-Barton, 1990). Những bài báo cáo được mang lại bởi những
nghiên cứu cụ thể trong thực tế thì đặc trưng rất phong phú., mặc dù nó
không được chi tiết như những bài tường thuật về lịch sử, và chúng thường
-24-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
cô đọng và rõ ràng hơn những bài tường thuật về lịch sử tập trung vào lý
thuyết suông.
Bảng 1.3 : So sánh hai cách tiếp cận thay đổi và cách tiếp cận quá trình
Cách tiếp cận thay đổi Cách tiếp cận quá trình
T
ập trung : Những thực thể cố định
và những thuộc tính của những biến
số
T
ập trung : Những thực thể tham gia
những sự kiện và thay đổi theo thời
gian
Những sự giải thích sự thỏa mãn chỉ
rõ sự cần thiết và có đủ mối quan hệ
nhân quả
Những sự giải thích sự thỏa mãn chỉ
rõ sự cần thiết của mối quan hệ nhân
quả
Những sự giải thích sự thỏa mãn bao

gồm những nguyên nhân có hiệu quả
Những sự giải thích sự thỏa mãn
được bao gồm cuối cùng, chính thức,
và/hoặc có hiệu quả của những
nguyên nhân
Sự phát sinh những sự giải thích tùy
thuộc vào việc vận dụng không thay
đổi theo hình thức dọc theo một loạt
những trường hợp và những cuộc
kiểm tra
Sự phát sinh những sự giải thích tùy
thuộc vào tính linh hoạt của chính
bản thân nó
Đơn điệu, “có giáo dục”, những mối
quan hệ gây ra nguyên nhân
Trật tự về thời gian phản ánh kết quả
Những sự giải thích bao gồm hoạt
động của những nhân tố gây ra
nguyên nhân ở các cấp độ khác nhau
và những khoảng thời gian khác
nhau
Những mối quan hệ gây ra nguyên
nhân thì không đơn điệu hoặc “có
giáo dục”

3. Một nghiên cứu truyền thống đã tồn tại từ lâu khái quát hóa quá trình dựa
trên một chuỗi của nhiều thời kỳ hoặc nhiều giai đoạn (Bales và Strodtbeck,

×