Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Những vấn đề chung về PCA pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.25 KB, 48 trang )

1






TIỂU LUẬN


Những vấn đề chung về PCA











2

I. GIỚI THIỆU CHUNG

1. Lịch sử
- Hội nghị hoà bình thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Hague năm
1899 đã thông qua công ước “giải quyết hoà bình các tranh chấp
quốc tế, thiết lập nên một cơ quan giải quyết tranh chấp toàn cầu:
Trọng tài quốc tế (PCA).PCA là tiền thân của các cơ quan giải


quyết tranh chấp quốc tế hiện nay bao gồm cả ICJ.Công ước 1899
được sửa đổi tại hội nghị hoà bình thế giới lần thứ 2 (còn gọi là
công ước 1907) vào năm 1907 bằng việc thông qua công ước giải
quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế thứ 2.Mặc dù đa số các quốc
gia đều theo Công ước năm 1907,nhưng cả hai công ước này đều
đang có hiệu lực.Hiện tại có 97 quốc gia thành viên.
2. Non - State Parties (các chủ thể phi quốc gia)

- Được hình thành ban đầu như một công cụ để giải quyết tranh
chấp giữa các quốc gia,PCA đã được ủy quyền, vào những năm
1930,sử dụng các khả năng để hòa giải, và làm trọng tài giải quyết
tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể độc lập, do đó
nó có quyền giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu
tư.Vào năm 1962,PCA đã soạn thảo bộ luật “Những nguyên tắc
của Trọng tài và Hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế
giữa 2 bên,trong đó chỉ có một bên là quốc gia”, sau đó dẫn tới
việc thông qua Hiệp định năm 1965 thành lập nên Trung tâm quốc
tế về giải quyết tranh chấp đầu tư tại ngân hàng thế giới.
3
(- Tuy nhiên,trong những năm sau đó, sau 2 cuộc chiển tranh thế
giới và sự thành lập ICJ và tổ chức tiền nhiệm - tổ chức PCIJ,
PCA đã bị cộng đồng quốc tế sử dụng không đúng mức.)

3. Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL Link)

- “The first stirrings of revitalization” của PCA bắt đầu vào những
năm 1980.Vào năm 1976,Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL), đã thông qua một bộ luật trọng tài phi nguyên tắc
để sử dụng “trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong
các mối quan hệ thương mại quốc tế,đặc biệt là các hợp đồng

thương mại”.Luật này còn quy định việc chỉ định trọng tài và
quyết định phản đối trọng tài. “Thẩm quyền chỉ định” được thiết
lập bởi sự thoả thuận của các bên.Trong những trường hợp mà các
bên không thể thống nhất về việc lựa chọn thẩm quyền chỉ định,thì
cần thiết phải có một tổ chức quốc tế đáng tin cậy.Bởi vậy theo
điều 6 khoản 2 và điều 7 khoản 2b của uỷ ban LHQ về luật thương
mại quốc tế (UNCITRAL rules):

“ Nếu các bên không thống nhất được thẩm quyền chỉ định,
hoặc nếu thống nhất được nhưng người có thẩm quyền chỉ định từ
chối; hoặc không thể chỉ định trọng tài… thì một trong các bên có
thể yêu cầu Tổng thư ký của PCA chỉ định.

4. Iran-United States Claims – Tribunal ( toà thành lập theo
yêu cầu của Iran và Mỹ) (ví dụ )
4

- Vào năm 1981 Tổng thư ký lần đầu tiên được yêu cầu bổ nhiệm
một thẩm quyền chỉ định, không phải cho một trọng tài thương
mại,mà cho Iran- Hoa Kỳ Claims Tribunal.Sự cung cấp điều kiện
vật chất và sự giúp đỡ … đối với cơ quan đó trong quá trình hình
thành cũng truyền sức sống mới cho PCA.Kể từ năm 1981, gần
200 yêu cầu cho sự bổ nhiệm một thẩm quyền chỉ định đã được đệ
trình lên Tổng thư ký,phần lớn trong số đó là từ giữa những năm
1990.Sự tăng lên này,cũng như sự gia tăng của các trường hợp
phức tạp,đã trực tiếp đưa PCA đến lĩnh vực trọng tài thương mại
quốc tế.Tổng thư ký ngày càng được yêu cầu giải quyết trực tiếp
như thẩm quyền chỉ định,hơn là chỉ đơn thuần bổ nhiệm tổ chức
hoặc cá nhân khác.


5. Revitalization_(tái hoạt động)

- Sự tái hoạt động của PCA bắt đầu vào đầu những năm 1990.Vào
năm 1991,PCA đã triệu tập một nhóm những chuyên gia làm việc
với mục đích đưa ra những khuyến cáo để cải thiện chức năng của
nó .Kể từ đó, PCA đã mở rộng và quốc tế hóa bộ phận nhân viên
của nó,làm tăng thêm sự nhận thức toàn cầu về khả năng và vai trò
của nó, và thúc đẩy và hiện đại hóa chức năng của hệ thống giải
quyết tranh chấp căn bản bằng việc thông qua những nguyên tắc
về thủ tục mà hầu như dựa trên các quy tắc của UNCITRAL.PCA
nhận thấy rằng,mặc dù… nhưng những nguyên tắc của
UNCITRAL đã phản ánh thực tiễn và nguyên tắc hoạt động được
thừa nhận trong văn hoá trọng tài trên toàn thế giới và sẽ “ quy
5
định những thủ tục có hiệu quả và công bằng trong việc hoà bình
giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia về việc giải thích, áp
dụng, thực hiện điều ước và những thoả thuận khác mặc dù những
thủ tục này được dùng trong trọng tài thương mại.”
- Kể từ năm 1990,nhân viên của PCA đã tăng lên gấp 5 và đại diện
cho hơn 10 quốc gia.

II. CƠ CẤU TỔ CHỨC (ORGANIZATIONAL ASPECTS)

1.Trụ sở

PCA có trụ sở tại Hague.Các quá trình giải quyết tranh chấp
được tiến hành dưới sự bảo trợ của nó có thể diễn ra tại bất kỳ nơi
nào khác mà được các bên và toà chấp thuận trong một trường hợp
nào đó.


2. International Bureau_Ban quốc tế

- Cơ cấu tổ chức cơ bản của PCA được thiết lập trong Công ước
nămm 1899 và 1907. PCA không phải là một toà thực sự với các
thẩm phán thường trực.Thay vào đó,một ban thư ký thường trực,
ban quốc tế và đứng đầu là tổng thư ký,giúp đỡ các bên,trong mỗi
vụ việc,thiết lập và quản lý một toà adhoc. Ban quốc tế là ban thư
ký đang hoạt động của PCA.Nó duy trì danh sách thường trực
những trọng tài tiềm năng,nhận những thông báo trực tiếp từ PCA
(bao gồm những yêu cầu về quyền trọng tài), và quy định những
6
sự phục vụ hành chính đang diễn ra đối với các tòa trọng tài,bao
gồm sự cung cấp các cơ sở cho việc xây dựng PCA.
3.Ủy ban (hội đồng) hành chính - Administrative Council

- Chức năng giám sát của PCA được giao cho hội đồng hành
chính,cơ quan bao gồm các đại diện ngoại giao của các bên được
cử tới Hà Lan dự hội nghị 1899 và 1907.Hội đồng đưa ra sự chỉ
đạo chung cho công việc của PCA, và giám sát sự quản lý, ngân
sách và chi tiêu của nó(PCA).(Ngân sách của PCA là sự đóng góp
của các quốc gia thành viên, số lượng mà dựa trên hệ thống các
đơn vị được duy trì bởi Hiệp hội bưu chính toàn cầu ( một trong số
ít các tổ chức liên chính phủ tồn tại từ 1899).Do đó,năm 2003,sự
đóng góp cao nhất của quốc gia đơn lẻ là 24,450 euros ( 50 đơn vị
) và thấp nhất là 244.50 euros (0.5 đv).)Tổng thư ký báo cáo
thường niên với hội đồng hành chính về hoạt động của PCA,chức
năng hành chính và chi tiêu của nó.(PCA).
(- Vì thời kỳ tái hoạt động của PCA xảy ra đồng thời với một
chính sách của chính phủ tuyên bố về sự phát triển không đáng kể
trong các tổ chức quốc tế,phần lớn những sự phát triển và mở rộng

mới đây của nó được tài trợ từ nguồn ngân sách dự trữ, bao gồm
các khoản phí thu từ các tòa trọng tài.)

4.Thành viên của toà

- Các nhà dự thảo công ước 1899 và 1907 đã dự tính việc các bên
lựa chọn trọng tài của mình thông qua một danh sách đóng.Bởi
vậy,2 công ước đó quy định rằng mỗi quốc gia ký kết Công ước có
7
thể chỉ định lên tới 4 thành viên của tòa: những người có đủ
chuyên môn trong lĩnh vực luật quốc tế,có đạo đức tốt và tự
nguyện chấp nhận các nghĩa vụ của một trọng tài (Đ44 CƯ
1907).Mặc dù công ước quy định rằng các trọng tài phải được lựa
chọn từ danh sách thành viên (Đ45 CƯ1907), nhưng rõ ràng
rằng,trong lịch sử của PCA,các bên muốn có sự tự do để chỉ định
trọng tài ngoài cái danh sách đó.

(- Ngoài việc thành lập một hội đồng trọng tài có khả năng, các
thành viên của PCA từ mỗi nước ký kết chỉ định một nhóm quốc
gia, mà các nhóm này có quyền cử các ứng viên tuyển vào ICJ.)

5.Các văn kiện pháp lý cơ bản

- Công ước năm 1899 và 1907 tạo thành những văn kiện cơ bản của
PCA.Trong khi các công ước cũng quy định một khung thủ tục
cho các cách giải quyết tranh chấp dưới sự bảo trợ của PCA,thì
một loạt các nguyên tắc thủ tục mới đã được ấn định vào những
năm gần đây.Những văn kiện đó phần lớn dựa trên các văn kiện
pháp lý của UNCITRAL, để phản ánh sự nhất trí trong các thủ tục
giải quyết tranh chấp trên toàn thế giới.Các bộ luật dưới đây đều

đang có hiệu lực:

• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp
bằng hình thức trọng tài giữa 2 quốc gia.(1992)
8
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng ttài giữa 2 bên mà chỉ có một bên là quốc gia (1993).
• Các nguyên tắc không bắt buộc cho Trọng tài liên quan đến các
tổ chức quốc tế và các quốc gia (1996)
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho trọng tài giữa các tổ chức
quốc tế và các bên tư nhân.(1996)
• Các nguyên tắc hòa giải không bắt buộc (1996)
• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc tìm hiểu tình hình
thực tế của ủy ban điều tra (1997)
• Các nguyên tắc của quy trình giải quyết tranh chấp bằng hình
thức trọng tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
• Các nguyên tắc không bắt buộc cho sự hòa giải tranh chấp liên
quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
According to the introduction to the 1992 Optional Rules for
Arbitrating
Disputes between Two States:
“Experience in arbitrations since 1981 suggests that the
UNCITRAL
Arbitration Rules provide fair and effective procedures for
peaceful
resolution of disputes between States concerning the
interpretation,
application and performance of treaties and other agreements,
although
they were originally designed for commercial arbitration.”

9

- Ngoài việc áp dụng các nguyên tắc dựa trên UNCITRAL,PCA
thường thực hiện việc xét xử theo các nguyên tắc xét xử của
UNCITRAL,hoặc theo các nguyên tắc adhoc được các bên đưa ra
cho việc xét xử liên quan.
- Vì vậy,đối với thủ tục của PCA,dường như không có một bộ luật
thủ tục riêng nào áp dụng cho tất cả các trường hợp.Bởi vì ưu thế
của việc xét xử là một phương pháp giải quyết tranh chấp quốc tế
nằm trong hệ thống của PCA, những tranh cãi về vấn đề thủ tục
trong bộ luật này giới hạn tính xét xử của trọng tài.Hơn nữa,bởi vì
các bên hiếm khi dựa vào các nguyên tắc không hợp thời và không
chi tiết, các nguyên tắc thủ tục đầu tiên trong công ước 1899 và
1907 nhấn mạnh vào các điều khoản trong các bộ luật hiện đại của
PCA.

6.Tòa
- Vì vậy, không có một tòa thực sự nào.Một tòa án hoặc một bộ
phận giải quyết tranh chấp khác được thiết lập theo từng vụ việc
được đệ trình, và phương pháp thành lập của nó sẽ dựa trên luật áp
dụng.

7. Registry Services

- Ban thư ký của PCA _ International Bureau_ có một nhóm nhân
viên hành chính và pháp luật thông thạo nhiều thứ tiếng và có kinh
nghiệm.Nó có thể cung cấp dịch vụ đăng ký và hỗ trợ pháp lý cho
10

các tòa và các ủy ban,ví dụ, cung cấp các nguồn thông tin chính

thức và đảm bảo sự an toàn của các tài liệu…Ngôn ngữ chính thức
được sử dụng trong PCA là tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng các vụ
kiện có thể tiến hành bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào được các bên
đồng ý.


III. THẨM QUYỀN


1. Jurisdiction of the Institution
- PCA vốn được thiết lập để giải quyết các tranh chấp giữa các
quốc gia, nhưng Các công ước La Hay lại cho phép sự linh hoạt
trong việc thiết lập một “hội đồng trọng tài đặc biệt”(special Board
of Arbitration).
- Theo các quy định không bắt buộc, nói chung, những bên sau, có
thể chấp thuận đưa vụ việc lên PCA:
+ Giữa hai quốc gia trở lên
+ Giữa Quốc gia và tổ chức quốc tế
+ Giữa hai tổ chức quốc tế trở lên
+ Giữa một quốc gia và một bên tư nhân
+ Giữa một tổ chức quốc tế và một bên tư nhân
- (Các nguyên tắc của PCA trong việc giải quyết các tranh chấp và
các quy định hoà giải không bắt buộc liên quan đến tài nguyên
11

thiên nhiên và môi trường không hề có yêu cầu một trong các bên
phải là quốc gia hoặc tổ chức quốc tế.)

2.Thẩm quyền của toà


Cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của toà trọng tài do các
bên thoả thuận.Các thoả thuận này có thể nằm trong các điều ước
cụ thể liên quan đến tranh chấp đang diễn ra hoặc các điều ước ký
kết,văn kiện pháp lý liên quan đến các tranh chấp trong tương.
(Toà trọng tài được trao quyền quyết định đối với bất cứ phản
đối nào không chấp nhận thẩm quyền của toà và quy định rằng để
quyết định thẩm quyền của toà, một thoả thuận về việc xét xử
bằng trọng tài có thể xem là tách biệt đối với các văn kiện chứa
đựng nó.)


3.Thẩm quyền tư vấn/thẩm quyền tranh chấp.

- Thực tiễn của PCA,không giống như ICJ, không có sự phân biệt
giữa thẩm quyền tranh chấp và thẩm quyền tư vấn.Toà trọng tài
luôn luôn có quyền xét xử và cần được phân biệt với các hình thức
giải quyết tranh chấp không qua xét xử khác bằng những phán
quyết cuối cùng và có tính ràng buộc.
(.Vì thế những phương pháp giải quyết tranh chấp không mang
tính ràng buộc bao gồm sự dàn xếp,hòa giải,và điều tra, có thể phù
hợp hơn với các bên trong việc tìm kiếm một tuyên bố có tính tư
12

vấn hoặc không ràng buộc đối với quyền và nghĩa vụ chung của
các bên.)

4. Subject Matter_Những vấn đề trọng tâm

- Thẩm quyền xét xử của tòa PCA là không giới hạn.Tuy nhiên
trong từng vụ việc,phạm vi của thẩm quyền xét xử bị hạn chế bởi

cách diễn đạt trong thỏa thuận về việc xét xử bằng trọng tài.Những
nguyên tắc thủ tục của PCA về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường quy định rõ
ràng rằng “Sự mô tả tính chất của tranh chấp liên quan tới môi
trường hoặc tài nguyên thiên nhiên là không cần thiết cho thẩm
quyền xét xử,tất cả các bên đều đồng ý đặt một tranh chấp đặc biệt
dưới sự điều chỉnh của các điều luật này”.

5.Thời hạn

Các nguyên tắc khác nhau về thủ tục không đặt ra một quy định về
thời hạn cho việc đưa tranh chấp lên tòa PCA.Những sự hạn chế
đó có thể thấy trong thỏa thuận về xét xử bằng phương pháp trọng
tài.

IV – NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG

1. Luật áp dụng
13

1.1 – Nguyên tắc thủ tục
- Ban đầu, Luật áp dụng trong quá trình xét xử sẽ do các bên lựa
chọn bằng việc chấp thuận áp dụng những nguyên tắc thủ tục cụ
thể.
- Các nguyên tắc thủ tục hiện nay, cũng như các nguyên tắc của
PCA (xuất phát từ các nguyên tắc của UNCITRAL) tạo ra sự linh
hoạt trong vấn đề thủ tục cho toà trọng tài và các bên. Có rất ít các
điều khoản bắt buộc, nghĩa là, các bên có thể thông qua thoả thuận
để thay đổi những quy định thủ tục. Tất cả các nguyên tắc của
PCA đều quy định, toà có thể điều hành việc xét xử theo cách mà

toà cho rằng là thích hợp, miễn là thoả mãn yêu cầu được quy định
tại điều 15 khoản 1 Uncitral : “the parties are treated with equality
and that, at any stage of the proceedings, each party is given a full
opportunity of presenting its case” . Trong các vụ thương mại tư
nhân, và cũng có thể hình dung trong các vụ khác, toà trọng tài có
thể áp dụng hoặc tham khảo luật trọng tài của nơi diễn ra xét xử để
bổ sung vào phần “luật áp dụng”. Trong việc xét xử giữa các quốc
gia, thoả thuận xét xử hoặc các nguyên tắc adhoc sẽ được các bên
thảo ra, trình lên trọng tài để bổ sung vào các nguyên tắc chính mà
không tham khảo đến luật của địa phương.
1.2 – Substantive
- Một lần nữa, các bên lại có thể có sự linh hoạt trong việc quy
định luật áp dụng giải quyết tranh chấp của họ.
- Theo luật của PCA, toà án trọng tài sẽ áp dụng luật do các bên
thoả thuận, nếu không có sự thoả thuận nào, toà sẽ áp dụng: hoặc
là các nguyên tắc áp dụng của luật quốc tế thông thường, hoặc là
bất cứ phần luật nào được quy định theo nguyên tắc chọn luật.
14

- Trong trường hợp, vụ việc liên quan đến tổ chức quốc tế, toà sẽ
áp dụng trực tiếp các quy định thích hợp của tổ chức có liên quan
và luật của các tổ chức quốc tế; trong trường hợp các bên trong vụ
việc là tư nhân, toà sẽ chú ý trực tiếp vào các thuật ngữ trong ký
kết, thoả thuận được nhắc đến…


2. CÁC VẤN ĐỀ THỦ TỤC
2.1- Lập thủ tục

Theo nguyên tắc của PCA, phía nguyên đơn – bên đề xướng

tranh chấp - phải có thông báo về việc tranh chấp cho phía bên kia
- bên bị đơn. Thông báo phải bao gồm những thông tin sau:
- Yêu cầu tranh chấp phải được giao cho trọng tài xét xử.
- Tên và địa chỉ của các bên.
- Liên hệ đến một điều khoản hay thoả thuận về tranh chấp.
- Liên hệ tới điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý
khác có liên quan đến tranh chấp phát sinh.
- Bản chất chung của vụ việc và chỉ ra mức độ liên quan
- Tìm kiếm sự hỗ trợ và biện pháp khắc phục.
- Đề nghị số lượng trọng tài.

Những quy định trên gần như được dẫn nguyên văn các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp của UNCITRAL, bởi các quy
định này được thực hiện trong tranh chấp thương mại, hướng tới
15

thừa nhận giải quyết tranh chấp dựa trên điều khoản tranh chấp
trong tương lai có trong hợp đồng thương mại. Trong trường hợp
tranh chấp được đưa ra theo thoả thuận, đặc biệt liên quan đến các
quốc gia, không bên nào được chỉ định là nguyên đơn hay bị đơn.

2.2 – Thành lập trọng tài

- Các bên có thể thoả thuận đưa ra quy định thành lập toà án trọng
tài. Theo như Công ước 1899 và 1907, các bên chỉ có thể lựa chọn
trọng tài theo danh sách mà PCA đưa ra. Tuy nhiên, quy định này
đã không còn từ rất lâu.
- Cách thành lập một toà án trọng tài cơ bản được phản ánh trong
Công ước 1899 và 1907 và nhiều nguyên tắc của PCA liên quan
đến sự sắp xếp của mỗi bên. Trong số các trọng tài mà các bên chỉ

định sẽ lựa chọn ra một trọng tài chủ trì. Các bên có thể thoả thuận
số lượng trọng tài (trọng tài duy nhất, ba trọng tài). Thường chỉ
trong trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia thì toà sẽ có 5 trọng
tài.
- Nếu các bên không thể lựa chọn, toà sẽ có 3 trọng tài. Nếu thiếu
sự đồng tình của trọng tài thứ 3 hoặc do một trong hai bên không
thể chỉ định trọng tài, các bên sẽ cùng xác định thẩm quyền lựa
chọn trọng tài hoặc theo như quy định của UNCITRIAL, thư ký
thường trực của PCA sẽ thực hiện vấn đề này.
- Nếu các bên đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trước trọng tài
duy nhất, họ có thể lựa chọn dựa trên thoả thuận chung, nếu thoả
thuận thất bại, họ sẽ uỷ thác cho người có thẩm quyền. Theo các
nguyên tắc của UNCITRIAL, thẩm quyền trong việc sắp xếp trọng
16

tài là việc sử dụng một “list procedure”, qua đó, các bên nhận
được một danh sách chính có ít nhất tên của 3 người, và nhiệm vụ
của họ là phải phản đối hoặc chấp nhận những ai trong danh sách
đó.
- Tuy nhiên, các bên có thể đưa ra một giải pháp khác trong việc
lựa chọn các trọng tài. Các bên có thể quy định bất kỳ các trọng tài
có chuyên môn đặc biệt trong lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp và
giới hạn quốc tịch của họ. Vấn đề quốc tịch đặc biệt quan trọng
trong các trường hợp nhạy cảm về mặt chính trị, vì vậy,
UNCITRIAL quy định, việc lựa chọn trọng tài phải được cân nhắc
kỹ lưỡng để đảm bảo cho sự độc lập, công bằng của trọng tài.
Ví dụ, các quy định không bắt buộc trong giải quyết tranh
chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường năm 2001
quy định thành lập hội đồng trọng tài có kinh nghiệm và chuyên
môn về luật môi trường hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên do các

quốc gia hoặc Tổng thư ký bổ nhiệm, nhưng cũng không yêu cầu
nhất thiết phải lựa chọn trọng tài từ hội đồng này.

2.3 – Phản đối trọng tài

Theo quy định của PCA, một bên có thể phản đối một trọng
tài nếu họ có nghi ngờ chính đáng về tính công bằng hay độc lập
của trọng tài đó. Nếu bên kia cũng đồng tình với sự phản đối này,
hoặc bản thân trọng tài đó tự rút khỏi vụ việc thì một trọng tài mới
sẽ được chỉ định theo cách mà trọng tài trước đó đã được chỉ định.
Mặt khác, phản đối sẽ được quyết định một lần nữa bởi người có
17

thẩm quyền trong hội đồng trọng tài, cũng như sự chấp thuận lẫn
nhau giữa các bên hoặc sự chấp nhận của Tồng thư ký PCA.

2.4 – Các biện pháp tạm thời

Theo quy định của PCA, Toà có thể yêu cầu một bên áp dụng
những biện pháp tạm thời cần thiết cho việc bảo đảm quyền lợi
riêng của từng bên hoặc những vấn đề chính trong tranh chấp
thông qua việc đưa ra các tuyên bố tạm thời. Hầu hết, các nguyên
tắc của PCA đều quy định rằng, các bên đều có thể hạn chế quyền
này của toà bằng những thoả thuận chung.
Trong các tranh chấp thương mại, các biện pháp tạm thời có
thể bao gồm việc gửi hàng hoá nhờ một bên thứ 3 hoặc bán các
loại hàng hoá có thể bị hư hại. Ví dụ, trong các quy phạm về Tài
nguyên thiên nhiên và môi trường có quy định toà được phép đưa
ra bất cứ yêu cầu nào về việc áp dụng “các biện pháp tạm thời để
đảm bảo quyền lợi của mỗi bên và ngăn ngừa sự nguy hại nghiêm

trọng đến môi trường nằm trong các vấn đề chính của vụ tranh
chấp.”
Trong mọi trường hợp, toà có thể yêu cầu các bên phải đảm
bảo đầy đủ chi phí liên quan tới việc thực hiện các biện pháp tạm
thời đó.
Bởi toà án trọng tài thường gặp nhiều khó khăn trong việc ép
buộc áp dụng các biện pháp tạm thời, tất cả các quy tắc giải quyết
tranh chấp của PCA đều dựa vào các quy tắc giải quyết của
UNCITRIAL: việc yêu cầu biện pháp tạm thời của bất cứ bên nào
18

tới người có thẩm quyền xét xử sẽ không được xem là không hợp
với thoả thuận xét xử hoặc sự từ bỏ thoả thuận đó.

2.5 – Preliminary Objections
Các quy tắc của PCA có quy định thủ tục ban đầu về việc xác
lập thẩm quyền xét xử. Những viện lẽ cho việc thiếu thẩm quyền
xét xử của toà phải được đưa ra trước khi quá trình biện hộ hoặc
được đề cập trong sự phản hồi đối với tuyên bố phản đối.

2.6 – Nơi tiến hành xét xử

Việc xét sử sẽ diễn ra tại Hague, Hà Lan nếu các bên không có
thoả thuận khác. Tuy nhiên, vẫn có sự linh hoạt đáng kể cho các
bên và toà trọng tài trong việc quyết định cụ thể nơi xét xử cho các
phiên điều trần, phiên gặp gỡ, tranh cãi. Như đã được nhắc tới ở
trên, trong các vụ việc cụ thể, nơi xét xử có thể ảnh hưởng tới luật
thủ tục áp dụng.



2.7 – Tranh tụng viết (written pleadings)

Nguyên đơn sẽ phải trình đơn kiện và sau đó thì bị đơn đưa ra
ý kiến phản bác. Đơn kiện phải bao gồm những thông tin sau:
a. Tên và địa chỉ của các bên
b. Trình bày sự việc
19

c. Các vấn đề đang tranh cãi
d. Hỗ trợ và biện pháp khắc phục
Kèm theo đơn kiện là những văn kiện có liên quan, bao gồm cả
việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của toà.
Ý kiến phản bác của bị đơn phải bao gồm các mục b, c, d như
trong đơn kiện của nguyên đơn, kèm theo các văn kiện, chứng cớ
có liên quan mà bị đơn có ý định đưa ra. Đơn phản bác cũng có thể
có một “counter – claim” phát sinh từ một điều ước, thoả thuận, ký
kết hoặc các văn kiện pháp lý tương tự hoặc một tuyên bố phản
kiện. Cả hai đều phải thoả mãn những yêu cầu thủ tục của một
tuyên bố phản bác bình thường.
Các bên có thể sửa đổi, bổ sung văn bản đệ trình bất cứ lúc nào
trừ khi toà thấy việc sửa đổi, bổ sung là không thích đáng và làm
chậm trễ sự trình bày của các bên, gây thiệt hại cho các bên.
Không có trường hợp việc sửa đổi, bổ sung vượt quá thẩm quyền
xét xử của toà. Toà có thẩm quyền quyết định có nên bổ sung thêm
một văn bản đệ trình nào không.
Mặc dù PCA có quy định thời hạn của việc trình lên các văn
bản tranh tụng, nhưng trong vấn đề này, toà thường họp các bên
lại, tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định. Điều này không được
quy định trong luật nhưng trong thực tế vẫn thường được áp dụng.
Nếu tranh tụng viết có quá nhiều phần, các bên thường hỏi ý kiến

toà và xin đăng ký quyết định có đưa trực tiếp các pleadings cho
nhau và các thành viên của toà hay không.

2.8 - Thẩm vấn trước toà (phiên điều trần)

20

Các bên được phép yêu cầu một phiên thẩm vấn trước toà.
Trong trường hợp không có yêu cầu nào, toà sẽ quyết định có tổ
chức thẩm vấn hay không hay là chỉ xét xử đơn độc hoặc hướng
dẫn thủ tục dựa trên các văn bản đệ trình, các tài liệu và văn kiện
liên quan. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hiếm khi nào các bên hoặc toà
bỏ qua phần “hearings”.
Những chi tiết cụ thể về thủ tục trong phiên điều trần thường
được các bên, toà án trọng tài đưa ra tỉ mỉ trong cuộc họp trước
phiên điều trần. Toà có thể linh hoạt điều khiển các thủ tục đó.

Điều 15: “provided that the parties are treated with equality
and that at any stage of the proceedings each party is given a full
opportunity of presenting its case.”

Luật cũng quy định về việc trình bày của các nhân chứng và
các chuyên gia. Nếu một bên có nhân chứng, thì họ phải báo cho
toà và bên kia ít nhất là sớm trước 30 ngày về tên tuổi và địa chỉ
của nhân chứng cũng như vấn đề mà họ làm chứng.

2.9 – Language of the Proceedings
Có thể được các bên thoả thuận. Nếu không có thoả thuận nào,
toà sẽ tự quyết định.


2.10. Sự can thiệp của bên thứ ba

21

Mặc dù, trong thủ tục xét xử của PCA không có quy định về sự
can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiện, nếu tranh chấp xảy ra giữa hai
bên trở lên, các bên có thoả thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết
tại PCA.

3 – PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ
3.1 – Phán quyết
Phán quyết cuối cùng của toà được thông qua bởi đa số thành
viên trong hội đồng trọng tài, được thể hiện trên văn bản, phải bao
gồm lý do của phán quyết trừ khi các bên không có yêu cầu. Trong
khi các Công ước 1899, 1907 đều quy định rằng, phán quyết phải
công khai thì PCA lại yêu cầu các bên phải có thoả thuận về vấn
đề các lý do có cần phải công khai hay không.
Phán quyết là cuối cùng và ràng buộc các bên, các bên phải thi
hành mà không có sự trì hoãn nào.
Nếu các bên đã đạt được một thoả thuận nào đó trước khi toà
kết thúc xét xử thì họ có thể yêu cầu toà ghi lại thoả thuận đó dưới
dạng quyết định về những điều kiện đã thoả thuận.

3.2 - Giải thích và sửa đổi
Sau khi phán quyết được đưa ra, các bên có thể yêu cầu toà
giải thích phán quyết hoặc sửa các lỗi trong tính toán, biên chép,
lỗi in hoặc yêu cầu một phán quyết bổ sung được đưa ra trong quá
trình xét xử nhưng đã bị bỏ sót trong phán quyết. Toà cũng có
quyền chủ động sửa lại các lỗi trong phán quyết trong vòng 30
ngày kể từ ngày đưa ra phán quyết.

22

3.3 - Kháng án
Phán quyết là cuối cùng và có tính ràng buộc, vì vậy các bên
không có quyền kháng án.

3.4 - Thi hành phán quyết
Các bên phải đảm bảo thi hành phán quyết mà không có sự trì
hoãn nào.
Các phán quyết trong các vụ liên quan đến các bên tư nhân
cũng được thi hành giống như các phán quyết giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế.
Trong một chừng mực nào đó, luật giải quyết tranh chấp tại
nơi xảy ra tranh chấp có quy định rằng, phán quyết phải được
trình lên hoặc được đăng ký, các quy phạm có liên quan quy định
rằng toà án phải có trách nhiệm trong vấn đề này.
Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử bởi các quốc gia và các tổ
chức phi chính phủ đạt được từ một thoả thuận giải quyết bằng
trọng tài theo quy chế của PCA không dẫn tới việc từ bỏ sự miễn
trừ thi hành.
B. Những case cụ thể
B1. Eritrea/Yemen
I) Giới thiệu chung

Vụ Eritrea/Yemen là một trong số những vụ có tính chất quan
trọng nhất trong lịch sử trọng tài thế giới. Tòa trọng tài gồm 5
thẩm phán trong vụ việc này đã đưa ra hai phán quyết trong hai
giai đoạn:
23


Một là, phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh
chấp” đưa ra ngày 9/10/1998.
Hai là, phán quyết về “Phân định biên giới biển” đưa ra ngày
17/12/1999.

II) Xác lập tòa trọng tài

Dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa chính phủ Eritrea và chính phủ
Cộng hòa Yemen vào ngày 3/10/1996, thỏa thuận này là sự tiếp
nối của thỏa thuận về những nguyên tắc chung giữa Eritrea/Yemen
tại Paris ngày 21/5/1996.

III) Thủ tục xét xử

Eritrea và Yemen, hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải
quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới biển; đã
quyết định thông qua thoả thuận trọng tài và thành lập Toà trọng
tài.
Toà mở phiên họp đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1997 tại
Luân đôn, Anh.
[Phần 5, Phán quyết ] Bốn trọng tài viên của Toà trọng tài
bàn bạc, trao đổi, phê chuẩn, thông qua các hoạt động được uỷ
quyền. Theo điều 7.2 Thoả thuận trọng tài, Toà chỉ định Tổng thư
ký Mr Jonkman của Toà trọng tài Thường trực (PCA) tại Hague và
Thư ký thứ nhất của PCA, Ms Bette E. Shifman lần lượt là người
24

lưu trữ hồ sơ và thư ký của Toà. Địa điểm đăng ký hồ sơ của Tòa
là tại Ban Quốc tế của PCA.
[Phần 6, Phán quyết ] Toà thông báo với hai đại diện của

Eritrea và Yemen về việc thành lập Toà và thảo luận một vài vấn
đề thực tế liên quan đến quá trình tố tụng trọng tài.
[Phần 7, Phán quyết] Điều 2 Thoả thuận trọng tài quy định:
1. Quyết định của Toà trọng tài phải phù hợp với những điều
khoản của Luật quốc tế, theo 2 giai đoạn.
2. Giai đoạn 1, Toà sẽ đưa ra phán quyết về chủ quyền lãnh thổ và
định nghĩa về phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Toà sẽ
quyết định chủ quyền lãnh thổ phù hợp với những nguyên tắc, quy
định và thực tiễn luật quốc tế áp dụng trong vụ việc này; cụ thể
trên cơ sở các danh nghĩa lịch sử. Toà sẽ quyết định về định nghĩa
phạm vi tranh chấp trên cơ sở quan điểm của 2 bên.
3. Giai đoạn 2, Toà sẽ đưa ra phán quyết về phân định đường biên
giới biển. Toà sẽ quyết định cân nhắc quan điểm của mình về các
vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Công ước Luật biển của Liên Hợp
quốc và những nhân tố phù hợp khác.
[Phần 8, Phán quyết ] Các bên cùng nộp Bản tranh tụng liên
quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp vào ngày 1
tháng 9 năm 1997 và Bản phản biện vào ngày 1 tháng 12 năm
1997. Phiên tranh tụng giai đoạn 1 sẽ diễn ra tại Luân đôn từ ngày
26 tháng 1 đến ngày 06 tháng 2 năm 1998. Theo bốc thăm, Eritrea
sẽ trình bày trước.
[ Phần 9, Phán quyết ] Vào cuối phiên họp ngày 6 tháng 02 năm
1998, theo điều 8.3 của Thoả thuận trọng tài, Toà kết thúc phần
tranh tụng trong giai đoạn 1 của quá trình tố tụng trọng tài giữa
25

Eritrea và Yemen. Tuy nhiên, vào cuối phiên tranh tụng, toà yêu
cầu 2 bên phải nộp văn bản trả lời những câu hỏi của Toà trước
ngày 23 tháng 02 năm 1998, trong đó bao gồm câu hỏi liên quan
đến sự tồn tại của các thỏa thuận về thăm dò và khai thác dầu mỏ.

Cũng theo điều 8.3, Toà có quyền yêu cầu các bên thể hiện quan
điểm của mình bằng văn bản để làm sáng tỏ bất kỳ khía cạnh nào
của các vấn đề trước Toà.
[Phần 10, 11 Phán quyết ] Theo thoả thuận của 2 bên,
Yemen sẽ trình bày lập luận trước liên quan đến nhượng quyền
thăm dò và khai thác dầu mỏ liên đới tới phán quyết về chủ quyền
lãnh thổ trong các phiên tranh tụng .
+ Toà đặt ra một loạt câu hỏi về việc giải thích bằng chứng
nhượng quyền và yêu cầu 2 bên trả lời bằng văn bản trong vòng 7
ngày kể từ khi kết thúc phiên tranh tụng. Và như vậy, theo quy
định, 2 bên phải nộp văn bản trả lời vào ngày 17 tháng 7 năm
1998. Nhưng trên thực tế, Eritrea đã nộp muộn vì có bản phụ lục
đi kèm. Ban Quốc tế của PCA đã nhận được bản phụ lục vào ngày
22 tháng 7 năm 1998; còn Yemen nộp văn bản muộn hơn nữa:
ngày 30 tháng 7 năm 1998. Eritrea phản đối việc nộp hồ sơ muộn
này của Yemen.
[Phần 12, Phán quyết ] Trong quá trình tranh tụng bổ sung
vào tháng 11 năm 1998, Toà thông báo cho các bên ý định liên hệ
với Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập để đảm bảo cho sự tồn tại và
muốn lấy bản copy của bất kỳ báo cáo chính thức nào của Liên
đoàn về các chuyến viếng thăm đến một vài hòn đảo đang bị tranh
chấp, đặc biệt vào những năm 70.
+ Ngày 20 tháng 7, Toà gửi fax đến Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập.

×