Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

tiểu luận sự năng động của văn hóa tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.75 KB, 54 trang )


1


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC








Tiểu luận

SỰ NĂNG ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TỔ CHỨC
Mary Jo Hatch

2


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C


ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC



Văn hóa thay đổi, nhưng đồng thời nó cũng có những đặc tính không thay
đổi. Những nhà xã hội học và nhân chủng học nghiên cứu về sự phát triển của
văn hóa (vd, Sahlins and service, 1960; Sorokin, 1937; White, 1959), và ghi lại
điều này trên cả hai phương diện tính ổn định và tính thay đổi, để hình thành
những lý thuyết về sự năng động của văn hóa tổ chức (Barnett, 1953; Herskovits,
1948, 1964; Kroeber, 1944; Malinowski, 1945; Redfield, 1953; Weber,
1924/1947). Tuy nhiên vì một số lý do, một số ít công trình này được chắt lọc lại
để bàn luận về văn hóa hiện tại trong lĩnh vực doanh nghiệp và những tổ chức.
Sự thật, dường như có thể nói chỉ một nhóm nhỏ nghiên cứu về tổ chức vào
những năm 1980, khi văn hóa tổ chức đạt đến một mức độ nào đó, đề cập đến sự
năng động của văn hóa (Brannen, 1998; Czarniawska and Sevon,1996;Gagliardi,
1986; Hatch, 1993; Schein,1985,1992; Van maanen and schein, 1979).
Vì hầu hết những học giả về tổ chức, cho rằng văn hóa thì mang tính ổn
định, khó thay đổi, và chỉ có thể thay đổi thông qua sự can thiệp của quản lý. Chỉ
mới năm 199l chẳng hạn, Hendry cho rằng bởi vì sâu trong bản chất của bất kì
một văn hóa, xã hội, thể chế, tổ chức nào là đề kháng lại sự thay đổi (Hendry,
1999, trang 563). Có hàng trăm dẫn chứng đưa ra cách để thay đổi văn hóa tổ
chức, một vài dẫn chứng có tính ảnh hưởng nhất là Ouchi (1981), Pascale và
Athos (1981), Deal và Kennedy (1982), Kilmann, Saxton, Serpa (1985). Tuy
nhiên gần như những tài liệu này đưa ra tính khả thi và quyền lợi về văn hóa tổ
chức được sửa đổi có mục đích để đạt sự kiểm soát về mặt quản lý lớn hơn hoặc
thúc đẩy thành tích của tổ chức. Do đó, những tài liệu này kiểm tra sự ổn định
văn hóa tổ chức với đòi hỏi về quản lý cho những thay đổi và khả năng thích
nghi của tổ chức.

Những điều không thích ứng với quan điểm quản lý về thay đổi văn hóa
chủ yếu sẽ được tìm thấy trong tài liệu về tổ chức rõ hơn ( xem Schultz,1995, or

3


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

Hatch & Yanow, 2003, bàn luận về quan điểm một cách cụ thể trong những
nghiên cứu về tổ chức. cách thức để hiểu rõ hơn, tuy nhiên, thường có khuynh
hướng tập trung vào ý nghĩa, cảm giác, sự hình thành, và những khía cạnh mang
tính biểu tượng và nghệ thuật của văn hóa hơn thuộc tính về tính động ( xe m,
Frost, Moore, Louis, Lundberg, và Martin, 1985, 1991; Gagliardi, 1990, Jones,
Moore, và Snyder, 1988; và Turner, 1990, những thu thập về nghiên cứu văn hóa
tổ chức một cách cụ thể, hoặc Martin, 1992, khảo sát rộng rãi về tài liệu văn hóa
tổ chức). Mặc dù thay đổi không phải là chủ đề quan tâm chính cho sự rõ ràng
(cf.Gagliadi, 1986; Hatch, 1993; Schein, 1985, 1992), đôi lúc việc đề kháng với
sự thay đổi, cụ thể là trong số những người thích nghi với xu hướng mang tính
chỉ trích (vd, Collinson, 1999, Hopfl và Linstead, 1993; Jermier, 1998; Knights
và Willmott, 1993) quan điểm của phe phái phê phán văn hóa hoặc như là vật
biểu tượng được tranh cãi ( ai sẽ kiểm soát được ý nghĩ?) hoặc là công cụ được
sử dụng cho sự đấu tranh vì quyền lực và sự thống trị.
Cả nhà nghiên cứu về tổ chức với ý nghĩ chỉ trích và quản lý cho rằng đề
kháng với sự thay đổi bắt nguồn từ sự ổn định của văn hóa (hoặc theo thuật ngữ

mang tính phê phán, sự đề kháng với những áp bức trong quản lý có thể được bắt
nguồn từ sự phụ thuộc lẫn nhau của văn hóa của giai cấp công nhân). Bate (1997,
p.238) lên tiếng về mặt quản lý của vấn đề hóc búa này khi ông ta “cho rằng
những vết tích văn hóa đang yếu dần từ quá khứ” cùng với “sự tàn phá” ngày qua
ngày trong quá trình quản lý. Trên khía cạnh chỉ trích, Jerrnier (1998, p.238), do
Horkheimer diễn giải lại) nhận thấy rằng “công trình của những nhà lý luận
mang tính phê bình nghĩ về sự nô lệ của cộng đồng người bị áp bức và bóc lột và
việc hủy bỏ của sự bất công trong xã hội.” Sự kháng cự, được những nhà nghiên
cứu về văn hóa quản lý tổ chức tiếc nhớ hoặc được động viên từ những nhà lý
luận phê bình, mô phỏng lại sự không thống nhất giữa những điều quan tâm
trong quản lý và “ những người phản kháng.” Một sự không thống nhất tương tự,
do Martin và Frost (1996) đặt tên là “trò chơi về chiến tranh văn hóa tổ chức” là
bằng chứng giữa những điều mang tính học thuật.

4


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

Martin và Frost (1996) trình bày những phân tích của chiến tranh mang tính
học thuật giữa những nhà nghiên cứu thích ứng với cách nghĩ khác nhau về văn
hóa tổ chức. Thu hút sự chú ý về sự phân loại của Martin’s (1992) những nhà
nghiên cứu thành những nhóm bè phái thống nhất, khác nhau, chấp vá ( đại khái
nhắm vào những suy nghĩ hiện đại, cụ thể, và phản hiện đại), Martin và Frost cho

rằng quan điểm thống nhất theo hướng quản lý đang tranh giành với những
hướng cụ thể thu hút những ranh giới tranh luận giữa những quan điểm về văn
hóa được nhấn mạnh về tính kiên định, hài hòa, nhất trí và văn hóa chủ yếu phân
chia theo văn hóa nhóm. Ranh giới tranh luận này được cũng cố bằng sự khác
nhau về quan điểm đề cập đến những phương pháp luận thích đáng và lập trường
nhận thức luận cơ bản, cụ thể những hành động tương đối của phương pháp định
tính và định lượng. Như Martin và Frost (1996, p.613) thêm vào “mỗi nghiên
cứu cẩn thận về định tính và định lượng cố gắng để phản bác cho những kết luận
thống nhất bị phản bác nhanh chóng bởi sự xác nhận rằng văn hóa có thể là sự ẩn
náo cho tính đồng nhất và tính hài hòa – nơi mà những giá trị quản lý được chia
sẻ bởi mọi người, nhiệm vụ chính của nhân viên là tìm thấy văn hóa phù hợp với
bản thân họ.
Trong khi phép ẩn dụ về trò chơi chiến tranh thu hút sự chú ý để kết thúc
cuộc tranh luận giữa những nghiên cứu về văn hóa tổ chức, bản thân nó cũng làm
xao lãng một viễn cảnh lớn hơn về sự năng động của văn hóa. Chương này sẽ
đánh dấu sự trở lại kế hoạch dường như bị mất cả về sự ổn định và thay đổi, kế
hoạch này bắt đầu bởi những nhà xã hội học cải tiến và nhà nhân loại học về văn
hóa ban đầu. Trong những trang theo sau tôi sẽ chỉ ra một loạt nhà học giả ban
đầu về sự năng động của văn hóa và tiếp bước của họ trong nghiên cứu văn hóa
tổ chức, đưa ra sự kết nối với những công trình ban đầu. Mục đích của tôi là tập
hợp sự hỗ trợ về mặt lý thuyết cho mục đích theo đuổi về giả thuyết của sự năng
động của văn hóa tổ chức đề cập đến sự ổn định và thay đổi như là kết quả hai
mặt của quá trình văn hóa.
Sự năng động của văn hóa trong xã hội tiến hóa và văn hóa nhân loại

5


S
Ự NĂNG ĐỘNG


C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

Vào 1983, nhà xã hội học về tiến hóa đưa ra cơ cấu của tiến hóa là bản thân
của nó tự phát triển. Theo Ward, vũ trụ xuất hiện vào sự ra đời của vạn vật, theo
cơ cấu cải tiến hóa mới rút ra cùng với sự xuất hiện của sự sống, con người, và
hệ thống xã hội, sau cùng gồm xã hội và tổ chức. Nhà nhân loại học mang ý nghĩ
về sự tiến hóa sau đó bàn về sự tiến hóa của xã hội, một số hiểu cơ cấu này trong
mối liên hệ với sự tiến triển của văn hóa. Chẳng hạn, Leslie White (1959) đề
nghị cách thức đầu tiên của sự cải tiến văn hóa là những thay đổi về mặt kỹ
thuật. Từ những hướng tiếp cận khác, Sahlins và service (1960) phân biệt những
tác động chung từ những tiến hóa cụ thể về lý lẽ mà sự tiến hóa chung định nghĩa
“ hướng tổng quát của con người, nơi mà hình thức văn hóa mới liên tục xuất
hiện,” trong khi sự tiến hóa một cách cụ thể “ bao gồm những cách thức cụ thể
nơi mà dạng văn hóa mới bản thân nó tự thích ứng với những môi trường cụ thế”
( Sztompka, 1993, p.117).
Song song với giả thuyết về tiến hóa cụ thể, nhưng thường phủ nhận sự tiến
hóa như nền tảng giả thuyết của nó, các nhà nhân loại học về văn hóa tương tự đã
đi đến kết luận rằng điều quan trọng để nghiên cứu sự thay đổi văn hóa theo cách
cụ thể và cho nó là một quá trình cơ bản.
Mặc dù không phải tất cả những nhân loại học về văn hóa chê bai sự tiến
hóa, những người này theo Boas và Malinowski tranh luận về kết luận tiến hóa
rằng bản thân văn hóa là không phụ thuộc lẫn nhau. Thay vì phát triển, các nhà
nhân loại học đưa ra cách thức về những ảnh hưởng của việc so sánh giữa các
nền văn hóa chẳng hạn như sự phổ biến. Nhưng có sự khác nhau giữa những nhà
nhân loại học ban đầu với đồng nghiệp của họ, người tán thành với quan điểm
tiến hóa. Sự khác nhau quan trọng là những nhà nhân loại học không giới hạn

mối quan tâm của họ về quá trình thay đổi có liên quan sự thích nghi với môi
trường; họ cũng quan tâm đến quá trình thay đổi văn hóa xảy ra trong phạm vi
văn hóa. Sự khác nhau thứ hai là nhà nhân loại học về văn hóa có khuynh hướng
chỉ nhìn cách thức của sự thay đổi, nhưng không nhìn vào mối quan hệ với cách
thức của sự ổn định.

6


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

Theo Robert Redfield (1953), những nhà nhân loại học đầu tiên đã để lại
những ấn tượng sai về văn hóa nguyên thủy thì bảo thủ, ổn định, không thay đổi.
Redfield thừa nhận những nhà nhân loại học thường khá nhạy cảm, tiếc nuối về
sự qua đi của văn hóa và hình thức của nó. Chẳng hạn, phản ứng với những bàn
luận của những nhà báo cho rằng “ sự giận dữ được cảm nhận khi tài liệu nghiên
cứu ghi nhận nhịp điệu của các điệu múa cũ bây giờ được đánh trên thùng bánh
bích quy thay vì trên một cái trống.”
Tôi đã từng xót xa cho sự đi xuống của nghệ thuật dân gian ở Mexico hay ở
Trung Quốc. Khuynh hướng này hé lộ mối quan tâm về cách thức cũ trong một
xã hội mang tính giao thoa giữa nhiều nền văn hóa được thúc đẩy bởi sự so sánh
giữa những nền văn hóa, như là hệ thống không thay đổi, là nhiệm vụ cơ bản của
những nhà nhân loại học cho đến thời gian gần đây, khi sự tiếp nhận và biến đổi
về văn hóa và những vấn đề cá nhân trở thành vấn đề cho những nhà nhân loại

học để nghiên cứu. Bị thuyết phục bởi hệ thống những ý tưởng, những người bản
xứ đã thấy sự thuyết phục, thỏa mãn khi những nhà nhân loại học khám phá ra
tính mạch lạc và lôgic của nó.
Theo sự nhạy cảm, Redfield cho rằng nhấn mạnh về chủ nghĩa bảo thủ
trong văn hóa và sự ổn định ít nhất là một phần về sự giả tạo của phương pháp
luận có tính logic, những ảnh hưởng đậm tính giả thuyết về chủ nghĩa của sự rập
khuôn, và những nghiên cứu luật lệ về văn hóa của con người không tạo nên sự
chú ý để thay đổi. Thay đổi đang gây phiền hà hơn quan tâm. Chẳng hạn, khi văn
hóa thay đổi, những nhà nhân loại học được yêu cầu bảo vệ sự thật của các
phương pháp và giá trị của những giả thuyết và điều khám phá của họ. Tuy
nhiên, cuối cùng thì sự thay đổi văn hóa không được thừa nhận, vào những năm
1940 vấn đề của sự thay đổi ảnh hưởng đáng kể đến sự năng động của các nhà
nhân loại học về văn hóa.
Sự thay đổi luôn xảy ra trong văn hóa con người. Tuy nhiên, nó luôn luôn
được nghiên cứu đối lập về cơ sở của sự ổn định văn hóa. Mặc dù những cơ sở
có thể xuất hiện có ảnh hưởng sâu rộng đến những thành phần khác của xã hội

7


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

nơi chúng xảy ra, chúng hiếm khi ảnh hưởng nhiều hơn một phần tương đối nhỏ
của toàn bộ tập quán mà con người đang sống. Vấn đề về sự năng động của văn

hóa như thế dường như là tích cực và tại một thời điểm như thế là khía cạnh tiêu
cực. Thay đổi, đó là phải luôn luôn xem xét trong mối quan hệ sự đối kháng
chống lại với sự thay đổi.
Mặc dù những xáo trộn về sự ổn định văn hóa và sự đối kháng với thay đổi
trong giai đoạn này có lẽ giúp cho việc giải thích khoảng cách trong chò chơi về
chiến tranh văn hóa, Herkovits cũng đưa ra sự chỉ dẫn quan trọng để hiểu vì sao
sự ổn định và thay đổi là một phần của văn hóa. Như người quan sát sắc sảo, bạn
sẽ “không bao giờ thấy văn hóa biến đổi một tỉ lệ như nhau toàn bộ về phía
trước” (Herkovits 1964, p.148). Theo đó điểm mấu chốt để phá vỡ sự năng động
của văn hóa tổ chức là hiểu điều đó, tại thời điểm được đưa ra, văn hóa chỉ đang
thay đổi một phần ; phần khác vẫn ổn định.
Ý tưởng của Herkovits cho rằng văn hóa thay đổi với mức độ khác nhau “
vượt lên về phía trước” diễn tả một hình ảnh năng động của văn hóa, cái mà ông
ta mô tả ẩn dụ đầy sống động trong đoạn khác bằng việc cho rằng “ hoài bão lớn
bao gồm bất kì văn hóa nào thì biến đổi từ điều hiện tại, một s ố ở hiện tại, một số
đi nhanh hơn ( Herkovits 1964, pp. 205-206). Những khía cạnh năng động này
một phần từ công trình của Linton ( 1936) và Barnett ( 1942).
Linton mô tả những điều giống và khác nhau giữa hành vi trong phạm vi
văn hóa bằng 4 thành tố (Linton, 1936, pp.272-275) được trích dẫn trong
Herskovit 1964, p.210).
1. Những dạng phổ biến - niềm tin và dạng hành vi được xem như bất kì
thành tố bình thường nào trong xã hội ( ngôn ngữ, quần áo, nhà cửa).
2. Những dạng đặc biệt - những mặt cụ thể của hành vi được đặc trưng bởi
một nhóm người nào đó trong toàn bộ xã hội lớn hơn ( những hoạt động đặc
trưng từ sự khác biệt về giới tính, những hoạt động khác biệt của những
người điêu luyện).

8



S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

3. Những lựa chọn thay thế - dạng hành vi được công nhận bởi xã hội như
là nền tảng, nhưng nó bỏ qua địa vị, nghề nghiêp, giới tính ( cách chọn màu
để trang trí, chọn từ, cách chơi trò chơi, những hình thức kết hôn khác
nhau).
4. Những lập dị cá nhân – dạng hành vi lão luyện có được từ những người
theo chủ nghĩa cá nhân ( nguồn đổi mới của văn hóa).
Theo Linton, những dạng phổ biến của văn hóa giải thích những điều giống
nhau về hành vi qua tất cả từng loại văn hóa trong đó những dạng đặc biệt,
những dạng thay thế, và những điều lập dị (tức là, phong cách riêng) phá hủy
những điều khác nhau. Thêm vào đó, Linton (1936, p.402) tranh cãi rằng tất cả
những thành tố của văn hóa sở hữu bốn đặc tính tương đương với nhau – hình
thức, ý nghĩa, sử dụng, và chức năng. Barnett (1942) sau đó cho rằng những đặc
tính này thay đổi không phụ thuộc nhau như sự thay đổi của các thành tố văn
hóa. Do đó trong khuôn khổ của Linton đưa ra sôi nổi hơn. Như những gì sẽ
được xem xét bên dưới những chuyên gia, những điều lập dị, và cụ thể là sự thay
thế sau đó hình thành nên nhận thức như là dịp thay đổi văn hóa. Đặc tính về ý
nghĩa và việc sử dụng ( như là sự đối nghịch với hình thức và chức năng) báo
hiệu cho sự phát triển biểu tượng cụ thể trong nhân loại học về văn hóa ( điển
hình là công trình nghiên cứu của Geertz, ví dụ, 1973).
Như một phần nổ lực của ông ấy để tạo ra những lý thuyết về sự năng động
của văn hóa, Herskovits (1964, pp.152-158) phân loại những nghiên cứu về thay
đổi văn hóa thành một trong hai dạng: thay đổi từ bên trong và thay đổi từ bên

ngoài. Do đó, chúng tôi đã tìm thấy nguồn thay đổi đóng góp đến sự đổi mới, sự
khám phá, và những điều phát minh (“ thay đổi bên trong” hoặc nguồn gốc của
sự độc lập), hoặc sự phổ biến và văn hóa vay mượn (“ thay đổi bên ngoài”).
Herskovits cho rằng những bằng chứng về nhân loại học hỗ trợ cho sự thay đổi
bên ngoài có sẵn nhiều hơn những bằng chứng hỗ trợ cho nguồn gốc của sự độc
lập bởi vì mối quan tâm của những nhà nhân loại vào thời điểm này. Một trong
những ảnh hưởng nhất về điều này là Bronislow Malinowski, mặc dù khi chúng

9


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

ta sẽ xem bên dưới có liên hệ với công trình của Weber’s, phần lớn trong số
những gì mà Malinowski nói về sự năng động của sự thay đổi từ bên ngoài xuất
hiện để khái quát cho những điều thay đổi từ bên trong.
Malinowski là người dẫn đầu trong những nghiên cứu về quá trình của sự
phổ biến khi chúng bộc lộ qua sự tiếp xúc và thay đổi về văn hóa. Những nổ lực
của ông để mô tả và giải thích cho những gì xảy ra với văn hóa cổ xưa khi chúng
được xoay về với hiện tại được dẫn chứng trong cuốn sách về sự năng động của
sự thay đổi văn hóa vào năm 1945, trong đó ông ta viết về sự phổ biến của văn
hóa Châu Âu đến Châu Phi. Trong quyển sách này, Malinowski (1945) diễn tả
mối quan hệ văn hóa khi nó xảy ra đầu tiên từ sự ra đời của hai nền văn hóa được
đề cập đến và cho rằng sự thay đổi là kết quả của hai tác động của những điều

được lập ra trên cái khác. Malinows ki (1945, p.71) giải thích: “ sự thật cơ bản
của sự thay đổi văn hóa xoay quanh sự thật về tương đương với sự ra đời của hai
nền văn hóa làm thỏa mãn những nhu cầu giống nhau theo những cách khác nhau
và với những kỹ thuật khác nhau; nhưng trong quá trình này họ phải sử dụng
những con người giống nhau và những nguồn lực tự nhiên: đất, vốn, nhân lực, tổ
chức chính trị, thúc đẩy sự mô phỏng của con người, và cũng như những cảm
xúc, giá trị, lòng trung thành được tiêu chuẩn hóa một cách cụ thể với từng nền
văn hóa”.
Malinowski sau đó đã phân tích những tác động qua lại của sự tương đương
của việc lập ra nền văn hóa Châu Âu và Châu Phi, chẳng hạn chính quyền Châu
Âu và quyền lực của những bộ lạc bản xứ, những xí nghiệp phương tây và lực
lượng lao động Châu Phi, và xã hội của những nhóm người truyền giáo và sự tín
ngưỡng của Châu Phi.
Mục đích của chúng tôi trong chương này, điểm quan trọng không phải tập
trung của Malinowski vào sự lập ra như là phương tiện truyền đạt những trao đổi
về văn hóa, mà là những mô tả của ông về quá trình trao đổi của chính nó. Giao
tiếp và thay đổi về văn hóa của Malinowski không chỉ là sự thống nhất đơn giản
hoặc là sự pha trộn lẫn nhau giữa hai nền văn hóa thay vì thống nhất, Malinowski

10


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC


(1945, p.26) đưa ra tính năng động của sự bổ sung phức tạp nơi mà “hai điều này
tác động lẫn nhau” và bằng cách ấy tạo ra “ hiện tượng của sự thay đổi tự trị là
kết quả sự phản ứng của hai nền văn hóa.” Ông mô tả sự phổ biến như là sự phụ
thuộc với nền văn hóa ban đầu, nhưng không phải là tiền lệ giữa chúng. Kết quả,
ông cho rằng , là “ tính chân thực của nền văn hóa mới” phải được hiểu, không
liên quan đến nền văn hóa mẹ đẻ, nhưng như là một quá trình “ chúng tự kiểm
soát” (Malinowski,1945, p.80).
(Malinowski,1945, p.52) cũng thừa nhận sự ổn định như là sự đối lập với
những thay đổi của văn hóa, ghi chú, “ trong khi dường như dễ thay đổi một thói
quen ở mọi nơi hoặc là biến đổi một cách thức mang tính kỹ thuật, một sự thay
đổi chi tiết như thế thường làm rối sự lập ra mà không có sự sửa đổi nó, bởi vì…
niềm tin, ý kiến, và thực tế được gắn chặt vào một hệ thống lớn hơn.” Theo
Malinowski, ảnh hưởng của sự ổn định của hệ thống lớn hơn cái mà sự lập ra (
như niềm tin, ý kiến, và thực tế) được gắn chặt những giới hạn khả năng cụ thể
của hai nền văn hóa. Giới hạn này theo Malinowski, dẫn đến chỉ có ba kết quả có
thể của sự giao tiếp về văn hóa: xung đột, hợp tác, hoặc sự thỏa hiệp.
Trong mối liên hệ với sự thay thế của xung đột, hợp tác, và thỏa hiệp mà
Malinowski trở nên giáo điều và mang tính chính trị khi quan tâm thận trọng đến
thay đổi văn hóa. Ý niệm của ông về những điều đưa ra có tính chọn lọc diễn tả
những bằng chứng rõ ràng mà ông ta hiểu về vai trò của sự chi phối trong những
thay đổi về văn hóa mà ông quan sát ở Châu Phi (Malinowski,1945, p.58): “ nếu
quyền lực, sự giàu có, và những tiện nghi xã hội được đưa ra, thay đổi về văn
hóa là một quá trình dễ so sánh và bằng phẳng. Sự vắng mặt của những nhân tố
này – những điều chọn lọc được đưa ra của chúng tôi- tạo ra sự thay đổi văn hóa
như một quá trình phức tạp và khó khăn. Những ảnh hưởng thực sự cho sự đồng
hóa như thế được tìm thấy trong những lợi thế do chúng tôi đưa ra đối với việc
thừa nhận nền văn hóa…. những điều chọn lọc được đưa ra ảnh hưởng lên quá
trình thay đổi”, trong đoạn này Malinowski làm sáng tỏ sự thay đổi về văn hóa
xảy ra trong quá trình xâm nhập vào nền văn hóa khác như là sự chi phối vào


11


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

một của một nhóm liên quan đến nhóm khác ( tức là, sự giữ lại quyền lực, sự
giàu có, và những tiện nghi xã hội). Sự chống lại những thay đổi như thế có lẽ
bắt nguồn từ những nguồn văn hóa nhưng được nhằm vào những khó khăn cho
quyền lực và sự chi phối giữa hai nhóm đối lập. Do đó, theo Malinowski tôi sẽ
tranh luận rằng không phải văn hóa vùng đông nam mới chịu trách nhiệm cho sự
kháng cự, nhưng đúng hơn là những hành động chi phối khắc sâu trong mối quan
hệ giữa các nền văn hóa ( chẳng hạn những điều đề cập ban đầu của diều này về
việc mang những hướng tiếp cận về dân tộc học mang ý nghĩa chỉ trích đến việc
quản lý văn hóa, vd, Van Maanen, 1991; Rosen, 1988; và Kunda,1992).
Xét đến viễn cảnh về sự so sánh giữa các nền văn hóa để đưa ra cái được
chọn, Malinowski (1945) ước chừng về sự năng động văn hóa mà nhà xã hội học
Max Weber mô tả đầu tiên như là thói quen của sức thu hút ( xem Hatch, 2000,
thêm vào những thảo luận của Weber và sự năng động văn hóa). Đó là, nếu
chúng ta nhận thức được những người khởi xướng và những người theo sau như
là thành viên của những nền văn hóa khác nhau ( hay tiểu văn hóa), một hình
thức mạnh mẽ của sự chống cự mà Malinowski quan sát việc vận động giữa
những nền văn hóa là song song từ những bàn luận của Weber về thói quen.
Weber quan tâm đến việc giải thích như thế nào, dưới những điều kiện bất
thường bao gồm “ sự gáng chịu, xung đột, hoăc nhiệt tình,” những thay đổi mang

tính cách mạng trong thế giới quan và những ảnh hưởng mang tính logic của họ
về những hoạt động xã hội xảy ra trong lòng xã hội (Weber, 1968/1978, pp.241-
249). Tuy nhiên, Weber thấy rằng trong những thay đổi, những tác động của ảnh
hưởng có sức thu hút để đáp ứng những nhu cầu và mối quan tâm hằng ngày của
cuộc sống. Để giải thích về những thói quen, Weber đề nghị quá trình của việc
hệ thống hóa và sự thỏa hiệp. Với việc hệ thống hóa, “những người học trò” của
những người khởi xướng có sức thu hút liên kết và mở rộng những ảnh hưởng
của sức thu hút với cuộc sống thường ngày. Như học giả của Weber, Palph
Schroeder (1992, p.10) giải thích về nó “ tầng lớp xã hội của những người làm
sáng tỏ dựng lên hệ thống về niềm tin để thiết lập toàn bộ chặt chẽ và nguyên lý

12


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

của nó mở rộng để ứng dụng vào những khía cạnh luôn thay đổi của cuộc sống
mỗi ngày.” Sự thỏa hiệp liên quan đến việc làm sáng tỏ và những bổ sung cho
niềm tin mới và nghĩa vụ. Những niềm tin mới và nghĩa vụ này sau đó sẽ định
hình và sửa đổi những ảnh hưởng có tính thu hút theo cách xếp ngang hàng với
những khía cạnh trần tục và giống nhau của cuộc sống hàng ngày và làm cho nó
được làm rõ lại, nhiều hay ít hơn, với những mối quan hệ đang tồn tại. Schroeder
( 1992, p10) giải thích: “ có sự thỏa hiệp về hệ thống niềm tin với mối quan tâm
của tầng lớp những người tin luôn thay đổi. Như một kết quả, nội dung của nó

đáp lại càng nhiều với những gì của tầng lớp này, dựa vào vị trí xã hội, được dẫn
dắt để tin hay với những thói quen hằng ngày của họ.”
Mặc dù thông qua những thói quen, Weber lý luận rằng những ý tưởng mới
được đưa ra bởi những cá nhân có sức thu hút thiết lập nên sự thay đổi về văn
hóa nhưng cũng được biến đổi bởi những quá trình đó (tức là, theo sự hệ thống
hóa và sự thỏa hiệp). Sự biến đổi xảy ra bởi những người theo sau không chỉ
muốn tham gia vào thế giới quan của những người khởi xướng có sức thu hút,
mà còn muốn duy trì vị trí xã hội của họ và vật chất của họ ( vd, phục vụ cho
nghĩa vụ về gia đình của họ và niềm quan tâm về kinh tế và chính trị). Do đó thói
quen đạt được là sự thay đổi và ổn định.
Một giới hạn mà tôi thấy qua sự miêu tả của Malinowski về sự trao đổi giữa
những nền văn hóa để so sánh với những giả thuyết về sức thu hút của Weber.
Trãi qua những điều kiện được chọn (chẳng hạn, sự chi phối), ước muốn tham
gia vào những thế giới quan của những tổ chức thay đổi thì vắng hoặc bị giới hạn
khắc khe, và như là kết quả của quá trình hệ thống hóa và sự thỏa hiệp được mô
tả bởi Weber thì chưa bao giờ được đưa vào toàn bộ cuộc chơi này. Khi sự chi
phối không phải là một vấn đề (cho những văn hóa bị chi phối hay cả những văn
hóa bằng nhau sự trao đổi của mức độ thu hút), thế giới quan của những người
khác cho ra sự lôi kéo thu hút sự hệ thống hóa và quá trình của sự thỏa hiệp, chỉ
khi thu hút những ý tưởng này về phía những người khởi xướng có sức thu hút.

13


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T

Ổ CHỨC

Khái niệm về những điều chọn lọc cho thấy rằng sự thay đổi văn hóa có thể
ám chỉ định nghĩa của tình trạng này cũng như là bao gồm cả sự thống trị hay
không. Khi những người đấu tranh kháng cự cầu khẩn một hệ thống thống trị, họ
xây dựng một xã hội định hướng văn hóa thích hợp nhất để duy trì sự kháng cự
đối với sự thay đổi áp đặt. Trớ trêu thay, trong khi buộc tội những người khác về
sự thực thi bá quyền, thì chính những hành động như vậy của họ lại là bá
quyền. Mặt khác, những người lãnh đạo lại chào mời sự kháng cự như vậy, đặc
biệt khi họ thực thi những điều chọn lọc – chẳng hạn, khi họ xúc tiến các kế
hoạch trao quyền cho nhân viên, nhưng không phải vì phúc lợi cho nhân viên,
mà là để tối đa hóa sự giàu có của mình hoặc của các cổ đông. Một khi thái độ
này kết hợp với sự thu hẹp, nỗi lo mất mát sau cùng chỉ phóng đại ý thức về sự
thống trị và dập tắt đi quá trình thay đổi mà những người lãnh đạo đã rất hy vọng
để dẫn dắt. Các ví dụ rõ ràng về hiện tượng này đã được phát hiện bởi các nhà
nghiên cứu trong khi nghiên cứu các khía cạnh văn hóa của các vụ sáp nhập và
mua lại (chẳng hạn, Bastien, 1989; Mirvis và Marks, 1992).
Theo công trình mà tôi đã thực hiện về sự năng động của văn hóa (Hatch,
1993, 2000, xem thêm bảng tóm tắt ở dưới), một cách tiếp cận tốt hơn để thay
đổi văn hóa sẽ được chấp nhận và cuốn vào các quá trình năng động của nền văn
hóa của bản thân, điều chỉnh tham vọng của một người trong dòng chảy ổn định
và thay đổi mà từ đó, nền văn hóa tự bản thân nó được hình thành. Điều này liên
quan đến, có lẽ trên hết, một sự tập trung đồng thời vào những gì sẽ được bảo tồn
(và như thế nào) và những gì sẽ bị thay đổi. Chỉ thực tại hoặc tâm lý mới cản trở
sự năng động của nền văn hóa và làm suy yếu khả năng ảnh hưởng hoặc kết quả.
Trong lý thuyết về sự quen thuộc hóa quyền lực, Weber giới thiệu một quan
điểm năng động của nền văn hóa, có nghĩa là, một lý thuyết có khả năng giải
thích cả về sự ổn định lẫn thay đổi. Tuy nhiên, lý thuyết của ông dựa trên hai giả
định của các điều kiện đặc biệt và sự hiện diện của lãnh đạo có quyền lực. Các ý
tưởng của Malinowski có thể được sử dụng để mở rộng lý thuyết của Weber

trong các trường hợp so sánh giữa các nền văn hóa. Nhưng những gì của sự năng

14


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

động văn hóa xảy ra hàng ngày trong một văn hóa tổ chức mà không có lợi ích
của quyền lực thì sao? Ở đây, Herskovits đã đóng góp một phần đáng kể, không
chỉ tập trung vào các khía cạnh thường nhật của sự năng động văn hóa, mà còn
làm nổi bật thêm các quá trình mà từ đó diễn ra sự thay đổi văn hóa.
Herskovits lưu ý rằng ''những thay đổi nhỏ bắt đầu ngay lập tức về sự ra đời
của một sự đổi mới, và quá trình thay đổi không bao giờ chấm dứt'' (1964, trang
158). Herskovits cũng chỉ ra rằng, điều này cũng đúng đối với một sự ra đời các
vật chất hoặc ý nghĩa mới thông qua vay mượn từ các nền văn hóa khác. Nhưng
bất kể nguồn gốc của sự thay đổi là bên trong hay bên ngoài, biểu tượng hoặc
công nghệ, điểm mà Herskovits nhấn mạnh là thời gian và một lần nữa là cần
phải tập trung vào quá trình. Ví dụ, Herskovits (1948, trang 640) đã viết :
Quy luật. . . phải là quy luật của quá trình; các hình thức văn hóa
biểu hiện cho các kết quả sau cùng của chúng phải được xem xét không
phải chỉ như các biến cố định mà còn là các biến có các giới hạn được
thiết lập bởi các xác suất mà mỗi loại cho trước sẽ xuất hiện từ một cơ hội
trùng khớp cho trước… Trong những lúc như vậy, dự đoán là hoàn toàn
có thể thực hiện được. Điều đó được thực hiện trong cuộc sống hàng

ngày, hoàn toàn vô thức, khi chúng dự đoán trong phạm vi khá hẹp rằng,
một người đàn ông hay phụ nữ của một xã hội nhất định sẽ hành xử như
thế nào trong một tình huống nhất định. Dự đoán rộng hơn kiểu như, quá
trình năng động nào đó sẽ hoạt động như thế nào khi tiếp xúc với các nền
văn hóa khác, có thể được thực hiện với độ tin cậy đáng kể.

Trong phần này, chúng ta có thể thấy khuynh hướng thực chứng theo ngôn
ngữ khoa học mà Herskovits đã tham gia – ngôn ngữ của các biến, quy luật, xác
suất, và dự đoán. Nhưng thông qua vốn ngôn từ thực chứng của ông ta, chúng ta
có thể thấy Herskovits đang đề xuất một loại dự đoán đặc biệt – dự đoán vô thức
– và cùng với việc xúc tiến các quy luật của quá trình, ta có thể hình dung được
rằng, ông đã đi khá xa so với những gì mà các nhà thực chứng đã nói khi họ sử

15


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

dụng các thuật ngữ như dự đoán và quy luật. Cụ thể hơn, với cái gọi là ''hoàn
toàn vô thức'' của mình, Herskovits đã mở cánh cửa đến với tri thức trực giác,
trong khi với cái gọi là ''quy luật của quá trình'' của mình, ông đã đẩy chúng ta
tới sự hiểu biết năng động. Trong phần tiếp theo của chương này, tôi đề cập đến
các tài liệu đã dẫn về các quá trình của sự thay đổi văn hóa và s ự ổn định và
được mô tả bởi các nhà nhân chủng học văn hóa đầu tiên và thảo luận về các đề

tài nghiên cứu tổ chức hiện đại mô tả nét nổi bật các quá trình này. Sau đây là
một phần thảo luận về ba lý thuyết văn hoá tổ chức xem xét sự ổn định và thay
đổi như kết quả của các quá trình tương tự, từ đó giúp chúng ta tiến gần hơn tới
một sự hiểu biết về sự năng động của văn hóa tổ chức.
Quá trình của sự thay đổi và ổn định văn hóa
Vào lúc này, điều đáng chú ý là một số nhà lý thuyết văn hóa hậu hiện đại
đã bác bỏ công trình của các nhà nhân chủng học văn hóa ban đầu mà tôi đề cập
dưới đây. Chẳng hạn, Zygmunt Bauman (1999), gần đây đã tuyên bố rằng các
quá trình như sự truyền bá và thích nghi không có liên quan khi đối diện với các
thay đổi mới trong truyền tải và giao tiếp mà làm cho các ranh giới văn hóa có
thể thẩm thấu được và từ đó đã lỗi thời. Trong tác phẩm của Bauman (1999,
trang 44) có nói :
Khái niệm truyền bá chỉ có nghĩa khi nó được xem xét như một sự
dịch chuyển lành mạnh, rạch ròi giữa các thực thể; nói cách khác, khi bàn
về các nền văn hóa riêng biệt thì toàn bộ bản thân chúng có nghĩa. Tuy
nhiên, không biết là nó có còn hoạt động không. Nếu không có các quy
định thì không có các ngoại lệ; nếu không có các tổng thể toàn diện và
khép kín thì không có sự truyền bá. Ý tưởng truyền bá hoặc trao đổi giữa
các nền văn hóa không giúp hiểu biết về văn hóa đương đại. Các khái
niệm truyền thống khác của phân tích văn hóa cũng như vậy, ví dụ như,
đồng hóa hay thích nghi.
Tôi cho rằng Bauman đã cường điệu đáng kể trường hợp của ông ta. Đặc
biệt, những thay đổi ông đã ám chỉ chỉ làm cho các quá trình truyền bá và thích

16


S
Ự NĂNG ĐỘNG


C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

nghi quan trọng hơn bằng cách gia tăng sự thâm nhập trong tất cả các bộ phận
của một nền văn hóa. Từ đó, trong khi các thay đổi được Bauman mô tả tăng
cường và mở rộng mối quan hệ giữa các nền văn hóa, điều này không suy ra rằng
tất cả các ranh giới sụp đổ, hoặc mất bản sắc văn hóa. Điều này cho ta một cái gì
đó đáng tìm h iểu từ các nhà nhân chủng học ban đầu, những người đã nghiên cứu
sự thay đổi văn hóa trong bối cảnh đa văn hóa, mặc dù phải thừa nhận là, chúng
ta nên tiến hành thận trọng khi xe m xét các bối cảnh khác nhau, ở đó các nền văn
hóa đương đại được xác định như hiện nay.
Trong khi xã hội đương thời không phải là bộ lạc hiểu theo nghĩa của các
nhà nhân chủng học văn hoá, các vấn đề đương đại trong nghiên cứu tổ chức cho
rằng, ít nhất một số các quá trình được khớp nối đầu tiên bởi các nhà nhân chủng
học văn hóa vẫn còn liên quan đến ngày hôm nay. Mặc dù hiếm khi đề cập đến
công trình của các nhà nhân chủng học ban đầu, song, các nhà nghiên cứu văn
hóa làm việc bên trong và giữa các nền văn hóa tổ chức đương thời vẫn mô tả
các quá trình tương tự. Sẽ có rất nhiều thông tin nếu nhìn vào những gì mà các
nhà nhân chủng học văn hóa ban đầu nói về các quá trình của sự thay đổi và ổn
định và s o sánh các ý tưởng của họ với một số nghiên cứu văn hóa tổ chức
đương thời (xem bảng 7.1).




Bảng 7.1 Các quá trình thay đổi và ổn định văn hóa
Nguồn
Các quá trình văn hóa được mô tả trong

Nhân chủng học và Xã hội học ban đầu
Các quá trình tương tự được
mô tả trong nghiên cứu văn
hóa tổ chức đương đại
Các mô
hình tiến
- Mô hình duy trì (Benedict,
1936).
- Thể chế hóa (sự chuyển
tải) các chuẩn mực văn hóa

17


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

hóa c
ủa

n
ền
văn hóa
- Biến đổi, phát triển, và suy tàn
(Herskovits, 1948, 1964).

- Bất lực, suy tàn, phân rã ( Sorokin,
1937).
- Sự hưng thịnh (Kroeber, 1944)
(Zucker, 1977)
.

- Mô phỏng sự biến đổi
(Sevon, 1996).
Bên ngoài - Chuyển tải ý tưởng (Kroeber,
1944).
- Truyền bá, liên hệ và trao đổi,
kháng cự, chọn lọc
(Malinowski, 1945).
- Giao thoa văn hóa, vay mượn có
chọn lọc, tập trung và biên dịch lại
(Herskovits, 1948, 1964)
- Cụ thể hóa ý tưởng,
phiên dịch (Czarniawska
và Joerges, 1996)
- Đàm phán, tái hiện bối
cảnh, nét nổi bật
(Brann en, 1992, 1998)
Bên trong - Hội nhập văn hóa, hội nhập văn
hóa lại (Herskovits, 1948,
1964).
- Đổi mới (Barnett, 1953; White,
1959).
- Đặc thù cá nhân (Linton, 1936)
- Xã hội hóa tổ chức
(Schein, 1971; Van

Maanen và Schein, 1979;
Louis, 1980)



Các mô hình tiến hóa : Biến đổi, Phát triển và Suy tàn
Có nhiều lý thuyết ban đầu về thay đổi văn hóa được hình thành dựa trên
một khía cạnh của nền văn hóa thường được coi là phổ biến – biến đổi văn
hóa. Gắn liền với khái niệm về mô hình tiến hóa kết hợp với công trình của Ruth
Benedict (1934), sự thay đổi văn hoá ăn khớp với một chủ đề chủ yếu của lý

18


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

thuyết tiến hóa của Darwin (cả hai được lựa chọn và lưu giữ, hình bóng của
chúng có thể thấy dưới đây trong việc thảo luận về sự tăng trưởng và suy tàn văn
hóa).
Trong quá trình biến đổi, sự thay đổi xuất phát từ việc thêm lựa chọn thay
thế mới cho nền văn hóa. Herskovits (1964, trang 26) cung cấp một ví dụ về thay
đổi văn hoá thông qua việc học tập một lựa chọn mới từ nền văn hóa khác:
Một người đàn ông hay người phụ nữ biết các cách hành xử mà về
mặt truyền thống, có thể chấp nhận được đối với nhóm của ông ta trong

một bối cảnh nhất định – trong một xã hội, rằng ông phải đứng trên một
con đường và quay lưng của mình về phía người đã khuất để thể hiện sự
tôn trọng, thêm nữa, điều cần làm với tài sản của người đã chết là phải đốt
chúng… Tuy nhiên, ông ta cần phải liên hệ với những người khác để chắc
chắn rằng sự tôn trọng được thể hiện khi hướng về bề trên chứ không phải
bằng cách chuyển ra khỏi anh ta, sau đó thậm chí với sự lựa chọn tự do
nhất, ông ta phải vật lộn với một trong nhiều khả năng đã được đưa
ra. Nếu ông chấp nhận cách mới cho mình, ông ta có thể gặp phải sự phản
kháng. Trừ khi anh ta bị ngăn cản tiến hành các cách biểu thị sự tôn trọng
mới, sự kiên trì sẽ làm cho ông ta trở thành trung tâm mà từ đó một sự
lệch lạc có thể xảy ra từ hình thức xử phạt hành vi lịch sự được khuyến
khích lộ ra, và những người bạn của ông ta sẽ liên tục phải đối mặt với
việc lựa chọn mà ông ta đã được thực hiện.
Tuy nhiên, việc lựa chọn giữa nhiều khả năng (cùng với đặc tính và đặc
thù) thường đã là một phần của văn hóa, chẳng hạn Herskovits (1964, trang 202)
cũng đã lưu ý : ''Không phải hai người, mà ngay cả những người không có một
chút nghi ngờ về văn hóa, sẽ thực hiện cùng hoạt động, hoặc hình thành cùng
một niềm tin đã được thừa nhận, trong những điều kiện giống hệt nhau''. Theo
Herskovits (1964, trang 200) : ''Số người phản ứng với một tình huống cho trước
theo cách thức tương tự – không phải giống hệt nhau – càng lớn thì hiệu quả của
mô hình trong xã hội nó được phát hiện càng cao. Sự đồng lòng về hành vi văn

19


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA

VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

hóa là như vậy, ngoại trừ một biểu hiện của biến đổi văn hóa. Một nền văn hóa,
khi xem xét theo cách này, trở thành một tổng hợp của các mẫu cá nhân khác
nhau''. Herskovits tiếp : ''Những kẻ cực đoan mở rộng phạm vi biến đổi trong
một nền văn hóa… Lần lượt, những điều này có thể hình thành một phản ứng
năng động, dẫn đến những lệch lạc khác và đẩy các ranh giới của các tục lệ đã
được chấp nhận tiến xa hơn'' (trang 203). Ông kết luận, ''Thay đổi là mang đến
một quá trình theo đó sự chênh lệch nhất định, so với các chuẩn mực đã được
thiết lập, xảy ra đối với một số người, từ đó bắt đầu và tiếp tục một xu hướng mà
sẽ trở thành một xu hướng chung'' (trang 205). Tất nhiên, Herskovits (1948, trang
639) cũng lưu ý : ''Hầu hết các biến đổi ngẫu nhiên trong nền văn hóa biến mất
với các cá nhân thể hiện chúng. Những người không biến mất, được những người
khác trong xã hội tạm giữ, có xu hướng bị đồng nhất''.
Từ đó, Herskovits hạ thấp đến một mức độ thông thường mà Kroeber đã đề
xuất trước đó như là một lượng phát triển và suy tàn văn hóa.
Về sự phát triển, Kroeber (1944, trang 763–764) đã nói :
Các mô hình mà chúng tôi xem xét như chất lượng cao hơn được lựa
chọn trong số một số tiềm năng. Chúng vẫn chưa thể phân biệt được và đạt
chất lượng. Khi chúng bắt đầu lựa chọn, đầu năm hình thành, chúng tự sắp
xếp với nhau lĩnh vực nhất định, và loại trừ những người khác. Nếu điều
này gợi lên cuộc xung đột với các phần khác của nền văn hóa, trong đó các
mô hình được hình thành, việc lựa chọn và loại trừ có thể bị xóa bỏ, các mô
hình phân biệt tốt sẽ không được chấp nhận, và dẫn đến kết quả là không có
nhiều giá trị văn hóa. Tuy nhiên, nếu điều này không xảy ra, nhưng các mô
hình khác của nền văn hóa tăng cường phát triển một mô hình, hoặc ít nhất
là không xung đột với nó, các mô hình trong vấn đề nói đến có xu hướng
phát triển tích tụ, theo hướng mà trước tiên, nó phân biệt được, phần nào sẽ
có đà. Cuối cùng, hoặc là một cuộc xung đột với phần còn lại của nền văn

hóa nảy sinh ra nó và kết liễu mô hình, hoặc khám phá và cản trở các cơ hội

20


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

mới nằm trong con đường chọn lọc của nó, cho đến khi một số ít trong số
này vẫn còn, và cuối cùng là không còn cái nào cả.
Về sự suy tàn, Kroeber nói rằng :
Mô hình có thể được nói là tự nó thỏa mãn khi các cơ hội hay khả
năng của nó đã gần như không còn. Hay chính xác hơn, giá trị cực đại xảy
ra vào lúc mà toàn bộ miền các khả năng trong mô hình có thể cảm nhận
được; sự suy tàn, khi đó chỉ xảy ra trong phần nhỏ khu vực còn lại. Sau này,
phát triển có thể lặng lẽ bớt đi, kết quả đạt được được giữ lại như là các thể
chế, nhưng với các hoạt động lặp đi lặp lại thay vì phát triển; các hao mòn
chất lượng. Hoặc một lần nữa, khả năng tiềm tàng vẫn đang mạnh mẽ trong
lĩnh vực của nền văn hóa được nói đến, những giới hạn đã áp đặt chính bản
thân nó bằng cách phát triển hay đẩy mô hình lên cực đại, cảm thấy giống
như bị kìm kẹp, và có một nỗ lực phá vỡ chúng. Những nỗ lực này có thể
kết thúc trong các cuộc xung đột rời rạc mà chẳng sớm thì muộn, mức độ
đầu ra không thể phân biệt được.
Kroeber đã đánh dấu sự năng động của thời kỳ hưng thịnh của sự phát triển
và suy tàn này, mà ông định nghĩa là mô hình phát triển các hình thức văn hóa

(đối với Kroeber, các hình thức này bị hạn chế trong triết học, khoa học, ngữ
văn, điêu khắc, hội họa, kịch, văn học, âm nhạc, và chính trị). Đối với giai đoạn
suy tàn của sự hưng thịnh, Kroeber (1944, Sự năng động của văn hóa tổ chức,
trang 774) giải thích : ''Ngay sau đỉnh điểm,… [hình thức văn hóa, chẳng hạn
như bộ phim truyền hình] thường trở nên lặp đi lặp lại ở mức chất lượng thấp,
nhưng nó vẫn tiếp tục ở mức này. Nó đã trở thành hoạt động tương đối bất động
hoặc bị thể chế hóa, bắt nguồn từ nền văn hóa của nó và đem đến sự thỏa mãn
không chút nghi ngờ; một hoạt động không nhắm đến, cũng không thể đạt được,
các giá trị cao, mặc dù nó có thể được thực hiện với các năng lực cao nhất''.
Theo các tiêu chuẩn hiện nay, quan điểm của Kroeber dường như đã lạc
hậu. Quan điểm thiếu sự tham chiếu của ông đối với việc áp dụng các tiêu chuẩn
cụ thể về giá trị thẩm mỹ của ông dựa trên trực giác đa nguyên hậu hiện đại. Hơn

21


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

thế nữa, sự quan tâm của ông ta trong nền văn hóa ''cao'' (kịch, thơ ca, triết
học,…) cho thấy ông thuộc tầng lớp ưu tú. Tuy nhiên, ông đã thực hiện một điểm
quan trọng về vai trò của các tổ chức khi giải thích sự năng động của văn
hóa. Như phần tĩnh tại còn lại của các mô hình văn hóa năng động, các tổ chức
giống như các hóa thạch văn hóa, chỉ có thể gợi ra những đầu mối về các trạng
thái ý thức và ý nghĩa trong quá khứ. Trong quan điểm của Kroeber, các tổ chức

được lặp lại y chang trong quá khứ mà không phù hợp với tri thức mới.
Kroeber đã đề xuất một thách thức thú vị cho lý thuyết tổ chức hiện đại
trong nghiên cứu xã hội học và tổ chức. Trong khi lý thuyết tổ chức cho rằng các
thể chế như các lời bào chữa cho văn hóa bảo thủ thì Kroeber vẫn cho rằng
chúng hoàn toàn chỉ do con người tạo ra. Hơn nữa, hầu hết hệ thống các tổ chức
cho rằng các thể chế duy trì, chuyển giao kiến thức và ý nghĩa từ một thế hệ đến
thế hệ tiếp theo (xem 1977 thí nghiệm về thể chế hóa các chuẩn mực là m v iệc
nhóm của Zucker), trong khi quan điểm của Kroeber cho rằng, thể chế hóa là
một quá trình mà theo đó kiến thức và ý nghĩa bị mất đi. Lý thuyết của Kroeber
làm cho các thể chế đồng lõa với sự suy tàn của các mô hình văn hóa cụ thể. Khi
quan sát các thể chế, ta nhìn vào quá khứ mà không có nhiều hy vọng khôi phục
lại ý nghĩa rằng thực hiện các mô hình văn hóa hóa thạch phát triển dù chỉ một
lần. Trong khi một kiểu quan niệm như vậy có lẽ gây ra sự bất đồng không cần
thiết, nó gợi ý cách phân biệt giữa ý nghĩa văn hóa và các thể chế (ví dụ, cấu trúc
hoặc hình thức) mà một xã hội sản sinh ra. Đó là ý nghĩa mà Kroeber đề xuất
một cái nhìn năng động của nền văn hóa, trong đó các thông lệ nào đó dịch
chuyển từ phạm vi của sự thay đổi (thời kỳ hưng thịnh) sang phạm vi của sự ổn
định (thể chế hóa).
Sevon (1996) đã thực hiện một trường hợp tốt để giải quyết căng thẳng giữa
lý thuyết tổ chức và thay đổi văn hóa. Công trình của bà ta về các quá trình mô
phỏng giữa các tổ chức đã giới thiệu lại sự biến đổi thành cuộc thảo luận về mô
hình duy trì. Trích dẫn Merton (1985), Sevon (1996, trang 66) khẳng định rằng :

22


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C

ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

Chúng ta sống trong một thế giới mà không có gì là tuyệt đối mới,
không có những ý tưởng hoặc hành động chắc chắc là đầu tiên. Trong một
thế giới như vậy, mọi hành động có liên quan đến chính mình và những ý
tưởng, kinh nghiệm và hành động của người khác. Tuy nhiên, cũng không
có ý tưởng hoặc hành động nào lại hoàn toàn là một bản sao của các tổ chức
khác, chẳng hạn như, các tổ chức vô tình tìm được các ý tưởng và biên dịch
chúng thành cái phù hợp với bối cảnh riêng của họ. Theo cách này, mặc dù
là mô phỏng, hành động có thể trở nên khác nhau. Mô phỏng là một hành
động liên tục và không bao giờ kết thúc. Thông qua mô phỏng, các ý tưởng,
kinh nghiệm và hành động được hình thành, truyền bá theo thời gian và
không gian, do đó, làm thay đổi các ý tưởng, kiểu tư duy, hành động, hình
thức và phạm vi tổ chức.
Khái niệm mô phỏng của Sevon làm cho tôi nhớ đến ý niệm ''lặp lại với
một sự khác biệt'' (1995) của nhà nhân chủng học hiện đại Joseph Roach. Roach
(trang 46) đã xây dựng khái niệm này bằng cách mở rộng ý tưởng về ''hành vi
khôi phục'' của Richard Schechner (1985, trang 35–116). Schechner đã định
nghĩa hành khôi phục như là cái mà ''có thể lặp lại được, diễn tập lại được và
quan trọng nhất là tái tạo lại được''. Khi mô tả các lễ tang jazz ở Louisiana như là
các hành vi khôi phục, Roach nhận thấy rằng, khi mỗi hành vi lặp lại khôi phục
một hình thức văn hóa, nó đồng thời cũng thay đổi. Trong trường hợp cụ thể của
lễ tang jazz, các khía cạnh thay đổi được biểu hiện ra bên ngoài trong đó các sự
kiện văn hóa liên quan đến việc chơi nhạc jazz. Điều này có nghĩa là sự tùy hứng
và khác biệt – từ đó là sự thế thay đổi – là đặc trưng của hình thức văn hóa khôi
phục của lễ tang jazz ở Louisiana. Nghiên cứu các lễ tang jazz khiến cho Roach
nhận thức được tiềm năng của sự biến đổi nằm trong quá trình hành vi khôi phục,
một nhận xét dường như tương tự với khái niệm về sự lập dị của Linton và nhận

xét của Barnett rằng hình thức và ý nghĩa của các yếu tố văn hóa có thể biến đổi
một cách độc lập. Như là một quá trình, các hành vi lặp lại với một sự khác biệt
như vậy, tạo điều kiện cho việc ban hành đồng thời sự ổn định và thay đổi. Do

23


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

đó, các thể chế như là các hành vi khôi phục có thể thích ứng với sự thay đổi
ngay khi chúng quy định sự ổn định.
Thay đổi từ bên ngoài : Sự truyền bá, sự giao thoa và vay mượn có
chọn lọc
Các nhà nhân chủng học ban đầu đã phát hiện rất nhiều bằng chứng cho
thấy các nhóm ở gần nhau chia sẻ những đặc điểm văn hóa nhiều hơn và phức
tạp hơn so với các nhóm xa nhau về mặt địa lý. Họ thường giải thích phát hiện
này bằng cách ám chỉ đến quá trình truyền bá và giao thoa. Theo Herskovits
(1964, trang 170, tầm quan trọng của nguồn gốc), ''sự truyền bá là nghiên cứu về
sự truyền đạt văn hóa đã có được; trong khi sự giao thoa là nghiên cứu về sự
truyền đạt văn hóa trong quá trình''. Cả sự truyền bá và giao thoa bao gồm cả
hiện tượng vay mượn văn hóa.
Giống như sự biến đổi văn hóa, việc vay mượn từ các nền văn hóa khác là
một hiện tượng phổ biến. Vay mượn kết quả từ sự tiếp xúc văn hóa trong đó các
nhóm vượt trội thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của chính phủ của những nhóm

mà chúng chi phối. Một ví dụ là sự chấp nhận các yếu tố của văn hóa người Mỹ
bản địa như trồng ngô, sử dụng thuốc lá, và nhiều vùng đặt tên bởi những người
đã di cư đến Bắc Mỹ sau ''cuộc thám hiểm'' của Columbus (Herskovits, 1964,
trang 58).
Các nghiên cứu sự giao thoa phù hợp cho thấy việc vay mượn là có chọn
lọc. Trong việc vay mượn, người ta thường chấp nhận những gì hứa hẹn là bổ ích
và từ chối những gì có vẻ không khả thi hay bất lợi (Herskovits, 1964, trang
143). Điều đó tức là, trong khi một số yếu tố thường hoàn toàn có thể được thực
hiện qua mua bán từ nền văn hóa khác, thì một số khác lại bị kháng
cự. Herskovits (1964, trang 177) đã giải thích việc vay mượn văn hóa trong mối
liên hệ với sự năng động của các quá trình tiếp nhận như sau : ''Cách tính nền
văn hóa – điểm tiếp xúc không bao giờ là một quá trình thực hiện phép cộng. Các
yếu tố được vay mượn luôn luôn hợp nhất với những gì đã hiện diện trước cuộc
tiếp xúc. Kết quả là, một nền văn hóa đa nguồn gốc sẽ khác biệt với bất kỳ các

24


S
Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

phần truyền thống đã góp phần vào nó. Người ta nói rằng, sự năng động của giao
thoa văn hóa là sáng tạo. Nghiên cứu kết quả của giao thoa văn hóa bằng cách
lần theo những đặc điểm đến nguồn gốc của chúng là bóp méo hình ảnh và làm
sai lệch kết quả''.

Hai kỹ thuật xác định những gì sẽ được vay mượn có chọn lọc là sự tập
trung và s ự biên dịch lại. Theo Herskovits, những lĩnh vực đó của nền văn hóa là
trung tâm tại một thời điểm nhất định (nghĩa là, trong đó các thành phần văn hóa
nhảy vào ngay lập tức và thường tư lợi) có nhiều khả năng được chấp nhận để
vay mượn hơn là các khía cạnh không tập trung khác. Điều đó tức là, các yếu tố
bên ngoài được chấp nhận dễ dàng hơn nếu chúng nằm trong một lĩnh vực trung
tâm của nền văn hóa (có thể nói tương tự về việc chấp nhận sự đổi mới trong một
nền văn hóa). Điều này là do ''các mối quan tâm của những người tạo thành
nhóm tại một thời điểm thì thường tập trung ở một số khía cạnh của văn hóa của
họ hơn so với những người khác'' (Herskovits, 1964, trang 183). Theo Herskovits
(187), ''trong các trường hợp giao thoa mà các nền văn hóa tiếp xúc tự do, các bộ
phận trung tâm sẽ là bộ phận mà các yếu tố mới được đón nhận niềm nở nhất''.
Mary Yoko Brannen (1998, trang 12) đã đề xuất rằng, trong bối cảnh tồn tại
2 nền văn hóa song song, các nền văn hóa thay đổi thông qua sự tiếp xúc như là
kết quả của quá trình sắp xếp liên quan đến xung đột và thỏa hiệp ''bởi vì chúng
nằm trong những tình huống mà các giả định đã được xem xét kỹ''. Các quy trình
sắp xếp này liên quan đến ''việc xây dựng và tái thiết của các ý nghĩa và hành
động khác nhau của các các nhân riêng lẻ trong tổ chức''. Trong các quá trình
này, Brannen, Liker, và Fruin (1999, trang 31) đã khẳng định rằng ''chỉ có những
thuộc tính văn hóa nổi bật trong thời kỳ tiến hành việc kinh doanh của tổ chức
mới trở thành các mục ghi vào sổ để sắp xếp văn hóa''. Như vậy, cũng giống với
Herskovits, Brannen cũng đã cho rằng sự tập trung (hoặc nét nổi bật) mới điều
khiển nền văn hoá thay đổi.
Ý tưởng về sự tập trung như là một kỹ thuật điều khiển nền văn hóa thay
đổi có nhiều ý nghĩa đối với vai trò của nhà quản trị hàng đầu trong các quá trình

25


S

Ự NĂNG ĐỘNG

C
ỦA
VĂN HÓA T
Ổ CHỨC

thay đổi tổ chức. Nếu nền văn hóa thay đổi dễ dàng nhất trong các trung tâm của
nó, thì các nhà lãnh đạo hiểu rõ các nền văn hóa của họ có thể xác định và tăng
cường sự tập trung văn hóa bên trong tổ chức của họ để tạo thuận lợi cho các quá
trình thay đổi văn hóa. Các nhà lãnh đạo bị biệt lập với các nền văn hóa của họ
sẽ không có chức năng này, từ đó được không thể là các tác nhân đáp ứng cho sự
thay đổi có hiệu quả. Trong mối liên hệ với sự tập trung mà phần đông các tác
phẩm quản trị rộng lớn về sự thay đổi văn hóa trong các tổ chức dường như thích
hợp. Tuy nhiên, những gì không có trong các tác phẩm này là sự phản ánh trực
tiếp bản chất lãnh đạo theo tình huống trong mối liên hệ với sự thay đổi nền văn
hoá. Quan điểm nổi bật trong các tài liệu đầy quy tắc này là các nhà lãnh đạo phụ
trách các nền văn hóa của họ chứ không phải là phạm vi xung quanh khác, vì vậy
tôi có ý muốn nói đến một quan điểm tương đối ngây thơ của sự tập trung văn
hóa được chấp nhận trong các tài liệu quản trị về sự thay đổi nền văn hóa. Một sự
phản đối là công trình được thực hiện dựa trên sự thất bại phổ biến của các hành
vi sáp nhập và mua lại để đạt được kết quả hoạt động kỳ vọng của chúng. Các
nghiên cứu về những tình huống tập trung vào sự không phù hợp văn hóa này đã
cho thấy rằng, con đường mà các nền văn hóa của hai tổ chức ban đầu tác động
trở lại lẫn nhau giải thích các kết quả ngược lại (ví dụ, Bastien, 1989; Nahavandi
và Malekzadeh, 1988; Sales và Mirvis, 1984).
Tuy nhiên, như Herskovits đã chỉ ra, có nhiều để thay đổi hơn so với sự tập
trung. Mỗi khi các yếu tố của nền văn hóa khác được vay mượn, sự biên dịch lại
có khả năng xảy ra. Khi biên dịch lại, yếu tố đó được đồng hóa vào các mô hình
văn hóa hiện có với sự gián đoạn tối thiểu. Như Herskovits (1948, trang 637) đã

giải thích, cùng với quá trình xảy ra trong một nền văn hóa : ''Các phản ứng
ngược lại của các cá nhân đối với mọi sự đổi mới xác định những gì sẽ được tiếp
tục và những gì sẽ không, và các hình thức trong đó quá trình biên dịch lại sẽ
định hình cho sự đổi mới. Tuy nhiên, các phản ứng ngược lại này xuất phát từ
điều kiện văn hóa của cá nhân là các tác nhân của sự thay đổi''.

×