Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Đề cương lý luận và pháp luật về quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.33 KB, 50 trang )

ĐỀ CƯƠNG LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Học viện Hành chính Quốc gia – Khoa Nhà nước và Pháp luật
Khóa 21 – Thanh tra 21B
Thi ngày: 13/06/2023
Câu 1. Luật nhân quyền quốc tế đề cập đến những quyền và tự do cụ thể nào?
Trả lời
Khái niệm: Có nhiều định nghĩa khác nhau về Luật nhân quyền quốc tế (international
human rights law), tuy nhiên, từ một góc độ khái quát, có thể hiểu đó là một hệ thống các
quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và
tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Về mặt hình thức, Luật nhân
quyền quốc tế được thể hiện qua hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế, bao gồm những văn
kiện mang tính ràng buộc (các công ước, nghị định thư) và các văn kiện khơng mạng tính
ràng buộc (các tun bố, tun ngơn, khuyến nghị, hướng dẫn...).
Vị trí của luật nhân quyền quốc tế trong hệ thống luật quốc tế: Khái niệm Luật
nhân quyền quốc tế hẹp hơn khái niệm Luật nhân quyền (human rights law). Cụ thể, trong
khi Luật nhân quyền quốc tế chỉ bao gồm các văn kiện pháp lý quốc tế (tồn cầu và khu
vực) thì Luật nhân quyền bao gồm cả các văn kiện pháp lý quốc tế, khu vực và quốc gia đề
cập đến quyền con người.
Quan điểm chung cho rằng Luật nhân quyền quốc tế là một ngành luật nằm trong hệ
thống luật quốc tế chung (hay cịn gọi là cơng pháp quốc tế - public international law),
cùng với các ngành luật quốc tế khác như Luật nhân đạo quốc tế, Luật hình sự quốc tế,
Luật biển quốc tế, Luật hàng không quốc tế, Luật ngoại giao và lãnh sự, Luật tổ chức quốc
tế... bởi hai lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật nhân quyền quốc tế mở rộng phạm vi chủ thể tham gia các quan hệ
pháp luật quốc tế. Trước đây, luật quốc tế chỉ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và tổ
chức quốc tế, tuy nhiên hiện nay, cùng với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc tế, mặc dù
chủ thể chính của luật quốc tế vẫn là các quốc gia và tổ chức quốc tế nhưng trong một số
bối cảnh, luật quốc tế còn điều chỉnh cả mối quan hệ giữa các cá nhân và các nhà nước,
liên quan đến các quyền con người mà đã được các văn kiện quốc tế ghi nhận và bảo vệ.
Thứ hai, Luật nhân quyền quốc tế làm thay đổi quan niệm truyền thống về tính bất
khả xâm phạm về phương diện đối nội của chủ quyền quốc gia. Trong luật quốc tế trước


1


đây, về phương diện đối nội, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền toàn vẹn và bất khả
xâm phạm của các nhà nước được tự do hành động trong đối xử với công dân và xử lý các
công việc nội bộ của nước mình. Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc tế,
quan niệm này đã thay đổi. Hiện nay, mặc dù các nhà nước vẫn có quyền đầu tiên và vai
trị hàng đầu trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến công việc nội bộ và cơng dân của
nước mình, song trong nhiều bối cảnh, quyền hành động của nhà nước với các cơng dân
khơng phải là một quyền tuyệt đối. Nói cách khác, với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc
tế, các nhà nước khơng cịn có quyền tự do hồn tồn trong việc đối xử với cơng dân của
nước mình như trước kia. Trong mối quan hệ với công dân của minh, các nhà nước hiện
đại không chỉ phải tuân thủ những quy định trong pháp luật do chính mình đề ra, mà còn
phải tuân thủ những tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người mà mình đã tự nguyện
tuân thủ (qua việc tham gia các điều ước quốc tế về vấn đề này), và bị bắt buộc phải tuân
thủ (các tập quán quốc tế về quyền con người). Hiện nay, việc một nhà nước vi phạm các
quyền con người của cơng dân nước mình đã được pháp luật quốc tế ghi nhận sẽ bị coi là
vi phạm nghĩa vụ quốc tế của nhà nước đó .
Đối tượng và phương pháp đĩêu chỉnh của Luật nhân quyên quốc tế:
Là một ngành luật quốc tế độc lập nằm trong hệ thống luật quốc tế chung, Luật nhân
quyền quốc tế có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.
Về đối tượng điều chỉnh:
Luật nhân quyền quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể truyền thống của
luật quốc tế chung (các nhà nước và tổ chức quốc tế...) trong việc bảo vệ và thúc đẩy các
quyền con người. Bên cạnh đó, trong nhiều bối cảnh, Luật nhân quyền quốc tế còn điều
chỉnh mối quan hệ giữa các nhà nước và công dân của họ liên quan đến việc bảo đảm thực
thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người (ví dụ, việc các ủy ban giám sát công ước
xem xét đơn khiếu nại, tố cáo của các cá nhân cho rằng họ là nạn nhân của những hành
động vi phạm quyền con người do các chính phủ của họ gây ra...)
Về phương pháp điều chỉnh:

Luật nhân quyền quốc tế cũng áp dụng những phương pháp điều chỉnh chung của luật
quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung Luật nhân quyền quốc tế đặt trọng tâm vào các biện pháp
vận động, gây sức ép quốc tể. Các biện pháp cưỡng chế (trừng phạt về quân sự, ngoại giao,
kinh tể) mặc dù về nguyên tắc có thể sử dụng nhưng rất ít khi được áp dụng.

2


Khái niệm quyền con người trong luật quốc tế
Trong luật quốc tế, quyền con người có các đặc trưng là một thể thống nhất, được xác
định bằng những quyền năng, chuẩn mực cụ thể, mang tính phổ cập và có sự thống nhất
biện chứng giữa đặc tính dân tộc với đặc tính nhân loại, giữa quyền cá nhân và quyền tâp
thể, giữa quyền con người và quyền công dân. Mang bản chất là những quyền tự nhiên,
vốn có, quyền con người là giá trị chung, phổ biến đối với mọi xã hội, quốc gia, dân tộc và
gắn vói các điều kiện của quan hệ quốc tế. Còn bản chất xã hội làm cho quyền con người
phù hợp với đặc thù về lịch sử, chế độ chính tri, đặc trưng văn hoá, truyền thống dân tộc
và gắn với điều kiện, sự phát triển của kinh tế, văn hoá, xã hội tại mỗi quốc gia.
Việc phân loại quyền con người trong luật quốc tế có thể căn cứ vào một số tiêu chí
nhất định như tiêu chí chủ thể quyền (cá nhân, nhóm, tập thể); tính chất quyền (quyền tự
do, bình đẳng, dân chủ, quyền phát triển); nội dung quyền (quyền dân sự, chính tri, kinh
tế, xã hội, văn hố). Việc phân loại quyền cơ bản của con người theo các tiêu chí nêu trên
có ý nghĩa tương đơì, vì bản chất của quyền con người là thống nhất, không thể bị chia cắt.
Trong các văn kiện pháp lý quốc tế, việc hình thành khái niệm các nhóm quyển dân sự,
chính tri hay kinh tế, xã hội, văn hoá phản ánh chung nhất sự nhận thức cũng như cuộc đấu
tranh giải phóng con người qua các thời đại và thời kỳ phát triển của nhân loại nói chung
và ở từng quốc gia dân tộc nói riêng.
Ở góc độ pháp lý, quyền con người được bắt đầu từ môi trường quốc gia, trước khi
cộng đồng quốc tế có thể thống nhất với nhau về những giá trị, chuẩn mực, quy định hay
nguyên tắc chung để điều chỉnh cách thức ứng xử của các quốc gia đối vói cơng dân của
nước đó và cả công dân của các nước khác. Các chuẩn mực về quyền con người nhìn từ

góc độ quốc gia hay quốc tế đều nhằm hạn chế sự tự do xâm phạm quyền con người của
nhà nước trong cả hai lĩnh vực các quan hệ trong nội bộ quốc gia và các quan hệ quốc tế.
Cịn sự phân loại các nhóm quyền theo chủ thể, tính chất hay nội dung quyền có tính chất
để xác định hay nhận diện quyền con người, với ý nghĩa là những quyền năng cụ thể, theo
các tiêu chí hay chuẩn mực nhất định, để có cơ chế điệu chỉnh, giám sát, điều phối các hoạt
động liên quan đến việc bảo vệ, phát triển quyền con người ở những quy mô và cấp độ
khác nhau.
Các thế hệ quyền con người:
Trong lý luận quyền con người hiện đại, khái niêm “Thế hệ quyền con người” được
thừa nhận với ý nghĩa, khái quát những nội dung và đặc trưng cơ bản của quyền con người
3


ở tất cả các lĩnh vực, trong những điều kiện tồn tại khác nhau của sự phát triển xã hội và
quyền con người.
Thế hệ quyền con người thứ nhất
Quyền con người thế hệ thứ nhất gắn với cách mạng tư sản ở châu Âu thế kỷ xvn xvin, là sự khẳng định mạnh mẽ các quyền tự do cá nhân với tính chất là các quyền dân
sự-chính trị như quyền sống, quyền tự do, quyền được xét xử công bằng trước pháp luật.
Thế hệ quyền con người thứ nhất đã xác lập cách thức bảo vệ các quyền của cá nhân con
người trước quyền lực nhà nước, qua đó xác định nghĩa vụ của nhà nước trong việc thừa
nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của con người. Về phương diện
khoa học, quyền con người thế hệ thứ nhất thể hiện ở Học thuyết nhân quyền tự nhiên còn
về phương diện pháp lý, quyền con người thế hệ thứ nhất được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật quốc gia (như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tuyên ngôn
ddân quyền và nhân quyền của Pháp 1789) và các văn kiện pháp lý quốc tế như các công
ước quốc tế về quyền con người phổ cập, khu vực, song phương hay đa phương.
Thế hệ quyền con người thứ hai
Quyền con người thế hệ thứ hai gắn với Cách mạng tháng Mười Nga và Chiến tranh
thế giới lần thứ n. về phương diện xã hội, quyền con người thế hệ thứ hai là thời kỳ phát
triển các cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới cho các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, quyền

dân tộc tự quyết, về phương diện khoa học, quyền con người thế hệ thứ hai chịu ảnh hưởng
sâu sắc của chủ nghĩa Mác- Lênin và các lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử.
Thế hệ quyền con người thứ ba
Đây là thế hệ quyền con người phát triển trong điều kiện diễn ra xu thế khu vực hố
và tồn cầu hố các mặt của đời sống quốc gia cũng như đời sống quốc tế. Trong điều kiện
phát triển như hiện nay, con người ngày càng ý thức rõ hơn những lợi ích và giá trị của
quyền con người, do đó những địi hỏi triển khai các hoạt động trên phạm vi toàn cầu nhằm
mục tiêu giữ gìn các thành quả mà nhân loại đã đạt được về các mặt càng trở lên cấp bách.
Cho nên, đặc trưng của quyền con người thế hệ thứ ba xác định trách nhiệm của các quốc
gia và các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực quyền con người về những nghĩa vụ
sống còn đối với việc giải quyết có hiệu quả vấn đề quyền con người có tính thời đại như
vấn đề mơi trường và sự phát triển bền vững của các quốc gia dân tộc.

4


Các quyền dân sự, chính trị
Đây là quyền con người cơ bản, được thực hiện trong lĩnh vực dân sự-chính trị. Các
quyền dân sự-chính trị có một số đặc điểm để phân biệt với các quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá.
- Về nguồn gốc, với tư cách là quyền chủ thể của cá nhân con người, khái niệm quyền
dân sự-chính trị ra đời sớm hơn các quyền kinh tế-xã hội-văn hố.
- Là những quyền có tính chất gắn chặt với nhân thân của cá nhân con người, được
hiểu là giá tri vốn có, khơng thể bị tước đoạt hay chuyển nhượng của cá nhân.
- Là những quyền mà sự thực hiên ít bị phụ thuộc vào trình độ phát triển của quốc
gia.
Trong các văn bản pháp lý quốc tế, nội dung của quyền dân sự-chính trị thể hiện ra ở
giá trị cá nhân và giá trị tập thể. Sự thống nhất giữa hai giá trị này được giải thích từ bản
chất xã hội của quyền con người, vì con người là một bộ phân quan trọng hợp thành xã hội

nên xét từ khía cạnh này, quyền của cá nhân gắn liền với quyền của tập thể. Suy đến cùng,
các quyền của cá nhân khơng thể có ý nghĩa nếu khơng được đặt trong mơi trường chính
trị-xã hội mà họ đang sơrig.
Quyền dân sự-chính trị cơ bản của cá nhân bao gồm những nhóm sau:
- Quyền sống được xác định dưới nhiều góc độ như khơng bị tước đoạt tính mạng
một cách vô cớ, không bị ra tấn, đối xử tàn nhẫn, vơ nhân đạo, khơng bị áp dụng nhục hình,
khơng bị dùng làm vật thí nghiêm, khơng bị bắt làm nô lệ...
- Quyền tự do cá nhân như quyền tự do và an ninh cá nhân (không bị can thiệp vào
đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, danh dự...), quyền tự do tín ngưỡng, tư tưởng và
nhiều quyền tự do có tính chất dân sự khác (như quyền có quốc tịch, quyền được khai sinh,
quyền được bảo vệ tính mạng, nhân phẩm...). So với nhiều quyền dân sự, chính trị khầc
như quyền sống thì quyền tự do cá nhân có tính chất tương đối.
- Quyền bình đẳng như quyền bình đẳng của cá nhân trước pháp luật và được pháp
luật bảo vệ.
- Quyền tham gia quản lý các công việc của nhà nước và xã hội như quyền bầu cử,
ứng cử, quyền được hưởng các chức vụ cơng cộng tại đất nước mình...
Quyền dân sự-chính trị với ý nghĩa là quyền tập thể, bao gồm các nhóm quyền như
quyền độc lập, chủ quyền của dân » tộc, quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc trong

5


quan hệ quốc tế, chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên nhiên, quyền phát triển bền
vững...
Như vậy, quyền dân sự-chính trị được thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ một cách trực
tiếp với con người như quan hê giữa các cá nhân với nhau hay quan hê giữa cá nhân với
nhà nước. Cùng với các quyền kinh tế, xã hội, văn hố, các quyền dân sự, chính trị chính
là một bộ phận cấu thành hệ thống nhu cầu và-lợi ích của con người, được luật quốc tế,
luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Cho nên, khi xem xét khía cạnh pháp lý quốc tế của quyền
dân sự-chính trị cần thiết phải xem xét mối quan hệ giữa quyền dân sự, chính trị với quyền

kinh tế, xã hội, văn hoá. Cụ thể, cơ sở vật chất và các điều kiên chính trị, kinh tế, xã hội
đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện quyền dân sự-chính trị vì mức độ và
phạm vi bảo đảm của quyền dân sự-chính trị phụ thuộc vào sự ổn định hay tiến bộ của nền
chính trị, kinh tế, xã hội.
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá
Hiện nay, quan điểm cho rằng không nên xem sự thụ hưởng các giá trị kinh tế và phát
triển văn hoá, xã hội là quyền con người đã bị loại bỏ khỏi đời sôhg cộng đồng quốc tế.
Luật quốc tế về quyền con người đã ghi nhận đầy đủ các quyền cơ bản của con người trong
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hố. Cũng như nhóm quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế,
xã hộị, văn hoá mang giá tri là các quyền cá nhân và tập thể.
Với tư cách là quyền tập thể, quyền con người trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá
đề cập trước tiên khái niệm quyền tự quyết của các dân tộc. Quyền tự quyết về phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội thể hiện ở một số nội dung cơ bản là quyền tự do lựa chọn trong
phát triển và quyền bình đẳng về kinh tê' giữa các dân tộc, không phân biệt chế độ chính
trị hay trình độ phát triển.
Giá trị cá nhân của quyền kinh tế, xã hội, vãn hoá liên quan đến hai vấn đề lớn. Một
là sự bình đẳng giữa các cá nhân trong thực hiện quyền và hưởng thụ các giá trị phát triển
kinh tế, xã hội, văn hoá và hai là hình thành các tiêu chí pháp lý cụ thể để hiện thực hố
các quyền này vào địi sống xã hội. Cả hai vấh đề này đều chịu tác động của cơ chế và các
đảm bảo cụ thể tại từng quốc gia. Đối với các quốc gia đang phát triển, các quyền kinh tế,
xã hội, văn hố có ý nghĩa hết sức quan trọiig, thậm chí có thể trở thành tiền đề cho việc
thực hiện các quyền dân sự, chính trị.
Trong các cơng ước phổ cập, nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hoá của cá nhân được
ghi nhân theo các nội dung chủ yếu như những quyền về việc làm (có việc làm, hưởng điều
6


kiện làm việc công bằng, thuận lợi, thành lập và gia nhập cơng đồn...), quyền được hưởng
an tồn và phúc lợi xã hội (bao gồm cả quyền được giáo dục, đào tạo và hưởng lợi ích do
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mà thực tiễn đem lại), quyền kinh tế, xã hội, văn hoá

trong các quan hệ gia đình.
Trong điều kiện tồn cầu hố hiện nay, việc đảm bảo các quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá của con người khơng chỉ tùy thuộc vào chính sách, pháp luật quốc gia mà cịn có sự
tác động đa chiều của các tổ chức quốc tế. Đó chính là một trong những đặc điểm cần chú
ý đối với quyền con người trong kỷ ngun tồn cầu hố.

Câu 2. Quyền sống được quy định như thế nào trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam?
Trả lời
Khái niệm:
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được
ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Và Quyền
sống (the right to life) là một quyền tự nhiên, cơ bản của con người được ghi nhận trong
các văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia.
Trong pháp luật Quốc tế:
Hiến chương Liên hợp quốc: Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày
24/10/1945, Hiến chương Liên hợp quốc được ban hành với mục tiêu: “Phòng ngừa cho
những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần gây cho nhân loại đau thương
không kể xiết; Tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở
quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ; Tạo
mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn cơng lý và tôn trọng những nghĩa vụ do những điều ước
và các nguồn khác do luật quốc tế đặt ra; Khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều
kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn”.
Những nghĩa vụ theo Hiến chương của các thành viên được xem xét dưới hai góc độ
cơ bản, đó là những nghĩa vụ riêng của các quốc gia và nghĩa vụ chung của cộng đồng quốc
tế. Hiến chương không chỉ là văn kiện nền tảng của luật quốc tế về quyền con người [3, tr
15], cơ sở pháp lý quan trọng thành lập Liên hợp quốc mà còn xác định trách nhiệm quốc
gia khi tham gia cơ chế bảo đảm quyền con người cũng như là cơ sở pháp lý quốc tế để
7



xác định trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển
của các quyền con người trên phạm vi toàn cầu.
Theo Điều 6 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 cụ thể hoá
quy định về quyền sống trong Điều 3 Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền năm 1948,
theo đó: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật
bảo vệ. Khơng ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện” (khoản 1).
Theo Ủy ban giám sát thực hiện ICCPR (Ủy ban nhân quyền - Human Rights
Committee), yêu cầu này gồm cả các biện pháp để làm giảm tỷ lệ tử vong của bà mẹ, trẻ
em; xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và dịch bệnh cũng như nâng cao các tiêu chuẩn sống
cho người dân...Có nghĩa là việc bảo đảm quyền sống không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp
là bảo đảm sự tồn vẹn về tính mạng mà còn bao hàm việc bảo đảm sự tồn tại của con
người.
Quyền sống liên quan đến vấn đề hình phạt tử hình. Mặc dù ICCPR chỉ khuyến nghị
chứ khơng bắt buộc các quốc gia phải xóa bỏ hình phạt tử hình, Điều 6 Cơng ước u cầu
các quốc gia thành viên giới hạn việc áp dụng hình phạt những tội ác nghiêm trọng nhất,
và khơng hình phạt này với những người dưới 18 tuổi, cũng như không được thi hành án
tử hình những phụ nữ đang mang thai.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền sống đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
ngay trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, thông qua việc nhắc lại một mệnh đề trong bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất đã quy định liên quan đến quyền sống, Điều
19 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi quyền có quyền sống. Tính mạng con người được
pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”.
Mặt khác, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong

trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Bên cạnh đó, Điều 48 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt
8


Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt
Nam”. Có thể thấy, quyền sống quy định trong Hiến pháp năm 2013 đồng nghĩa với việc
ràng buộc nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo vệ sự sống của con người mọi lúc, mọi nơi và
chỉ có thể bị hạn chế trong một số trường hợp cần thiết theo Luật định.
Quy định này được tái khẳng định trong khoản 1 Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015
(BLDS) quy định: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân
thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp
luật”.
Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổi sung 2017:
Tại Khoản 1 Điều 40 quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định”. Có thể thấy, điều khoản
trên đã cụ thể hóa những trường hợp phạm tội có thể phải chịu án tử hình - tức là tước đi
mạng sống con người, ngoài những trường hợp nêu trên, tổ chức, cá nhân phạm tội mà gây
thiệt hại đến tính mạng con người thì chịu những chế tài tương ứng, cụ thể:
- Điều 78, 79, 80 quy định đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn và cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định đối với Pháp nhân
thương mại phạm tội, theo đó, trong một số lĩnh vực, nếu mức độ phạm tội gây thiệt hại
đến tính mạng, sức khỏe con người hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng
con người thì sẽ bị áp dụng các biện pháp nêu trên.
- Khoản 1 Điều 113 quy định: “Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà
xâm phạm tính mạng của cán bộ, cơng chức hoặc người khác hoặc phá hủy tài sản của Cơ
quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.

- Từ Điều 123 đến 133 quy định về các tội phạm xâm phạm tính mạng con người và
kèm theo đó là chế tài tương ứng.
- Điểm a khoản 4 Điều 134 quy định: người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe mà hậu quả làm chết người thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm.
- Điểm b khoản 2 Điều 135 quy định: người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà hậu quả
gây tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc làm chết người thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm.
9


- Khoản 3 Điều 136 quy định: người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội mà hậu quả dẫn đến chết người hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người
61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
- Điểm d khoản 3 Điều 154 quy định: người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ
phận cơ thể người mà hậu quả làm chết người thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân.
- Điểm c khoản 4 Điều 168 quy định: người nào cướp tài sản mà hậu quả làm chết
người thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Điểm b khoản 4 Điều 169 quy định: người nào bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà
hậu quả làm chết người thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Điểm c khoản 4 Điều 171 quy định: người nào cướp giật tài sản mà hậu quả làm
chết người thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Khoản 5 Điều này cịn
quy định: “Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng”.
- Điều 186 quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế
để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định
của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp

dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe ... nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam
giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
- Điểm g khoản 2 Điều 192 quy định: người nào sản xuất, buôn bán hàng giả mà hậu
quả làm chết người thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khoản 1 Điều 277 quy định: “Người nào chỉ huy, điều khiển tàu bay mà vi phạm
quy định về an tồn giao thơng đường khơng, có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây
thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn
kịp thời, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Bên cạnh đó, điểm a, khoản 2
Điều 277 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm: a) Làm chết người;... ”.

10


- Khoản 1 Điều 299 quy định: “Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong
cơng chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Ngồi ra, trong Bộ luật Hình sự cịn rất nhiều quy định, chế tài nhằm bảo vệ quyền sống
của con người. Có thể nói, Bộ luật Hình sự là cơ sở pháp lý đầy đủ và cụ thể nhất để Nhà
nước, tổ chức, cá nhân tùy theo thẩm quyền căn cứ vào đó mà có những hành động bảo vệ,
lên án và trừng phạt những hành vi xâm phạm quyền sống của con người.
Liên quan đến khía cạnh thứ hai của quyền sống (việc bảo đảm các điều kiện tồn tại
của con người, đặc biệt là những đối tượng khó khăn), pháp luật Việt Nam đã bao gồm các
chế định cụ thể về bảo trợ xã hội. Khuôn khổ pháp luật về vấn đề này hiện đã khá toàn diện
và ngày càng được hoàn thiện.
Đề xuất giải pháp
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục tiêu, bản
chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ bản và quan

trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu
thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người
và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn
nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con
người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo
vệ, thúc đẩy và phát triển quyền sống
Thứ hai, xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước.
Thứ ba, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện cơng bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững.
Thứ tư, tăng cường bảo vệ quyền sống trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo
đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ mô; về xây dựng tổ chức,
bộ máy, về công tác cán bộ…
Thứ sáu, tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với
cơ quan tư pháp.
11


Một nhận xét, kết luận:
Quyền sống là một quyền tự nhiên, cơ bản, tối cao của con người nhưng không phải
là quyền tuyệt đối, xét theo các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế hiện hành. Quyền này có
nội hàm rộng, không chỉ liên quan đến việc bảo vệ các cá nhân khỏi bị tước đoạt tính mạng
một cách tùy tiện, mà còn gắn với những điều kiện vật chất và xã hội bảo đảm cho sự tồn
tại và an ninh của con người. Với nội hàm rộng như vậy, bên cạnh những khía cạnh đã
được khẳng định rõ ràng, quyền sống vẫn còn những nội dung đang được tiếp tục nghiên
cứu làm rõ.
Được ghi nhận trong những văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế, quyền sống

ràng buộc nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực thi của các quốc gia. Trong số các
nghĩa vụ quốc gia về các khía cạnh của quyền sống, việc giới hạn phạm vi áp dụng và đối
xử nhân đạo với những người bị kết án tử hình được đề cập nhiều và cụ thể hơn cả trong
luật nhân quyền quốc tế.
Ở Việt Nam, quyền sống được trực tiếp quy định kể từ Hiến pháp năm 2013, tuy
nhiên đã được bảo vệ từ lâu trong hệ thống pháp luật thông qua các quyền bất khả xâm
phạm về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm, cũng như các quyền được trợ giúp của
những cá nhân và nhóm yếu thế. Nhìn chung, hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam
đã tương thích với những nguyên tắc cơ bản về quyền sống trong luật quốc tế. Mặc dù vậy,
giống như nhiều quốc gia khác, pháp luật Việt Nam vẫn cần được sửa đổi, bổ sung để hồn
thiện và tương thích ở mức độ cao hơn với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền này. Những
sửa đổi, bổ sung cần thiết, như đã nêu ở phần trên, chủ yếu tập trung vào vấn đề cốt lõi
nhất của quyền sống, đó là hình phạt tử hình. Từ những định hướng của Đảng trong Chiến
lược cải cách tư pháp và động lực từ những phát triển tiến bộ to lớn về chế định quyền con
người, quyền cơng dân trong Hiến pháp năm 2013, có thể tin tưởng rằng khuôn khổ pháp
luật về quyền sống của Việt Nam tới đây sẽ được hoàn thiện một cách đáng kể./.
Câu 3. Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước được quy định như thế
nào trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam?
Trả lời
Khái niệm:
Bầu cử là phương thức lựa chọn người đại diện, thay mặt cho công dân để làm lãnh
đạo, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất định.
12


Ứng cử là việc một người tự xét thấy mình có đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực có
nguyện vọng ghi tên vào danh sách ứng cử viên hoặc được cơ quan, tổ chức giới thiệu để
đưa vào danh sách ứng cử viên để có thể được bầu làm đại biểu tại các cơ quan dân cử
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân) hoặc làm lãnh đạo tại các cơ quan, tổ chức, đoàn thể.
Theo pháp luật quốc tế:

Điều 21 UDHR (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người) “mọi người đều có quyền
tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ
được tự do lựa chọn. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các dịch vụ cơng cộng ở nước
mình một cách bình đẳng” (Khoản 1 và 2).
Điều 25 ICCPR (Cơng ước quốc tế các quyền dân sự, chính trị) tái khẳng định và cụ
thể hóa quy định trong Điều 21 UDHR, trong đó nêu rõ: “Mọi cơng dân, khơng có bất kỳ
sự phân biệt cơ hội để:
a) Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những
đại diện do họ tự do lựa chọn;
b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu
phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của
mình;
c) Được tiếp cận với các chức vụ công ở đất nước của mình trên cơ sở bình đẳng”.
Theo pháp luật Việt Nam:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công dân nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tính đến ngày bầu cử, đủ mười tám tuổi trở lên và có đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật về bầu cử đều có quyền bầu cử.
Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân
được quy định rõ tại các Điều 27, 28, 29 Hiến pháp 2013. Điều 27 nêu rõ: “Cơng dân đủ
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử
vào Quốc hội, HĐND. Việc thực hiện quyền này do luật định”. Khoản Điều 28 quy định:
“Cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”; đồng thời nêu rõ
“Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Khoản 2)… Đồng
thời, Hiến pháp quy định công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29), thể hiện tầm quan trọng của quyền biểu quyết nói
13



riêng và quyền của người dân được bày tỏ chính kiến, tham gia đóng góp ý kiến đối với
Nhà nước. Các quy định trên của Hiến pháp đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc bảo đảm
cho công dân được thực sự tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Ngoài Hiến pháp 2013, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã
hội còn được quy định tại nhiều văn bản luật như Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật
Tố cáo, Luật Thanh tra... và các văn bản khác có liên quan. Đặc biệt, việc Quốc hội thông
qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 25-6-2015 đã tạo
khung pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử của công dân. Luật
bầu cử quy định rõ việc bầu cử được tiến hành theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Ngun tắc phổ thơng thể hiện tính tồn dân và tồn diện trong bầu
cử, bảo đảm để mọi cơng dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú... đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và HĐND
các cấp. Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm cho mọi cơng dân đều có
quyền như nhau khi tham gia bầu cử, ứng cử, khơng có phân biệt đối xử dưới bất cứ hình
thức nào.
So với Luật bầu cử cũ, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 mở
rộng đối tượng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử
tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam,
tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
Như vậy, theo luật này, chỉ những người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và
người mất năng lực hành vi dân sự thì mới khơng được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 cũng có những quy định cụ
thể về dự kiến phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ
phiếu, Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, danh sách
cử tri, việc ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân, cũng như các quy định về tuyên truyền, vận động tranh cử, nguyên tắc và

14


trình tự bỏ phiếu, kết quả bỏ phiếu… Những quy định này đã hoàn thiện chế định bầu cử,
bảo đảm cho cơng dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nghĩa vụ bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân là yêu
cầu và nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, được thể hiện rõ trong
đường lối, chủ trương của Nhà nước Việt Nam. Phát huy quyền làm chủ của người dân ở
cấp địa phương – nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước - được
coi là mục tiêu và động lực bảo đảm thắng lợi của công cuộc Đổi mới tại Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam chủ trương tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là
cấp cơ sở. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với cơng tác quản lý, điều hành ở địa phương,
nơi mà cộng đồng dân cư Việt Nam vốn có truyền thống làng xã, các mối quan hệ xã hội
vốn luôn được điều chỉnh trên cơ sở tự nguyện, tự quản. Quy chế Dân chủ ở cơ sở do Nhà
nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào
tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách của Nhà nước, được
nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Nhờ đó, người dân tham gia rộng rãi và mạnh mẽ vào quản
lý nhà nước và xã hội, tích cực hơn trong việc nắm bắt thông tin (dân biết), tham gia thảo
luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm tra, giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, chính
sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Nhà nước Việt Nam cũng chủ trương mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, tạo thêm
không gian mới cho sự tham gia của người dân, đặc biệt thông qua các phương tiện truyền
thông như: đối thoại giữa chính quyền địa phương với người dân thông qua gặp gỡ trực
tiếp hoặc trực tuyến; tổ chức các buổi họp báo; tổ chức các cuộc khảo sát sự hài lịng của
cơng dân đối với các dịch vụ hành chính cơng thơng qua phiếu khảo sát ý kiến người dân,
phần mềm lấy ý kiến người dân; tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật... Việc
thực hiện dân chủ trực tiếp tại cơ sở còn được thể hiện qua việc người dân tham gia giám

sát công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; đánh giá hoạt động của các
cơ quan nhà nước thơng qua việc xác định tính phù hợp của các mục tiêu, chủ trương, chính
sách, tính khả thi và mức độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các giải pháp..., qua đó tạo ra
sự đồng thuận trong xã hội, cũng như cơ sở vững chắc cho việc tổ chức thực hiện đường
lối chính sách và pháp luật của Nhà nước tại địa phương.
Đặc biệt, ngày 25-11-2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Trưng cầu ý dân,
gồm 8 chương, 52 điều, quy định cụ thể phạm vi, nguyên tắc trưng cầu ý dân; quyền hạn
15


và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân, trình tự, thủ tục quyết định việc
trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân. Việc thông qua Luật
Trưng cầu ý dân chính là nhằm bảo đảm nhân dân được trực tiếp thể hiện ý chí của mình
trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đối với mỗi người Việt Nam, việc được đi bầu cử và thực hiện quyền bầu cử của
mình là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm với đất nước. Nhà nước ta luôn tôn trọng
và tạo những điều kiện thuận lợi nhất để mọi công dân thực hiện tốt nhất quyền bầu cử,
ứng cử, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Những vấn đề đặt ra trong thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền bầu cử của
công dân:
Công tác bầu cử ở nước ta những năm qua đã bảo đảm dân chủ, bình đẳng, an toàn,
đúng quy định và thực sự là ngày hội của tồn dân(4). Thơng qua thực hiện quyền bầu cử,
các cử tri đã lựa chọn những người tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, uy tín, trí tuệ làm đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được,
trong thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền bầu cử của công dân hiện nay còn một số vấn
đề bất cập như:
- Về pháp luật điều chỉnh quyền bầu cử: liên quan đến quyền bầu cử, hiện nay về tiêu
chuẩn của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn quy định chung chung, định tính,
khó lượng hóa. Ví dụ: tiêu chuẩn có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ văn hóa, chun

mơn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm cơng tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu… điều này chưa tạo thuận lợi để cử tri lựa chọn đại biểu đúng theo tiêu chuẩn. Về
giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử: quy định trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 chưa cụ thể quy trình giải quyết. Trách nhiệm người
ứng cử tiếp xúc với cử tri chưa được quy định đầy đủ để bảo đảm cho cử tri tiếp cận và
hiểu cơ bản về người ứng cử nhằm lựa chọn chính xác đại biểu.
- Về trách nhiệm của các tổ chức thực hiện bầu cử: một số nơi, thành viên Tổ bầu cử
còn hạn chế về kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện công tác bầu cử, để xảy ra một số trường hợp
vi phạm pháp luật về bầu cử phải trình Hội đồng bầu cử quốc gia hủy bỏ kết quả bầu cử để
tổ chức bầu cử lại(5).

16


- Về phía cử tri, vẫn cịn có những cử tri chưa nhận thức đúng đắn về quyền bầu cử
của cơng dân; có hiện tượng nhờ bỏ phiếu hộ hoặc chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm trong
việc lựa chọn đại biểu.
Giải pháp bảo đảm quyền bầu cử của công dân:
Một là, hoàn thiện pháp luật về bầu cử: cần quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn đại
biểu Quốc hội và tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân theo hướng chú trọng tiêu chuẩn
về năng lực thực tiễn của đại biểu. Bổ sung quy định về trình tự giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong bầu cử từ khâu thụ lý khiếu nại, tố cáo đến xác minh, xử lý và ra quyết định giải
quyết. Quy định rõ hơn trách nhiệm của người ứng cử đại biểu trong tiếp xúc với cử tri ở
nơi công tác và nơi cư trú để cử tri đánh giá chính xác tâm huyết và năng lực thực tế của
người ứng cử, làm cơ sở cho việc đánh giá tín nhiệm để giới thiệu người ứng cử và bỏ
phiếu lựa chọn đại biểu.
Hai là, nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức thực hiện bầu
cử. Cần lựa chọn các thành viên của các tổ chức bầu cử có năng lực, tập huấn kỹ năng,
nghiệp vụ để tránh sai sót, bảo đảm khách quan, chính xác trong bầu cử.
Ba là, nghiên cứu ứng dụng công nghệ hiện đại trong bầu cử nhằm bảo đảm chính

xác, khách quan, nhanh chóng, tiết kiệm. Cụ thể là ứng dụng công nghệ thông tin vào
các khâu của q trình bầu cử, cơng nghệ hiện đại trong kiểm phiếu, gắn camera để kiểm
sốt việc cơng dân có thực hiện nghiêm túc quyền bầu cử và các tổ chức có thực hiện tốt
trách nhiệm được giao trong bầu cử hay không.
Bốn là, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng các hình thức thiết thực, kịp thời
và phù hợp với từng đối tượng, vùng, miền để công dân nhận thức được đầy đủ tầm quan
trọng của quyền bầu cử, nắm rõ quy trình cũng như nội dung cụ thể nhằm thực hiện tốt
quyền bầu cử./.
Câu 4. Quyền Tự do ngôn luận và biểu đạt được quy định như thế nào trong pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam?
Trả lời
Khái niệm:
Quyền tự do ngôn luận là quyền của con người mà ở đấy con người phát biểu, bày tỏ
ý kiến một cách công khai, rộng rãi về những vấn đề (chính trị, kinh tế, xã hội…) bằng

17


nhiều hình thức mà khơng bị bó buộc, kiểm sốt, nhưng phải nằm trong một khuôn khổ
nhất định mà pháp luật đặt ra.
Trong pháp luật quốc tế:
Trên thế giới ngày nay, tự do ngơn luận và tự do báo chí là các yếu tố hết sức quan
trọng đối với sự ổn định, phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là biểu hiện trực tiếp của
quan niệm, chính sách nhân quyền ở quốc gia đó. Tun ngơn quốc tế nhân quyền; Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc đều khẳng định các quyền
cơ bản này:
Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu rõ: “Mọi người đều
có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can
thiệp cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ
phương tiện truyền thơng nào và khơng có giới hạn về biên giới”.

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định:
“Mọi người có quyền tự do ngơn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và
truyền đạt thơng tin, ý kiến, khơng phân biệt lĩnh vực, hình thức tun truyền bằng miệng,
bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin
đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”.
Trong pháp luật Việt Nam:
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định”.
Luật Trẻ em 2016 xác định rõ tại Điều 34 “Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định của
pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ
quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến,
nguyện vọng chính đáng”.
Trong bối cảnh internet - nổi lên là mạng xã hội phát triển nhanh chóng song rất phức
tạp, để quyền tự do ngơn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các
luật, văn bản dưới luật về tự do ngơn luận đã ngày càng được hồn thiện để vừa bảo đảm
quyền của cơng dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp. Cụ thể như:
Luật Báo chí 2016 quy định tại Điều 11. Quyền tự do ngơn luận trên báo chí của
cơng dân
18


1. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới.
2. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức
của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
Luật Tiếp cận thông tin 2016 tại Điều 3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông

tin
1. Mọi công dân đều bình đẳng, khơng bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền
tiếp cận thông tin.
2. Thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ.
3. Việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho cơng dân; đúng
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
4. Việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng.
5. Việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của cơng dân khơng được xâm phạm lợi
ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác.
6. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực
biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện
quyền tiếp cận thơng tin.
Bộ luật Hình sự (với Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông
tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, Điều 155 “Tội làm
nhục người khác”, Điều 156 “Tội vu khống”, Điều 167 “Tội xâm phạm quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…”, Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”…),
Bộ luật Dân sự (Điều 32 về “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh”, Điều 34 về
“Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín”…);
Luật Viễn thơng (Điều 12 “Các hành vi bị cấm trong hoạt động viễn thơng” có khoản
4 là “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm
của cá nhân”)

19


Nghị định 72/2013/NĐ-CP về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin trên mạng”

Nghị định 15/2020/NĐ-CP “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bưu chính, viễn thơng, tần số vơ tuyến điện, cơng nghệ thơng tin và giao dịch điện tử”.
Hồn thiện chính sách của Đảng, khuôn khổ pháp luật của Nhà nước
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với báo
chí, truyền thơng và cơng tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tự do báo chí
chống phá Việt Nam: Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác thơng tin, tun truyền chính sách, thành
tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và
đối ngoại, qua nhiều kênh và nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú làm cho
người dân trong nước, cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu bảo đảm tự
do báo chí ở Việt Nam. Chúng ta cũng cần thông tin, tuyên truyền sâu rộng ở cả trong và
ngoài nước về bản chất của các cá nhân, tổ chức và các trang mạng “đen” đó để nhân dân,
kiều bào và bạn bè quốc tế hiểu rõ âm mưu, chân tướng, thủ đoạn của các hoạt động chống
phá. Trên cơ sở đó, mỗi người, mỗi tổ chức đề cao trách nhiệm làm tròn nghĩa vụ của mình
trong thực thi quyền tự do báo chí, nâng cao cảnh giác, chủ động tham gia đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động lợi dụng tự do báo chí để chống phá Đảng, nhà nước
và nhân dân Việt Nam. Tích cực tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc
các quy định của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực báo chí, đặc biệt: triển khai Nghị quyết
Đại hội lần thứ XIII của Đảng với yêu cầu: “Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên
nghiệp, nhân văn và hiện đại”; triển khai các quy định của Hiến pháp về quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, các quy định của Luật liên quan như Luật Tiếp cận thông tin năm 2016,
Luật Báo chí năm 2016, Luật Xuất bản năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, nâng cao vai trò của Hiến pháp trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận:
Một, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của các nước tiên tiến trên thế giới và các chuẩn mực
pháp lý quốc tế về tự do ngôn luận: Nguyên tắc cơ bản này đặt ra những yêu cầu và đảm
bảo tính kế thừa của việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật về tự
do ngơn luận; hồn thiện pháp luật về ngơn luận phải được thực hiện trên cơ sở đánh giá,
tổng kết sâu rộng q trình thực hiện chính sách, pháp luật về tự do ngôn luận và các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; kế thừa phát triển những quy định cịn phù hợp,
mang tính khả thi được xã hội thừa nhận; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp

20


của các nước tiên tiến trên thế giới nhằm đảm bảo tính tương thích giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận mà Việt
Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập.
Hai, đảm bảo sự phù hợp với Hiến pháp và sự đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt
Nam: Hiến pháp năm 2013 là đạo luật cơ bản của Nhà nước, đạo luật gốc đặt ra những quy
định có tính chất nền tảng của chế độ Nhà nước, chế độ xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời là cơ sở pháp lý rất quan trọng để xác
định toàn bộ hệ thống pháp luật nước ta. Việc chi tiết, cụ thể hóa hiến pháp bằng các văn
bản pháp luật khác phải được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và phải đảm bảo điều kiện là
tất cả các văn bản pháp luật đó ln phù hợp với hiến pháp, không được trái với hiến pháp.
Bên cạnh đó, pháp luật về tự do ngơn luận có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật khác
trong hệ thống pháp luật nước ta; do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về tự do ngôn luận phải
được tiến hành trên cơ sở hoàn thiện một cách đồng bộ và có hệ thống các ngành luật khác
có liên quan.
Ba, đẩy mạnh cơng tác tun truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục Hiến pháp nói
chung, các quy phạm Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận để mọi người nhận thức đúng
đắn, đầy đủ, sâu sắc, thống nhất hơn nữa giá trị, vai trò của Hiến pháp trong việc đảm bảo
quyền tự do ngôn luận.
Bốn, Tổ chức tốt việc thực hiện các quy phạm hiến pháp hiện hành về quyền con
người, quyền tự do ngôn luận và sự đảm bảo của nhà nước ta. Công tác tổ chức đưa các
quy phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà nước ta về quyền con người và quyền tự do
ngôn luận vào cuộc sống là việc khó khăn, phức tạp, cần có sự tham gia, giúp đỡ của toàn
xã hội; bởi vậy, cần xã hội hóa cơng tác này nhằm phát huy sức mạnh của tồn xã hội cho
việc “vật chất hóa” các quy phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà nước về quyền con
người, quyền tự do ngôn luận. Nội dung của công tác tổ chức thực hiện gồm: tuyên truyền,
phổ biến, giải thích, giáo dục các quy phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà nước; động
viên, thuyết phục, đồng bộ các biện pháp pháp lý nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho họ

như tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật; đẩy mạnh công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng
mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Năm, bảo vệ có hiệu quả các quy phạm pháp luật hiện hành và sự đảm bảo của Nhà
nước về quyền tự do ngôn luận.
21


Sáu, thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất các quy phạm hiến pháp hiện hành
về quyền con người, quyền tự do ngôn luận.
Bảy, thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện pháp luật về quyền tự
do ngôn luận và xử lý mọi vi phạm pháp luật một cách kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng.
Thứ ba, để phát huy được quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, cần chú trọng:
Một, thực hiện tốt Nghị định 09/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 9 - 2 2017 quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thơng tin cho báo chí của các cơ quan
hành chính nhà nước. Từ đó góp phần nâng cao tính chủ động cung cấp thơng tin cho báo
chí một cách trung thực trong mọi lĩnh vực xã hội quan tâm. Tạo những điều kiện thuận
lợi để các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền tham gia các hoạt động báo chí, gắn với việc
đề cao trách nhiệm, thận trọng trong tiếp cận và đăng tải các nguồn thông tin chính thức
kịp thời và chính xác. Những quy định trong Nghị định còn thể hiện sự đảm bảo chất lượng,
sự minh bạch hóa thơng tin của báo chí, từ đó tăng cường đảm bảo quyền tiếp cận thông
tin của người dân cũng như nâng cao trách nhiệm thông tin và giải trình của Nhà nước;
Hai, thực hiện tốt qquy định đạo đức người làm báo. Quyết định số 483/QĐ-HNBVN
ngày 16 - 12 - 2016 của Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam ban hành Quy định đạo đức nghề
nghiệp người làm báo Việt Nam là sự cụ thể hóa Điều 8 Luật Báo chí năm 2016. Đây là
các chuẩn mực rất cụ thể và thiết thực nhằm xác định trách nhiệm đạo đức người làm báo
trong hoạt động nghề nghiệp. Từng cơ quan báo chí trên cơ sở chức năng nhiệm vụ, tơn
chỉ mục đích của mình, có thể tiếp tục cụ thể hóa, xây dựng và thực hiện Quy định riêng
nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện pháp luậ về tự do ngơn luận:
Một, nhanh chóng xây dựng và hồn thiện dự thảo Luật Biểu tình, Luật về hội để

trình Quốc hội thông qua trong thời gian sớm nhất: Đây là một luật quan trọng để tạo môi
trường pháp lý để người dân thực thi quyền tự do ngơn luận của mình.
Hai, hồn thiện hệ thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet, mạng
xã hội; tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và
Truyền thông và các cơ quan chức năng trong công tác chỉ đạo, quản lý trên lĩnh vực này.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp; các chế tài xử lý vi phạm
đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe những biểu hiện vi phạm. Đối với đội ngũ làm cơng tác báo
chí cần khơng ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên mơn, nghiệp vụ, nâng
cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng; ngăn chặn, đẩy lùi suy
22


thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện tốt Luật Báo chí và các quy định
của pháp luật trên lĩnh vực báo chí; hoạt động đúng tơn chỉ, mục đích vì lợi ích của đất
nước, của Nhân dân, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ năm, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung về thời gian tiếp nhận đơn tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố: (Chú trọng đến trình tự, thủ tục; Mẫu hóa các văn bản liên
quan tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và liêm yết các mẫu văn bản này ở tất
cả cơ quan điều tra; Ngiên cứu giảm thời gian giải quyết đối với những vụ việc không đơn
giản,….)
Tự do ngôn luận tại Việt Nam là không thể phủ nhận, xuyên tạc - đó là một mục tiêu
nhất quán xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Chúng ta tin tưởng rằng với truyền
thống của báo chí, truyền thơng cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng; với
quan điểm, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về tự do ngôn luận;
bất chấp sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, nền báo chí, truền thơng cách
mạng Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của
đất nước.
4.2.2. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng về kỹ thuật
Về công nghệ, kỹ thuật, có thể thấy kỹ thuật kết nối của Internet tạo ra một khơng
gian mạng khơng có biên giới. Cơng nghệ giám sát hiện nay chưa thể ngăn chặn hoàn tồn,

và truy ngun nguồn gốc các thơng tin độc hại nếu khơng có sự phối hợp đa quốc gia vì
người dùng, đối tượng phát tán thơng tin (user) có thể truy cập đến những trang thơng tin
mình muốn bằng cách sử dụng máy chủ (server) ở quốc gia khác hoặc sử dụng công nghệ
mạng riêng ảo (VNP) cũng như các phần mềm vượt tường lửa như Tor, Ultrasurf… Về
mặt công nghệ, nhiều quốc gia đưa ra nhiều biện pháp kỹ thuật mới để ngăn chặn các luồng
thông tin độc hại. Đặc biệt, Trung Quốc đã đầu tư nhiều triệu USD để xây dựng hệ thống
tường lửa nhằm kiểm soát chặt chẽ các trang web, trang mạng xã hội trước những luồng
thông tin xấu liên quan đến Đảng Cộng sản và giới lãnh đạo. Mặt khác, Trung Quốc tăng
cường việc vô hiệu hóa các phần mềm chống kiểm duyệt, vượt tường lửa. Mỹ xây dựng
các hệ thống nghe lén, phân tích, giám sát các thông tin trao đổi bằng các thiết bị kỹ thuật
số thơng qua mạng Internet trên tồn thế giới.
Để có thể làm được như vậy, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở nước ta cần
kết hợp với các cơ quan, đơn vị an ninh mạng, với các nhà cung cấp dịch vụ xây dựng các
phầm mềm (firewalls) để lọc/chặn hoặc gây khó khăn trong việc truy cập các nội dung
23


phản văn hóa, đồi trụy, những nội dung mang tính chống phá, những thông tin nhạy cảm.
Giải pháp này thường tạo tâm lý chán nản cho người dùng Internet.
Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển các đơn vị an ninh thơng tin cơng nghệ cao có trình
độ chun mơn cao về mạng máy tính, về Internet; được trang bị máy móc, thiết bị cơng
nghệ thơng tin hiện đại có khả năng giám sát, phát hiện những tài khoản mạng xã hội có số
lượng truy cập lớn, những tài khoản có sự tăng đột biến số lượng truy cập; có khả năng
truy tìm thơng tin, xác định địa chỉ cung cấp thông tin, xác định giải pháp bảo mật thông
tin của các tài khoản có nội dung sai trái, phản động.
Đồng hành với đó, Việt Nam cần tuyển dụng, đào tạo đội ngũ chun gia giỏi về cơng
nghệ thơng tin, có khả năng thực hiện các biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật đặc biệt, như tấn
công, xâm nhập các tài khoản mạng xã hội có nội dung sai trái, phản động. Những biện
pháp tấn công kỹ thuật này không chặn đường truyền hoặc giảm băng thông truy cập vào
các tài khoản mạng xã hội có nội fung sai trái, phản động nhưng tạo ra bằng kỹ thuật một

lượng truy cập ảo rất lớn làm cho người dùng Internet không thể truy cập vào các trang cá
nhân này.
4.2.3. Xây dựng các điều kiện đảm bảo
4.2.3.1. Đẩy mạnh các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tự do
ngôn luận cho cán bộ và nhân dân
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tự do, ngôn luận cho cán bộ
và nhân dân là không thể thiếu nhất là những người thiếu hiểu biết về khuôn khổ pháp luật
về tự do ngôn luận.
Làm tốt được công tác này sẽ giúp cho chúng ta quyết định được những lĩnh vực pháp
luật cần phổ biến, hình thức, nội dung phổ biến cho phù hợp. Các tài liệu dùng để tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tự do ngôn luận cần ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và
nên biên soạn thành một cuốn theo dạng hỏi đáp. Ngoài ra, cần chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ báo cáo viên nắm vững nghiệp vụ về tự do ngôn luận, giỏi làm công tác vận
động quần chúng vùng đồng bào có đạo.
Đặc biệt, theo quan điểm của nhóm tác giả phải chú trọng hướng dẫn cho người dân
nhất là người thiếu hiểu biết về pháp luật biết quy trình thủ tục trong trường hợp họ hoặc
người thân mình đang bị người khác lợi dụng quyền tự do ngôn luận xúc phạm đến danh
dự, nhân phẩm,… thì sẽ phải làm như nào để bảo vệ quyền cho chính họ và người thâm
của họ. Nhóm tác cho rằng, đầu tiên phải tư vấn cho họ trình tự, thủ tục (Phụ lục 01): viết
24


đơn như thế nào? Nộp đến cơ quan nào? Trong thời hạn bao nhiêu ngày thì được giải
quyết….
4.2.3.2. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm nhũng hành vi vi phạm
pháp luật về tự do ngôn luận
Đảm bảo cho mọi người có có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng
tin, hội họp, lập hội, biểu tình; chống mọi biểu hiện của hoạt động vượt quá khuôn khổ
pháp luật về tự do ngôn luận và các hoạt động làm ảnh hưởng đến quyền tự do khác của
công dân trong khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Trên thực tế, ở chỗ này, chỗ kia vẫn

xảy ra tình trạng một số các cơ quan trong bộ máy nhà nước và nhân dân cũng có lúc vi
phạm pháp luật. Hậu quả của vấn đề này làm xuất hiện hai nguy cơ đe dọa quyền tự do
ngôn luận hợp pháp, vừa buông lỏng, vừa hạn chế quá mức. Cần phối hợp chặt chẽ giữa
các loại kiểm tra - kiểm tra của Đảng, của nhà nước, của tổ chức xã hội và nhân dân. Tăng
cường chất lượng và hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ
quan nhà nước khác, các tổ chức và công dân trong việc thực hiện pháp luật về tự do ngôn
luận.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực báo chí, truyền
thơng. Qua đó, chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc ở các cơ
quan báo chí và đội ngũ phóng viên, nhà báo để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời,
nghiêm minh. Đặc biệt, qua công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và kiên quyết đưa ra
khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người khơng đủ bản lĩnh chính trị, năng lực
chun mơn, có biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tiếp tục đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở
Việt Nam; kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và đối ngoại, qua nhiều kênh và nhiều
hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở
nước ngoài hiểu đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và thành tựu bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Qua đó, quảng bá
hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần đấu tranh hiệu quả các luận điệu vu
cáo, xun tạc tình hình tự do ngơn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
Các lực lượng vũ trang cơng an, quân đội cần làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng,
Nhà nước về chính sách đối với ngơn luận; chủ động ngăn ngừa và đấu tranh chống âm
mưu, hoạt động lợi dụng quyền tự do ngôn luận của các thế lực thù địch; đảm bảo an ninh,
an toàn xã hội, thực hiện chính sách đồn kết dân tộc tạo sự ổn định và phát triển; Cần nâng
25


×