Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.13 KB, 28 trang )

Chương I
Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
1. Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến.
1.1. Phép biện chứng duy vật
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định bản chất vật chất, tính thống nhất vật chất của thế
giới, mà còn khẳng định các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại trong sự liên hệ, trong sự vận
động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó. Làm sáng tá những vấn đề đó là nội
dung cơ bản của phép biện chứng. Chính vì vậy, Ph.Ănghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý
luận về mối liên hệ phổ biến, là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài ngưêi và của tư duy. V.I. Lênin nhấn mạnh thêm: Phép biện chứng là học
thuyết sâu sắc nhất, không phiến diện về sự phát triển.
1.2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Nguyên lý về sự phát triển
1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản:
- Cái riêng - cái chung
- Bản chất - hiện tượng
- Tất nhiên - ngẫu nhiên
- Nội dung - hình thức
- Nguyên nhân - kết quả
- Khả năng - hiện tượng
1.2.3. Ba quy luật cơ bản:
- Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
- Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
- Quy luật phủ định của phủ định.
2. Một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của nhân loại, đồng thời khỏi
quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX (khoa học về các quá trình, về nguồn
gốc, về mối liên hệ và sự phát triển) phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ


phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
2.1. Khỏi niệm:
- Liên hệ: Là sự quy định lẫn nhau , tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hoặc giữa
các sự vật hiện tượng của nhau.
- Liên hệ phổ biến: Là những mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ đặc thù của sự vật,
nó phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới.
2.2. Nội dung nguyên lý:
- Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến,
không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chóng tác động đến nhau ràng bưuộc quyết
định và chuyển hoá lẫn nhau. Các mối liên hệ trong tính tổng thể của nó quy định sự tồn tại vận động,
biến đổi của sự vật. Khi các mối liên hệ thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi sự vật.
2.3. ý nghĩa của nguyên lý
2.3.1. Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện:
- Trong nhận thức và hoạt động phải xem xét sự vật trong tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ, nhiều mặt,
nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các quá trình, các giai đoạn phát triển của sự vật cả trong quá khứ hiện
tại và tương lai. Có như vậy mới nắm được Thực chất của sự vật. Khi tuân thủ nguyên tắc này chủ thể
tránh được sai lầm cực đoan phiến diện một chiều.
- Không được đồng nhất và san bằng vai trò của các mối liên hệ của các mặt sự vật. Phải phản ánh đóng
vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ. Phải rót ra được những mối liên hệ bản chất nhất chủ yếu của sự
vật khi tuân thủ nguyên tắc này con ngưêi sẽ tránh được sai lầm nguỵ biện và chiết trung.
2.3.2. Cơ sở khoa học của quan điểm lịch sử cụ thể
- Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại vận động phát triển bao giờ còng diễn ra trong
những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian và thời gian xác định.
- Điều kiện: Không gian và thời gian có ảnh hưởng tới đặc điểm tính chất sự vật. Cùng là một sự vật
nhưng ở trong những điều kiện hoàn cảnh khác
nhau sẽ có những tính chất khác nhau.
Yêu cầu:
Khi nghiên cứu xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong không gian thời gian

xác định mà nó đang tồn tại vận động và phát triển đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều
kiện hoàn cảnh của môi trường đối với sự tồn tại của sự vật, đối với tính chất của sự vật và đối với xu
hướng vận động và phát triển của nó.
- Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong Thực tiễn cần phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận
dụng tránh bệnh giáo điều dập khuôn, máy móc, chung chung.
3. Tại sao phải vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào phân tích mối liên hệ giữa xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau khi nghiên cứu kỹ phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biên ta dễ ràng nhận ra rằng sự vật
hiện tượng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau chuyển hoá lẫn nhau hay nói cách khác mọi sự vật hiện
tượng tồn tại phải có mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác chứ không thể tồn tại một cách tách biệt
độc lập. Sở dĩ các sự vật hiện tượng có mối liên hệ với nhau là vì chóng là biểu hiện của vật chất vận
động. Có nguồn gốc chung từ vật động mà khi sự vận động có nghĩa là có mối liên hệ và các mối liên hệ
của sự vật là cái khát quan vốn có của sự vật. Chính vì vậy khi xem xét việc xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ chúng ta không thể tách rời khỏi việc hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại. Hơn nữa theo quan
điểm toàn diện khi xem xét một sự việc hiện tượng mà cụ thể ở đây việc xây dựng độc lập tự chủ chúng
ta phải xem xét nó trong tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ khác nhau, nhiều mặt khác nhau mà cụ thể
đây là ảnh hưởng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại.
Có như vậy chúng ta mới nắm được Thực chất của sự vật mới tránh được những sai lầm cực đoan phiến
diện một chiều. Đặc biệt đây lại là những vấn đề rất cấp bách đặt ra đối với chúng ta khi tham gia quá
trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Chỉ có thể dựa trên nguyên lý mối liên hệ phổ biến mới có thể gióp
chúng ta nhìn sâu hơn, hiểu sâu hơn về vấn đề mà mình đang nghiên cứu. Hơn nữa còng theo quan điểm
lịch sử cụ thể khi xem xét một sự vật hiện tượng nào đó ta phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể không gian
cụ thể. Vấn đề chúng ta đang nghiên cứu ở đây cần được đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, tình
hình kinh tế nước ta hiện nay để thấy râ hơn được ảnh hưởng của tình hình thế giới, tình hình trong khu
vực, tình hình trong nước đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với hội nhập kinh tế
quốc tế. Chính vì vậy dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến sẽ gióp chúng ta có một cách nhìn cặn
kẽ hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn liệu hội nhập kinh tế quốc tế có phải là một xu thế tất yếu không, hội
nhập có phải là hoà tan hay không, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào cho phù hợp với tình
hình hiện nay, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tất cả những vấn đề đó chỉ có thể giải đáp
khi chúng ta hiểu râ hơn về vấn đề chúng ta đang nghiên cứu dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

Từ đó ta có thể thấy râ hơn tâm quan trọng của phép biện chứng mối liên hệ phổ biến. Ở chương II,
chương III chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu râ hơn, cặn kẽ hơn về mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến.
Chương II
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
Thời cơ và thách thức
1. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện “toàn cầu hóa” nền kinh tế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thậm Chí là bảo thủ, tư duy kiểu cò. Thế
giới bây giờ là một thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ trương xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ (?!)
Nói như vậy mới nghe qua thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm kỹ thì thấy không có cơ sở khoa học,
và nó quá ư giản đơn và phiến diện. Chúng ta biết rằng, độc lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế
giới. Trong điều kiện “toàn cầu hóa”, liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức tạp như hiện nay lại càng
phải giữ vững tính độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm,
đường lối chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của Thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững
chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đó có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập tự chủ
của một quốc gia là có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ hay không. Đây là kinh nghiệm của
nước ta và còng là kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta phát
triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống
đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu,
thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép bưuộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị,
đi chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì
mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về
kinh tế là nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Không thể có độc lập
tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện
chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc
gia.

1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ ?
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, ngưêi khác, hoặc
vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dựng những điều
kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và
lợi ích cơ bản của dân tộc. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị
trường, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì sự ổn
định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng
đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn. Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo
đảm vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công
cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phải chờ đến khi có
trình độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đó phải bảo
đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát
triển kinh tế. Đương nhiên, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao,
ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững. Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không
ai hiểu đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa,
hội nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội
lực và lợi thế so sánh của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất đáp ứng được cơ bản nhu
cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển
kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh.
1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Trước hết phải kể đến mức tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kì 1991-2000 đã
tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người
tăng 1,8 lần. Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị sản lượng
toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm
nghiệp tăng 2,1%. Nổi bật nhất là sản lượng lương Thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn.
Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg
năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm, trở thành nước
xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kì 1999-2000 đã tăng
khá cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần. Sản lượng
thuỷ sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%: Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân trong 10

năm qua là khoảng 12,8 – 13%/năm Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới
60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Dầu khô có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn
ngành công nghiệp. Sản lượng dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với năm 1990. Sản lượng điện phát
ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân
hoá học 4,2 lần, giầy dép da 14,9 lần, giầy vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đêng 3,6 lần, bia 7,3 lần... Giá trị
sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là 20%. Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng
nổi bật trong các ngành thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông. Giá trị hàng hóa bán ra trên thị trường
trong nước năm 1999 đã gấp 11,3 lần năm 1990. Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình
quân hàng năm là 26,5%. Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nước có tốc độ
phát triển viễn thông đứng thứ hai thế giới. Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là
9,2%, vận chuyển hành khách - 14,25%. Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật. Tổng kim
ngạch xuất khẩu 10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc
độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị xuất nhập khẩu
năm 2000 đã tương đương tổng GDP. Vốn đầu tưư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính
đến quý I năm 1999 đã có 2624 dự án được cấp giấy phép đầu tưư với tổng vốn đăng ký là 35,8 tỷ USD,
nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua, vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu
tưư toàn xã hội. Thứ hai, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4% năm 1999; công nghiệp và xây dựng đã
tăng từ 22,6% lên 34,9%; dịch vụ từ 35,7 lên 40,1%. Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi
được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và
sức cạnh tranh quốc tế nh cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su..., tốc độ phát triển chăn nuôi tăng nhanh
hơn trồng trọt. Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây
đựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình thành như ô tô, xe gắn máy, điện tử... Các ngành dịch
vụ phát triển, đặc biệt là ngành bưu chính viễn thông, du lịch, thương mại... đã nâng được tỷ trọng lên trên
40% GDP. Cơ cấu vùng kinh tế đã thay đòi theo hớng tập trung phát triển ba vùng trọng điểm - Hồ Chí
Minh - VũngTàu, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đồng thời đã dành sự quan
tâm cần thiết tới những miền núi, vùng xa, vùng sâu, những xã nghèo. Cơ cấu vốn đầu tưư phát triển đã
chuyển từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang ưu tiên nhiều hơn cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn, phát triển kết cấu hạ tầng, các ngành xuất khẩu, các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội.
Trong thời kì 1991-2000, vốn đầu tưư cho nông nghiệp và nông thôn tăng bình quân hàng năm là 22,9%,

vốn đầu tư phát triển cho kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc đã tăng bình quân hàng năm
là 24,5%, vốn đầu tư phát triển cho các ngành công nghiệp tăng bình quân hàng lăm là 27,1%, vốn đầu tư
cho lĩnh vực khoa học công nghệ giáo dục, đào tạo, y tế và văn hoá đã tăng bình quân hàng năm là 23,6%.
Thứ ba, các vấn đề xã hội bức xúc đã có những chuyển biến tích cực.
Mức sống của dân cư cả thành thị và nông thôn nhìn chung đã được cải thiện một bước rõ rệt thể hiện trên
các mặt: GDP theo đầu người: trong 10 năm qua đã tăng 1,8 lần thu nhập bình quân mỗi người 1 tháng đã
tăng 3,2 lần. Số học sinh đi học các cấp học khác nhau từ tiểu học đến đại học đã tăng khoảng 2,3 - 4,3
lần trong 10 năm qua; chỉ số HDI đã được nâng lên từ thứ 122/174 nước năm 1995 lên 110/174 nước năm
1999.
Tỷ lệ tăng dân số năm 1988 là 2,28% đã giảm xuống còn 1,53% năm 2000; năm 1998 Việt Nam đã được
Liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số. Công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân đã có nhiều
tiến bộ. Năm 1990 tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là hơn 50% tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi là
46%, dưới 5 tuổi là 69,5%, tuổi thọ trung bình là 64, chiều cao trung bình của thanh niên là 1,6m. Đến
năm 1998 các chỉ tiêu tơng ứng trên đây đã được cải thiện rõ rệt: 38,9%; 39%, 48,5%, 68 tuổi; 1,62m. Số
hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt từ 30,0% năm 1992 xuống còn 10,6% năm 2000. Đến cuối năm 1998 cả
nước đã có 15 tỉnh thành phố có tỷ lệ hộ đói nghèo dưới 10%; 21 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo khoảng 11 -
19%.
1.3. Khó khăn và thử thách khi xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa học kỹ thuật nhiều chục năm so với các nước công
nghiệp phát triển. Sản xuất, xuất khẩu của ta chủ yếu gồm các nông khoáng sản thô và các mặt hàng công
nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập khẩu máy và vật tư phụ tùng, nông nghiệp lệ thuộc vào phân bón,
xăng dầu, thuốc sâu, nông cơ; công nghiệp lệ thuộc vào máy vật tư, linh kiện rời. Các nông khoáng sản
thô như gạo, cao su, cà phê, hàng thuỷ sản, than đá - dầu thô, và các mặt hàng thứ cấp khác: hàng may
mặc và giầy dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh rất mạnh của các
nước kém mở mang khác, các hạn định quota nhập khẩu của nước ngoài, giá cả bấp bênh và có khuynh
hướng giảm, thị trường hạn chế. Trong nhiều năm, gạo, cà phê, cao su, hàng may mặc của Việt Nam
không xuất khẩu được hết trên thị trường thế giới, khiến cho giá sụt và làm giảm thu nhập của công nhân,
nông dân trong các ngành liên quan. Trong khi đó, nhập khẩu lại hướng về máy, các vật tư, linh kiện rời
giá đắt và các hàng tiêu dùng cao cấp giá rất đắt. Tình hình này làm cho vị thế của ta trên thị trường quốc
tế yếu đi và dẫn đến nhiều nguy cơ lớn về kinh tế tài chính.

Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao, tỷ lệ giao hoán bất lợi, xuất phát từ việc xuất
khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao. Sự thiệt thòi triền miên năm này qua
năm khác mỗi năm ước hàng nhiều tỷ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm.
Thứ hai là nguy cơ nhập siêu đưa đến thâm thủng cán cân thương mại buộc phải vay tiền nước ngoài.
Trong các năm 1995 dến 95 chúng ta nhập siêu trên dưới 3 tỷ USD, nợ quốc tế tăng khoảng 2-3 tỷ
USD/năm để trám vào thâm thủng của cán cân thương mại và các chi phí khác về ngoại tệ.
Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình hình nợ đáo hạn và vốn lãi phải trả
mỗi năm mỗi tăng. Muốn trả nợ quốc tế, chỉ có 2 phương pháp: (a) xuất siêu để có dư cân thương mại để
trả nợ, (b) hoặc vay nợ mới để có ngoại tệ trả nợ cò. Trong thập niên 90, chúng ta không
có xuất siêu vậy phải áp dụng biện pháp vay nợ mới trả nợ cò, cả vốn lẫn lãi,
13
khiến cho nợ quốc tế tăng gia nhanh theo định luật lãi kép. Nợ quốc tế, nếu
ước hơn 15 tỷ USD thì bằng đến khoảng 50% GDP của nước ta, ước khoảng
30 tỷ USD.
Nợ quốc tế tăng, đến một mức nào đó, có thể dẫn đến tình hình khủng
hoảng tài chính - tiền tệ như đã xảy ra tại Thỏi Lan. Khi ấy, cơ quan tiền tệ
quốc tế đã đề nghị với Thỏi Lan những biện pháp "trọn gói" trong đó có nhiều
biện pháp mà Thỏi Lan cho rằng vi phạm nền độc lập tự chủ kinh tế quốc gia,
nhưng sau đó chính phủ Thỏi Lan đã bưuộc phải nhận. Tình hình nợ quốc tế
của nước ta so với Thỏi Lan ớt hơn nhiều, nhưng bài học Thỏi Lan cho thấy là
nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung ương không còn khả
năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là các trang trải nhập khẩu thông thường và
lóc bấy giờ sẽ xảy ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ.
Thứ tư: hội nhập quốc tế gióp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật, khoa học,
vốn quốc tế. Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tưư ở Việt Nam nếu họ
có lợi. Như vậy, chúng ta ở trong thế yếu, chỉ có khả năng hạn chế họ bớt lợi
mà thôi, nhưng nếu đầu tưư mà chỉ thu được lợi ớt, họ sẽ ngưng hay giới hạn
lượng đầu tưư. Kinh nghiệm chó thấy, trong thập niên 90, những thiết bị được
đầu tưư ở Việt Nam, thường là những thiết bị cò, thị phần các doanh nghiệp
Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn nước ngoài tăng

nhanh, nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoảng 30% nhê phần đóng
góp mặt bằng, nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100%do
nhiều lý do, trong số có lý do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng bên
Việt Nam không có khả năng đáp ưóng. Nếu tình hình này tiếp tục, ngưêi
nước ngoài sẽ làm chủ dần dần hầu hết các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam, khi
ấy, sẽ khó giữ được độc lập tự chủ kinh tế quốc gia.
Sự phối hợp 4 nguy cơ trên có khả năng đưa đến tình hình mất độc lập tự
chủ kinh tế, tài chính, tiền tệ, gây ra tình cảnh lệ thuộc vào nước ngoài. Đồng
Chí TBT đã xác định là độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng cơ bản bảo đảm sự
bền vững của độc lập tự chủ về chính trị, do đó cần phải có biện pháp xây
dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động trong việc hội nhập vào kinh tế quốc tế.
14
2. Hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Thế nào hội nhập kinh tế quốc tế:
Ngày nay hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi châu lục, chi
phối đời sống kinh tế mọi quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế là hiện tượng
xảy ra trong quan hệ giữa các quốc gia. Cách hiểu phổ biến nhất hiện nay về
hội nhập kinh tế là xoá bá sự khác biệt kinh tế giữa những nền kinh tế thuộc
các quốc gia khác nhau.
2.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực liên quan tới chủ trương hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta:
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đó xác định nhiệm vụ "mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố
và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ IX khẳng định
chủ trương "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững". Chủ trương hội nhập được đề ra trong bối cảnh tành hành thế giới và
khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lưêng trước về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và khoa học - kỹ thuật, với những đặc điểm nổi bật sau :
2.2.1. Trong hơn một thập kỷ qua, kinh tế thế giới nhàn chung phát triển

không ổn định và không đồng đều, về tốc độ thấp hơn thập kỷ trước (trên
2%/năm so với 3,2%) ; đó xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả
là cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính nổ ra năm 1997 ; vị trớ các nước và
các khu vực thay đổi theo hướng : kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên
tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm ; kinh tế Tây Âu hiện
không còn phát triển nhanh như các thập kỷ trước ; kinh tế Nhật suy thoái
chưa có lối ra ; các nước thuộc Liên Xụ trước đây và Đụng Âu rơi vào tành
trạng suy thoái trầm trọng và kéo dài ; vài năm gần đây đó tăng trưởng tương
đối khá ; trong khi đó kinh tế Trung Quốc phát triển "ngoạn mục" ; Đụng Á
và Đụng - Nam Á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ
trước, vừa qua đó rơi vào suy thoái và nay đang hồi phục ; Nam Á và nhất là
15
châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tành trạng trà trệ kéo dài ; kinh tế Mỹ La-tinh có
khá hơn song còng không ổn định.
"Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng
cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thóc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội". Dưới tác
động của những chiều hướng đó, kinh tế thế giới trải qua những biến đổi về
chất, các ngành công nghệ cao, đặc biệt là những lĩnh vực có hàm lượng chất
xám cao, nhất là công nghệ thụng tin và sinh học phát triển nhanh chóng làm
thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, tiêu dựng, trao đổi... còng như phương thức
làm ăn và cả sinh hoạt, giao lưu.
2.2.2. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển ngày càng nhanh
Vũngđàm phán U-ru-goay kết thóc, Hiệp định Ma-ra-kột được ký kết,
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời từ 01- 01-1995 thu hót tới 136 và
nay là 144 quốc gia và lónh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch bưuụn bán quốc
tế, theo hướng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế, mở cửa thị
trường hàng hóa, đầu tưư, dịch vụ ... Bên cạnh sự ra đời của WTO, xuất hiện
rất nhiều tổ chức tiểu vựng, khu vực, liên khu vực như các tam, tứ giác phát
triển, các khu vực mậu dịch tự do (AFTA, NAFTA), những tổ chức liên kết

toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC).
Các nước lớn, nhá đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng lớn
như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ... và cả một số nước vốn "khép kín", theo
mụ hành tự cung tự cấp còng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu : suy
thoái mụi trường, bựng nổ dân số, nghốo đói, các bệnh tật hiểm nghốo, các
vấn đề xã hội "xuyên quốc gia"..., không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải
quyết được mà cần phải có sự hợp tác đa phương.
Tành hành trên làm nảy sinh và thóc đẩy xu thế hội nhập để phát triển.
Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp phát triển, trước hết là Mỹ, do
16
có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học - công nghệ, có nền kinh
tế phát triển cao, đó ra sức thao tóng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều
kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm Chí dựng những biện pháp
thụ bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước
đang phát triển và chậm phát triển. Trước tành hành đó, các nước đang phát
triển đó từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách cưêng quyền
áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mành và một trật tự kinh tế quốc tế bành
đẳng, công bằng. Điều đó chứng tá xu thế hội nhập phản ánh cục diện vừa
đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt.
2.2.3. Ở khu vực Đụng-Nam Á đó diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc.
Sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, Đụng-Nam Á đó có hòa bành,
tuy còn tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định, xu thế hợp tác để phát
triển không ngừng gia tăng. Mặc dự trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài
chính trầm trọng thời gian 1997-1998, song đây vẫn là khu vực có nhiều tiềm
năng do vị trớ địa - chính trị và địa - kinh tế của mành, dung lượng thị trường
lớn, tài nguyên phong phó, lao động dồi dào, được đào tạo tốt, có quan hệ
quốc tế rộng rói.

Toàn bộ tành hành trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời còng
đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất
nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.3. Những kết quả đạt được khi Việt Nam tham gia quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại
thời gian qua đó mang lại cho chúng ta những kết quả quan trọng :
2.3.1. Chúng ta đó làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập nước
ta của các thế lực thù địch, tạo dựng được mụi trường quốc tế, khu vực thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên
chính trường và thương trường thế giới.
17
2.3.2. Không những chúng ta đó khắc phục được tành trạng khủng hoảng
thị trường do Liên Xụ và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan ró gây nên,
mà còn mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đó nhanh chóng mở rộng xuất nhập
khẩu, thóc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu
ngân sách. Nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và
nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đó đạt 15,1 tỷ
USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD, tăng trung bành trên 20% mỗi
năm, có năm tăng 30% ; riêng năm 2001 do ảnh hưởng của tành hành kinh tế
khó khăn trên thế giới và ở khu vực và giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
giảm mạnh, nên xuất khẩu chỉ tăng gần 5%.
2.3.3. Thu hót được một nguồn lớn đầu tưư trực tiếp của nước ngoài

×