Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

So sánh 3 bước đột phá đổi mới kinh tế của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.36 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
---------

ĐỀ TÀI:
So sánh 3 bước đột phá đổi mới kinh tế của Đảng

Nguyễn NgọcGiảng
Diệp viên hướng dẫn:
phần:
Lịch sử ĐảngHọc
cộng
sản Việt Nam
Nhóm 5

Nhóm thực hiện:

Mã lớp HP:
2350HCMI0131
I0111

1


2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................... 2
Chương I: Những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy kinh tế trước đổi mới...........2
1.1.



Bối cảnh trong nước và thế giới..................................................................2

1.2.

Bước đột phá đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979)..............4

1.2.1.

Nội dung.............................................................................................4

1.2.2.

Thành tựu...........................................................................................7

1.2.3.

Hạn chế:.............................................................................................8

1.3.

Bước đột phá thứ 2 tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985)...................8

1.3.1.

Nội dung.............................................................................................8

1.3.2.

Thành tựu.........................................................................................11


1.3.3.

Hạn chế............................................................................................12

1.4.

Bước đột phá thứ 3 tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986)......12

1.4.1.

Nội dung...........................................................................................12

1.4.2.

Thành tựu.........................................................................................14

1.4.3.

Hạn chế............................................................................................14

Chương II: So sánh ba bước đột phá đổi mới kinh tế của Đảng...................................14
2.1.

Những điểm giống nhau............................................................................14

2.2.

Những điểm khác nhau giữa ba bước đột phá...........................................15


Chương III: Giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn của ba bước đột phá trong công cuộc đổi
mới của nước ta............................................................................................................17
3.1.

Giá trị lịch sử............................................................................................17

3.2.

Giá trị thực tiễn.........................................................................................18

KẾT LUẬN.................................................................................................................. 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................21
BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ NHĨM 5..............................................................22


MỞ ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, từ cuối những
năm 70, đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cách mạng nước ta giành được nhiều
thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song còn nhiều
khuyết điểm sai lầm, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Yêu cầu bức
thiết đòi hỏi đa cách mạng nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, ổn định tình
hình mọi mặt đưa cách mạng tiến lên. Vào thời điểm lịch sử đó, tình hình thế giới có
nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp, tác động vào cách mạng nước ta. Đó là sự phát
triển của khoa học – cơng nghệ; sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản; công cuộc
cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn
nhiều khuyết điểm sai lầm, chủ nghĩa xã hội trên thế giới có nguy cơ sụp đổ, tan rã.
Tình hình trong nước và thế giới đặt ra đòi hỏi Đảng phải tìm tịi, đổi mới. Từ năm
1979 đến năm 1985 là thời kỳ đổi mới từng phần, có vị trí rất quan trọng đối với quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam. Hành trình đổi mới từng phần của Đảng ta diễn ra
qua nhiều trăn trở, tìm tịi, khảo nghiệm, trong đó có 3 bước đột phá lớn. Mở đầu là Hội

nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (8/1979) được xem là bước đột phá
thứ nhất. Tiếp theo là bước đột phá thứ hai trong Hội nghị Trung ương 8, khóa V
(6/1985). Và cuối cùng là bước đột phá thứ 3 trong Hội nghị Bộ Chính trị khóa V
(8/1986) hình thành đường lối đổi mới hồn tồn, đồng bộ. Những bước đột phá này có ý
nghĩa lịch sử và hiện thực vơ cùng to lớn. Nó là tiền đề quan trọng của đường lối đổi mới
toàn diện được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI (12/1986)
Trong bài tiểu luận này, nhóm 5 chúng em sẽ chỉ ra nội dung, những thành tựu cùng
hàn chế của 3 bước đột phá và so sánh những điểm giống và khác nhau giữa ba bước đột
phá. Từ đó rút ra các ý nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực mà ba bước đột phá đã để lại.

1


NỘI DUNG
Chương I: Những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy kinh tế trước đổi mới.
1.1.

Bối cảnh trong nước và thế giới
Sau năm 1975, đất nước đã hịa bình, độc lập, thống nhất, cả nước q độ lên chủ

nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều thuận lợi với sức mạnh tổng hợp, đồng thời cũng phải
khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh.Điểm xuất phát của Việt nam về kinh
tế - xã hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi đồng thời có xuất hiện
những khó khăn thách thức mới. Các nước xã hội chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về
kinh tế - xã hội và sự phát triển; các thế lực thù địch bao vây cấm vận và phá hoại sự phát
triển của Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa III (8/1975) chủ
trương: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời

tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. THống nhất đất nước
vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự
phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc thống
nhất nước nhà một cách tích cực và khẩn trương. Thống nhất càng sớm thì càng mau
chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia
rẽ của các thế lực phản động trong nước và trên thế giới.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, tại Hà Nội. Dự
Đại hội có 1008 đại biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đồn
đại biểu của đảng và tổ chức quốc tế tham dự.
Đại hội thong qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ, và mục
tiêu Kế hoạch nhà nước 5 năm (1976 - 1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng;
quyết định đổi tên Đang Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi

2


Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 101 ủy viên chính thức; 32 ủy viên
dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên 3 đặc điểm lớn của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: “Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một
xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiếng thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hịa bình, độc lập, thống
nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi lớn, song cũng cịn nhiều khó
khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. Ba là, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc
đấu tranh “ai thắng ai”giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới
còn gay go, quyết liệt”.
Với ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và
nhân dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách

mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình
thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở
nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền
sản xuất lớn, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chun chính vơ sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và nông nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát
triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh
em, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.

3


Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976 - 1980)
nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân, tích
lũy để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng và văn hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh
cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trị của các đồn
thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phịng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng
nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và
Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
Việc dự kiến hồn thành về cơ bản q trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá
độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp năng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh
tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế… là những chủ trương nóng

vội, thực tế đã khơng thực hiện được.
Triển khai thực hiện Nghị Quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu
thông.
1.2.

Bước đột phá đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979)

1.2.1. Nội dung
Trước đổi mới, do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta
khơng cịn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành
đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.
Tháng 8 năm 1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể lần thứ 6 với
nội dung đã được lựa chọn và chuẩn bị là bàn về sản xuất hàng tiêu dùng và cơng nghiệp
địa phương.
Nhưng trong q trình chuẩn bị Hội nghị, các địa phương đã phản ánh những ách tắc về
cơ chế, không chỉ với công nghiệp địa phương, sản xuất hàng tiêu dùng, mà còn đối với
4


mọi lĩnh vực khác. Điều bức bách số một không chỉ là chuyện công nghiệp địa phương
hay hàng tiêu dùng, mà là phải tháo gỡ những cơ chế đang kìm hãm sự phát triển của
kinh tế nói chung.
Trên cơ sở nhìn nhận những sai lầm, thiếu sót đó, Hội nghị xác định phương hướng của
những năm sắp tới như sau:
Trước hết, về mặt chính sách, phải:
"Xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến
khích việc phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển công nghiệp địa phương, mở
rộng quyền chủ động hợp lý của các ngành, các địa phương và cơ sở (kể cả quốc doanh,
tập thể, cá thể) trong sản xuất, kinh doanh nhằm làm cho sản xuất "bung ra" để có nhiều

hàng hóa cho xã hội. Kết hợp đúng đắn ba loại lợi ích: Lợi ích tồn xã hội, lợi ích tập thế
và lợi ích của người sản xuất".
Đi vào một số chủ trương cụ thể, Hội nghị đã thể hiện một loạt chuyển biến về quan điểm
như sau:
Về chủ trương: Đối với các thành phần kinh tế, Hội nghị phê phán xu hướng tả khuynh
trước đây, chỉ muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh,
tưởng như cứ làm như thế là đã có chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định một cách nhìn
mới về thành phần kinh tế.
"Trong các ngành công nghiệp, nhất là trong công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng
thành phần kinh tế quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo, nhưng vẫn để cho một số tư sản
dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước."
"Phải tận dụng các thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể
cả tư sản được kinh doanh hợp pháp)."
Các ngành và các tỉnh miền Nam phải tích cực giáo dục, giúp đỡ và mạnh dạn giao việc
cho công nhân, viên chức, trí thức vùng mới giải phóng, nghiêm cấm mọi thái độ thành
kiến, phân biệt đối xử."
5


Về kết hợp kế hoạch với thị trường: Hội nghị thể hiện thái độ phê phán cách nghĩ và cách
làm trước đây, muốn gò tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là một cái gì bất hợp pháp,
càng dẹp bỏ sớm càng tốt. Hội nghị khẳng định:
Trong một thời gian khá dài, bên cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, cịn tồn tại một
cách khách quan thị trường ngồi kế hoạch. Về sản xuất có phần chủ động của xí nghiệp
quốc doanh được làm thêm sản phẩm sau khi hồn thành kế hoạch nhà nước, có kinh tế
của gia đình nơng dân trên đất 5% và các nghề phụ trong nơng thơn, có sản xuất của thủ
cơng nghiệp cá thể ở thành phố... thì tất nhiên về lưu thơng, cần có thị trường ngồi kế
hoạch. Thị trường đó bổ sung cho thị trường có kế hoạch và do thị trường có kế hoạch chi
phối về tính chất và quy mô phát triển."
Từ những thay đổi về quan điểm kể trên, Hội nghị đã đi đến một chủ trương rất mới:

Chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu,
tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng được liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những
nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Các xí nghiệp dùng ngun liệu nơng sản được sản xuất trực tiếp quan hệ với nông
trường hoặc hợp tác xã nông nghiệp trong việc thu mua nguyên liệu, cung cấp vật tư theo
hợp đồng kinh tế hai chiều. Các xí nghiệp dùng nguyên liệu nhập, được cùng với ngoại
thương trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài trong việc nhập nguyên liệu.
Những chủ trương này chính là tiền đề cho Quyết định 25-CP sau này (1981) và những
cuộc phá rào, liên doanh liên kết rất sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thơng, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đưa ra một tiêu chuẩn rất
mới so với cách nhìn cũ kỹ của thời kỳ cải tạo:
"Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách lưu thơng phân phối là
tăng năng suất lao động phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân."
"Tinh thần chung của các chính sách lưu thông, phân phối là: Thúc đẩy sản xuất bung ra
theo đường lối của Đảng và phương hướng của kế hoạch Nhà nước, khuyến khích người
lao động sản xuất, bảo đảm cho Nhà nước làm chủ được thị trường, thu mua được nhiều
6


hàng hóa, tơn trọng quyền làm chủ của quần chúng, bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích.
Phải lấy việc phát triển sản xuất làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá tính chính xác của
các chính sách."
Xuất phát từ quan điểm đó, Hội nghị chủ trương một cơ chế phân phối lưu thông tự do
hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên những biện pháp hành chính, cưỡng bức như
trong các năm trước.
Về giá cả, Hội nghị quyết định giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và các cơ quan
hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống giá:
"Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản xuất và
mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước."
"Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết nhằm phục vụ tốt cho sản xuất, đời

sống, xuất khẩu và tích luỹ, tiến tới chấm dứt sớm tình trạng bù lỗ khơng hợp lý."
Như vậy là những gì đã từng được coi là "đinh đóng cột" từ Nghị quyết 10 (1964) về
chính sách giá đến đây đã bắt đầu lung lay. Đó chính là tiền đề cho các cuộc cải cách giá
được tiến hành vào nửa đầu thập kỷ 80.
Về nông nghiệp: "Tổ chức nông dân vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất, phải theo
đúng ba nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ."
1.2.2. Thành tựu
Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết
định của Chính phủ thời kỳ này như sau:
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là
bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tịi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản
xuất", “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất: chú ý kết hợp ba lợi
7


ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó
đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
1.2.3. Hạn chế:
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây
ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương
đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tịi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử
thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người.
Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất
hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản
xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.
1.3.


Bước đột phá thứ 2 tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985)

1.3.1. Nội dung
a. Nhận định tình hình
Sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 91979) Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản xuất và phân
phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp dụng những cách làm
mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh thu mua nắm hàng,
cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết một số vấn đề cấp bách về giá và
lương. Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu
thơng cịn có những mặt hạn chế. Từ đó vấn đề đặt ra là phải dứt khốt xố bỏ tập trung
quan liêu - bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
b. Mục tiêu và phương hướng giải quyết vấn đề giá - lương - tiền
Căn cứ vào tình hình nói trên và nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra, việc giải quyết các vấn đề giá - lương
- tiền phải nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:
8


- Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần), khai
thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, nhằm
phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.
- Ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên chức
và lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, làm chủ thị
trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.
- Góp phần tạo dần nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để cơng nghiệp
hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, phát triển kinh tế gia đình.
- Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá hoại; đấu

tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.
Nội dung xoá quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền chủ yếu là:
1. Tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá cả bảo đảm bù đắp chi phí
thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ;
xố bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý.
Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá, khắc phục tình trạng "thả nổi"
giá cả cũng như việc định giá và quản lý giá cứng nhắc.
Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập trung
thống nhất của trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hoá chủ yếu có tính
tồn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về những vật
tư và hàng hố có tính địa phương. Trên cơ sở định giá đúng và phân công, phân cấp hợp
lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.
2. Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu bằng
tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc
dân.
9


Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, thực hiện phân
phối theo lao động.
Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hố bảo đảm, xố bỏ chế độ cung cấp hiện
vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá.
Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước có tính đến sự khác biệt hợp lý
giữa các vùng, các ngành; ưu đãi thoả đáng các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, có yêu
cầu nghiệp vụ, kỹ thuật cao, các ngành giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật.
3. Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa
phương và đơn vị cơ sở gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hoá và quản lý. Chuyển hẳn
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở sang cơ
chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hoá. Tất cả các tổ
chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xố bỏ mọi khoản bù lỗ bất

hợp lý của ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) về các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời và phải được xem xét thật
nghiêm ngặt.
Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương và địa phương mang tính chất bao
cấp tràn lan; phấn đấu tích cực thực hiện cân bằng ngân sách trong thời gian ngắn; tạo
điều kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu ổn định và phát triển.
4. Nhanh chóng chuyển hẳn cơng tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành, địa phương, đơn vị cơ sở
thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế của
đồng vốn làm tiêu chuẩn hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, làm chủ phân phối - lưu thơng, cần chủ
động kế hoạch hố phát hành, phấn đấu sớm chấm dứt lạm phát cho chi tiêu ngân sách.
Trong tình hình kinh tế đang chuyển biến, chưa ổn định, cuộc điều chỉnh lớn và
toàn diện về giá - lương - tiền lần này phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết, nhưng

10


phải tính tốn kỹ lưỡng các phương án vững chắc gắn với việc xây dựng và hoàn chỉnh
cơ chế quản lý mới.
Các chủ trương và việc tổ chức thực hiện ngay trong mỗi bước phải đồng bộ, quán
triệt quan điểm xoá bỏ quan liêu bao cấp. Phải dự kiến được mặt tích cực, đồng thời phải
lường trước những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra để có
biện pháp tích cực đề phòng và khắc phục.
1.3.2. Thành tựu
Hội nghị trung ương 8 khóa V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong q
trình tìm tịi, đổi mới kinh tế của Đảng vì tại đây Trung ương chủ trương xóa các quan
liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết
định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật sản xuất
hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tổ chức thực hiện thì lại mắc những

sai lầm như vội đổi tiền và điều chỉnh giá, lương khi mà chưa chuẩn bị đủ mọi mặt, trong
mọi tình huống. Vì cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương như vậy đã làm cho cuộc khủng
hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng và sâu sắc hơn.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này về giá - lương - tiền là kết quả rút ra từ thực
tiễn và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, thể hiện sự chuyển
hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách của Đảng ta khơng những về giá
cả, tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hoá và quản
lý kinh tế, nhằm triệt để xoá bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển lên
một bước mới.
Việc đổi mới chính sách giá, lương và cơ chế quản lý kinh tế là sự thay đổi lớn có ý
nghĩa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng rằng Nghị quyết này sẽ tạo ra sự
nhất trí cao trong tồn Đảng, toàn quân, toàn dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động trong cả nước, dấy lên cao trào cách mạng của quần chúng
11


trong lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên
giành những thắng lợi mới.
1.3.3. Hạn chế
Đảng chưa cụ thể hóa đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên (1976 -1980),
chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong
lĩnh vực phân phối, lưu thơng, đã bng lỏng chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn
phá hoại thâm độc của kẻ thù.
1.4.

Bước đột phá thứ 3 tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986).

1.4.1. Nội dung

Hội nghị của Bộ Chính trị khóa V là bước đột phá thứ ba với “Kết luận đối với
một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế.” Nội dung đó là:
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư:
Thật sự phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp
nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến nông sản,
thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho người lao động và tạo
dần tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp nặng phải được phát triển một
cách có lựa chọn cả về quy mơ và nhịp độ, chú trọng quy mô nhỏ và vừa, phát huy hiệu
quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và
xuất khẩu.
Phát triển đồng bộ giao thông vận tải cùng kết cấu hạ tầng khác và các hoạt động
dịch vụ cần thiết. Coi trọng đầu tư cho khoa học, kỹ thuật. Chuẩn bị điều kiện mọi mặt để
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa trong chặng đường sau. Trong các phương án kinh tế, phải coi
trọng áp dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới:
12


Phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế khác bao gồm: kinh tế công tư hợp doanh (nửa xã
hội chủ nghĩa); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ cơng, nông dân cá thể chưa vào
hợp tác xã, tiểu thương); kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ); kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc.
Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng cường quan hệ sản
xuất mới; phấn đấu đến hết chặng đường đầu tiên làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm
tỷ trọng lớn và giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, quan hệ sản xuất mới thể
hiện rõ tính hơn hẳn so với quan hệ sản xuất cũ, thật sự thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển
Trong cơ chế quản lý kinh tế:

Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý đã được khẳng định là phải xóa bỏ tập trung
quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp với bản chất của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Những đặc
trưng chủ yếu của cơ chế đó mà chúng ta cần phải xóa bỏ là:
- Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu.
- Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng, nấc trung gian với những
cán bộ quản lý yếu kém
Kế hoạch hóa là cơng cụ trung tâm của hệ thống quản lý, bao quát mọi mặt kinh tế xã hội trong nước, gắn liền với quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm bảo đảm phát triển nền
kinh tế quốc dân với hiệu quả cao. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ và thị
trường trong cơ chế kế hoạch hóa như một thể thống nhất hữu cơ, chính là nội dung cốt
lõi của cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải phấn đấu
giành độc quyền kinh doanh lương thực, vật tư chiến lược và một số loại hàng tiêu dùng
thiết yếu khác, thông qua các tổ chức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được
chủ trương quan trọng này, phải dùng biện pháp kinh tế là chính, kết hợp sử dụng đúng
13


đắn biện pháp giáo dục, hành chính, tổ chức và tư pháp; phải dựa vào các tổ chức kinh
doanh là chủ yếu, đồng thời sử dụng tốt các chức năng kiểm soát và quản lý thị trường
của các cơ quan quản lý Nhà nước. Phải có chính sách giá cả và phương thức mua, bán
hợp lý để thương nghiệp xã hội chủ nghĩa thơng qua kinh doanh mà nắm tồn bộ hoặc
hầu hết sản phẩm hàng hóa và phải chuẩn bị điều kiện đáp ứng được nhu cầu của xã hội
về những mặt hàng mà Nhà nước độc quyền kinh doanh.
1.4.2. Thành tựu
- Thực hiện chuyển đổi từ kinh tế trọng điểm chủ yếu dựa vào ngành công nghiệp
sang kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, đẩy mạnh phát triển kinh tế tập trung vào xây dựng cơ
sở hạ tầng, cải cách tổ chức kinh tế và thúc đẩy tư nhân hóa.
- Thực hiện cải cách chính sách tài chính, tiền tệ, thuế và giá cả để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu hút đầu tư.
- Đưa ra chính sách đổi mới về hệ thống quản lý nhà nước, cải cách thể chế nhà

nước, tăng cường quản lý và kiểm soát về kinh tế và xã hội.
- Thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu và
thu hút đầu tư nước ngoài.
- Cải cách giáo dục và đào tạo, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu khoa học và công
nghệ, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
1.4.3. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm đã đạt được theo chủ trương đề ra, Đảng gặp
khơng ít khó khăn và yếu kém như nền kinh tế phát triển chưa vững chắc; năng suất lao
động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chưa được
giải quyết như tỷ lệ thất nghiệp cao, sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt, chế độ tiền lương bất
hợp lý, cùng với đó là tình trạng tham nhũng chưa được khắc phục triệt để.
Chương II: So sánh ba bước đột phá đổi mới kinh tế của Đảng
2.1.

Những điểm giống nhau
14


Đảng ta đã thực hiện ba bước đột phá đổi mới kinh tế, đánh vào những điểm nóng
như sản xuất, đời sống nhân dân, kinh tế đất nước và kinh tế gia đình, quốc phịng và an
ninh,… Mỗi bước đột phá đều gắn với các mốc lịch sử khác nhau cùng những tác động
khác nhau, lại có những điều mới mẻ, cải tiến hoặc sửa đổi, song vẫn có vài điểm chung
tốt có thể kể đến như:
 Nhà nước đều thực hiện điều chỉnh giá cả sao cho hợp lý, khơng thua lỗ, nhằm
hướng tới lợi ích kinh tế cho cả đất nước lẫn người dân lao động. Giải quyết các vấn đề
về giá – lương – tiền. Ngoài lợi ích kinh tế nhà nước, cả ba bước đột phá đều nhắm tới
đời sống nhân dân, cải thiện chất lượng cuộc sống, củng cố lòng tin của dân đối với
Đảng.
 Xóa bỏ nhiều lệ cũ bất cập trong sản xuất, thực hiện kế hoạch hóa, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhất là vào các giai đoạn về sau, Đảng ta ngày càng nhận

thức rõ những sự hạn chế của chế độ bao cấp, và dần đưa ra những chính sách, giải pháp
khác nhau, từ từ thốt ly khỏi chế độ đó.
 Vẫn tăng cường góp phần kinh tế vào quốc phòng an ninh, bảo vệ tổ quốc, Đảng
và nhân dân đều đặt nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc lên hàng đầu, đồng
thời nâng tầm kinh tế đất nước. Cuộc đổi mới đầu tiên, kinh tế góp phần vào việc giữ
tồn vẹn lãnh thổ trước những xâm lăng của các nước bên ngoài. Những cuộc đổi mới
tiếp theo, nước ta thống nhất nước nhà, kinh tế đất nước giờ đây cịn được góp vào để
khắc phục hậu quả chiến tranh, nhằm xây dựng tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục
bảo vệ vững chắc lãnh thổ Việt Nam.
Bên cạnh đó vẫn có vài hạn chế chung như kinh tế vẫn còn khá thấp kém so với các
nước láng giềng. Đảng và nhà nước vẫn phải trải qua những giai đoạn phức tạp, khó
khăn, cùng nhiều thiếu sót chủ quan dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Song Đảng vẫn nhìn
nhận rõ ràng và học hỏi, tự kiểm điểm để khắc phục tồn tại, phát triển điểm mạnh, với ý
chí kiên định đưa kinh tế đất nước lên ngày một tốt hơn.
2.2.

Những điểm khác nhau giữa ba bước đột phá
15


Các đột phá đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian từ năm
1979 đến 1986 đã đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi đột phá đều có những điểm khác nhau cụ thể.
Đột phá kinh tế thứ nhất tập trung vào việc khắc phục những yếu kém trong quản lý
kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản để mở
đường cho sản xuất phát triển. Nó cũng tập trung vào ổn định nghĩa vụ lương thực và
khuyến khích sản xuất, chăn ni gia súc, và sửa chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác
xã nông nghiệp. Đây là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta.
Đột phá kinh tế thứ hai đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế. Hội
nghị tập trung vào việc xoá bỏ cơ chế tập trung quản lí, bao cấp, thực hiện cơ chế một

giá; xố bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh
doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; và chuyển ngân hàng sang
nguyên tắc kinh doanh. Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật
của sản xuất hàng hoá.
Đột phá kinh tế thứ ba, trong q trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh
tế. Hội nghị đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế, trong đó
tập trung vào cơ cấu kinh tế, phát triển cơng nghiệp nhẹ, và cơng nghiệp nặng được phát
triển có chọn lọc. Hội nghị cũng nhấn mạnh cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, và lấy kế hoạch làm trung tâm
nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực
hiện cơ chế một giá.
Tóm lại, các đột phá đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam được thực hiện
theo từng giai đoạn và với mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, chung quy các đột phá này đều
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

16


Chương III: Giá trị lịch sử và giá trị thực tiễn của ba bước đột phá trong công
cuộc đổi mới của nước ta
3.1.

Giá trị lịch sử
Q trình tìm tịi, phát triển, đột phá kinh tế chủ nghĩa xã hội ở nước ta của Đảng từ

năm 1979 đến năm 1986 là quá trình từ đổi mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ, tiến
lên đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để. Đường lối đổi mới của Đảng là sản phẩm của ý
Đảng, lịng dân. Do đó, đường lối sớm được hiện thực hóa, mang lại kết quả trong cuộc

sống. Điều đó chứng tỏ q trình đổi mới ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, xu thế của thời đại và hợp quy luật.
Khoảng thời gian từ 1979 đến 1989 là “ quá trình đổi mới tư duy” của Đảng về mặt
kinh tế, cụ thể là hình thành ngày càng hồn thiện luận điểm “phát triển kinh tế hàng hóa
để đi lên chủ nghĩa xã hội”. Bước đột phá mở đầu (1979) chủ trương bằng mọi cách làm
cho sản xuất "bung ra"; khơng cịn xem kế hoạch hố là hình thức duy nhất để phát triển
kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường. Bước đột phá thứ
hai (1985) với chủ trương dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện
cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản
xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN.Và tổng kết với bước đột phá
thứ ba ( 1986) với việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phát triển công nghiệp, xác
định cơ cấu kinh tế, cải tạo cơ chế quản lý kinh tế, tiến tới thực hiện cơ chế một giá….
Rõ ràng, đường lối đổi mới của Đảng, trọng tâm là đổi mới kinh tế chính là tư duy
mới về 3 vấn đề cơ bản: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, trước
mắt tập trung cho 3 chương trình kinh tế lớn; Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, chuyển sang hạch tốn kinh doanh XHCN,...Chính thực tiễn đổi mới sinh động ở các
cơ sở, các địa phương đã cung cấp tư liệu cho việc hình thành đường lối Đổi mới toàn
diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ những tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn đã tiến
đến những bước tháo gỡ lớn về tư duy kinh tế. Nhiều quan điểm bảo thủ, xơ cứng, những
định kiến và ngộ nhận về kinh tế hàng hóa, về tư sản, về bóc lột đã lùi bước trước cái
17



×