Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Chủ Trương Đường Lối Của Đảng Về Công Tác Dân Tộc Trong Văn Kiện Đại Hội Lần Thứ Xiii Của Đảng Và Giải Pháp Thực Hiện.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.59 KB, 4 trang )

Chủ trương đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và
giải pháp thực hiện
(TG) - Công tác dân tộc và đồn kết các dân tộc ln có vị trí chiến lược quan trọng trong cách
mạng Việt Nam. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay,
Đảng ta luôn quan tâm, dành nhiều chủ trương ưu tiên, đầu tư phát triển toàn diện về kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa, quốc phịng, an ninh… đối với vùng dân tộc và miền núi .
CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC
TRONG THỜI GIAN QUA
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất nước đến nay được thể
hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành
cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn, với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: “Các dân tộc trong
đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển tồn diện chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân
lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn
hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất”(1).
Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về cơng tác dân tộc đã mang tính tồn diện
trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc và niềm núi (DT&MN) và luôn được sửa đổi, bổ sung
theo từng giai đoạn nhằm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN cùng với sự phát
triển chung của đất nước. Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong thời kỳ
đổi mới đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ
thị, thông tư... của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nên trong
những năm qua, cơng tác dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tính riêng trong giai đoạn
2016 - 2020, vùng đồng bào DT&MN có những chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh đến trung tâm các huyện đã
được rải nhựa hoặc bê tơng hố 100%; các xã có đường ơ-tơ đến trung tâm đạt 98,4%; tỷ lệ hộ dân tộc
thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở;


99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thơn có nhà văn hóa, nhà sinh
hoạt cộng đồng; tỷ lệ thơn có đường giao thơng được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ người đủ 15 tuổi trở lên biết
đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở
tăng 9%, trung học phổ thông tăng 14,7%. Đến hết năm 2020 cả nước đã xây dựng được 316 trường
phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4 trường và 3 khoa dự bị đại học
dân tộc. Bên cạnh đó, cơng tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số
đạt được một số kết quả quan trọng.
Cơng tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, đến hết năm 2020 vùng DT&MN có
99,5% số xã có trạm y tế; trong đó, có 83,5% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (tăng gấp 2 lần so với năm
2015); số trạm y tế có bác sỹ chiếm 77,2%. Bên cạnh đó, có 93% số người dân tộc thiểu số được cấp
thẻ bảo hiểm y tế. Ngồi ra, tỷ lệ tảo hơn giảm 4,7%; hôn nhân cận huyết giảm 0,9%.
Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận, trong đó, tiếp tục
cơng nhận 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch sử văn hóa quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ
nhân dân gian là người dân tộc thiểu số; hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc
thiểu số … có 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng được 22 thứ tiếng dân tộc,
phù hợp với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết năm 2020 đã xây dựng được hơn 16.000 điểm bưu
điện văn hóa xã; có hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền.


Công tác phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ln được quan tâm. Tính đến hết năm 2020,
tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14,5%; trong đó, giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý các cấp chiếm 17,2%. Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ trực thuộc
Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,72%; ủy viên
ban thường vụ đạt tỷ lệ 11,86%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,51%; bí thư cấp ủy người
DTTS có 9,23%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 1,54%. Trong đó, tỷ lệ đảng viên là người
dân tộc thiểu số tăng từ 10,94% năm 2012 lên 11,98% năm 2019.
Bên cạnh đó, cơng tác quốc phịng, an ninh ln được củng cố và tăng cường, trong đó, đã chủ động
phát hiện, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự trên địa
bàn vùng DT&MN(2).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn cịn những hạn chế, yếu kém, đó là: “Kết quả thực
hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng
chung của cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ
nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả
năng tiếp cận dịch vụ xã hội cịn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả; cán bộ,
công chức, viên chức người dân tộc thiểu số nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo quy định; hủ tục lạc hậu, mê
tín dị đoan ở một số nơi chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự” (3).
Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả khách quan và chủ
quan, đó là: Điểm xuất phát của vùng đồng bào DT&MN còn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao
thơng khó khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xảy ra thường xun; chất lượng nguồn nhân lực
cịn thấp. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền, nhận thức chưa đầy đủ về công tác dân tộc; công
tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ,
đồng bộ; một số chính sách cịn chồng chéo, nguồn lực đầu tư cịn nhiều hạn chế. Ngoài ra, một bộ
phận đồng bào dân tộc thiểu số cịn có tư tưởng bằng lịng với hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.
CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Để đẩy mạnh phát triển bền vững toàn diện vùng DT&MN cùng với sự nghiệp phát triển chung của đất
nước, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nêu rõ:
“Đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động phân bổ, sử dụng,
quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hố,
xã hội ở vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân
tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích
cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm
nghèo đa chiều bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân
tộc”(4).
Bên cạnh đó, văn kiện cũng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y
tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng
bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. Triển khai các chương trình dự án
phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó

khăn”(5).
Trong xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đẩy mạnh phát triển các vùng, văn kiện đã nêu ra
những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, như: Với
vùng trung du và miền núi phía Bắc cần “Phát huy các lợi thế về tài nguyên rừng, khoáng sản, các cửa
khẩu, văn hoá dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ…” (6). Đối với vùng Tây
Nguyên, bên cạnh phát triển các thế mạnh của vùng cần đẩy mạnh “Phát triển nguồn nhân lực, ổn định
dân cư, ưu tiên bảo tồn và khơi phục các giá trị văn hố truyền thống, bản sắc của các dân tộc vùng
Tây Nguyên”(7).
Đối với các vùng khác như: Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung hay vùng đồng bằng sông Cửu
Long, dù văn kiện khơng nêu lên những vấn đề có liên quan cụ thể đến đồng bào các dân tộc thiểu số,
nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa phát huy các ưu thế của vùng để phát triển kinh tế - xã hội góp phần


nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng nói chung, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nói
riêng, bởi đây là những vùng có đơng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống,
So với các kỳ đại hội trước đây, chủ trương, đường lối về cơng tác dân tộc được đề ra chỉ mang tính
khát quát chung toàn bộ về vùng dân tộc và miền núi thì trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng đã
chủ trương chú trọng đến tính đặc thù của từng vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số trong q trình
xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đây được xem là điểm mới có ý nghĩa hết sức quan
trọng để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng nhằm đảm bảo phù hợp với bản sắc văn hoá,
phong tục tập quán của từng vùng cũng như từng dân tộc. Vấn đề này không chỉ giúp cho việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khắc phục những hạn chế,
yếu kém trong thời gian qua, bởi từng vùng hay mỗi dân tộc đều có những đặc điểm khác nhau, nhất là
các đặc điểm về bản sắc văn hố truyền thống. Đồng thời, cịn “Giải quyết hài hòa quan hệ giữa các
dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng
có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải
miền Trung”(8).
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém về công tác dân tộc trong những
năm qua nhằm phát triển toàn diện vùng DT&MN theo chủ trương, đường lối của Đảng trong văn kiện

Đại hội XIII, trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về cơng tác dân tộc trong
tình hình mới”. Đồng thời thực hiện tốt các nghị quyết, các chương trình mục tiêu quốc gia như:
Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục
tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách cịn hiệu lực đối
với vùng đồng bào DT&MN. Trong đó, tập trung cao độ thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019,
của Quốc hội khoá XIV.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hồn thiện, nâng cao hiệu quả chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng
DT&MN theo hướng toàn diện, bền vững. Đồng thời, mở rộng vốn ưu đãi đối với các chương trình, dự
án, tạo sinh kế cho đồng bào; đẩy mạnh việc đa dạng hố và xã hội hố các nguồn lực, trong đó, nguồn
lực nhà nước có vai trị quan trọng và quyết định trong việc huy động các nguồn lực khác. Đổi mới
chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng
cho vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong đó, để phát huy tiềm năng lợi thế của vùng DT&MN trong phát triển kinh tế cần đẩy mạnh các
vùng chuyên canh cây trồng, vật nn có năng suất, chất lượng cao để sản xuất hàng hoá theo chuỗi
giá trị nhằm cho phù hợp với các vùng và phù hợp với đặc điểm văn hoá, tập quán của các dân tộc.
Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư và khai thác các giá trị văn hoá truyền thống của các DTTS gắn với
phát triển du lịch, dịch vụ nhằm tạo sinh kế và công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho đồng bào các
dân tộc. Đồng thời, khơi dậy tinh thần tự lực, ý chí, khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào các dân
tộc thiểu số trong phát triển kinh tế để làm giàu chính đáng.
Ba là, ưu tiên nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng kiên cố nhằm đảm bảo đến
năm 2025 có “100% số xã có đường ơ-tơ đến trung tâm được rải nhựa hoặc bê tơng; 70% thơn có
đường ơ tơ đến trung tâm được cứng hố; 100% số trường lớp và trạm y tế được xây dựng kiên cố.
Trong đó, đến năm 2030 có trên 85% số xã, thơn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ
sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân”(9) để thích ứng với
biến đổi khí hậu và phịng chống thiên tai như lũ ống, lũ qut, khơ hạn, nước biển dâng… Cùng với

đó, cần tăng cường đầu tư đồng bộ hạ tầng viễn thông, năng lượng nhằm đảm bảo có 99% số hộ gia
đình vùng đồng bào DT&MN được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp. Đồng
thời, đẩy mạnh dịch vụ phát thanh, truyền hình nhằm đảm bảo đến năm 2030, đạt 100% đồng bào dân
tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh. Ngồi ra, cần đẩy mạnh công nghệ thông tin
để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của đồng bào.


Bốn là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực về văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào DT&MN. Nâng cao chất
lượng công tác giáo dục và đào tạo; tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đầu tư,
phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú và các trường dự bị đại học. Hỗ trợ việc ăn, ở
cho học sinh, sinh viên các vùng như vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng đặc biệt khó khăn.
Đồng thời, cần đổi mới phương thức và chính sách cử tuyển đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu
số, nhất là ở các khu vực đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề, giải quyết việc
làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối với thanh niên các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng
và dạy nghề.
Bên cạnh đó, cần nâng cao tỷ lệ và chất lượng khám chữa bệnh cho đồng bào, nhất là tuyến cơ sở,
đẩy mạnh đầu tư các dịch vụ y tế; phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại; thực hiện tốt
chính sách bảo hiểm y tế nhằm tạo điều kiện cho đồng bào được khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến
tuyến trung ương. Xây dựng và đẩy mạnh chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em
nhằm nâng cao về thể chất, tầm vóc của thanh, thiếu niên người dân tộc thiểu số.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa
phương phù hợp với văn hoá và tập quán của các dân tộc; quan tâm sưu tầm, bảo tồn và phát huy có
hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống, kể cả vật thể và phi vật thể. Kiên quyết xoá bỏ các hủ tục lạc
hậu và sớm chấm dứt tình trạng tảo hơn, hôn nhân cận huyết thống. Nâng cao hơn nữa mức hưởng
thụ về văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Năm là, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhất là ở những vùng trọng điểm,
vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên là
người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ
người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới theo quy định. Đồng thời, có chính sách đặc thù trong việc
tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít

người, nhóm dân tộc thiểu số cịn nhiều khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ người dân tộc thiểu số. Bên
cạnh đó, cần đổi mới tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác
dân tộc để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, có cơ chế, chính sách biểu
dương, tơn vinh những người có uy tín, già làng, trưởng bản có nhiều đóng góp cho cơng tác dân tộc.
Sáu là, đẩy mạnh cơng tác xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân ở vùng
DT&MN vững chắc. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù trong việc chia rẽ khối đại đoàn kết
các dân tộc. Đồng thời, khơng để xảy ra các “điểm nóng” phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các địa
bàn chiến lược xung yếu như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và tây duyên hải miền Trung.
Bảy là, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trên
thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm, thu hút các nguồn lực để đầu tư cho các chương trình, dự án;
chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN. Có cơ chế khuyến khích
cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngồi đóng góp nguồn lực cho phát triển tồn diện
vùng DT&MN.
Có thể thấy, với quan điểm cơng tác dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các
cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị. Vì vậy, để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng về
công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới cần tiến hành triển khai thực hiện các
giải pháp trên để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và thu hẹp dần khoảng cách về mức sống của
đồng bào các dân tộc thiểu số so với bình quân chung của cả nước.



×