Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Sự ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.42 KB, 23 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
HỌC PHẦN: VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á NHỮNG VẤN ĐỀ
LỊCH SỬ, VĂN HÓA, XÃ HỘI
Đề tài: Sự ảnh hưởng của Ấn Độ đối với VIệt Nam

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện
Khoa:

Hà Nội, 12/2022

2


Tóm tắt: Là một trong những đất nước có lịch sử phát triển lâu đời nhất
thế giới, Ấn Độ có sức tác động mạnh mẽ đến văn minh nhân loại nói chung và
Việt Nam nói riêng. Bởi lẽ, bản sắc của khu vực đông dân cư bậc nhất thế giới
này là sự tổng hịa và kết hợp của văn hóa địa phương lẫn văn hóa của các nước
du nhập. Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, có vị trí địa lý
thuận lợi, rất gần với nền văn minh Ấn Độ nên từ lâu, người Việt đã có sự ảnh
hưởng từ những thành tựu của đất nước này. Dưới sự tác động của làn sóng Ấn
Độ được xem như một quy luật vận động và phát triển tất yếu của lịch sử đổi với
Việt Nam. Bằng những phương pháp liên ngành, phương pháp so sánh, và tiếp
thu các thành tựu nghiên cứu của khảo cổ học, sử học, văn hóa học bài viết sẽ
tìm hiểu sự ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Việt Nam qua những khía cạnh tơn


giáo, tín ngưỡng, lễ hội, kiến trúc, văn học và ngơn ngữ,... Từ đó nêu bật lên sự
ảnh hưởng này có tính chất lịch sử lâu dài nhưng nước ta lại khơng hề bị đồng
hóa mà lại uyển chuyển kết hợp văn hóa Ấn với tín ngưỡng bản địa và xây dựng
nên nền văn hóa phong phú, lâu đời của người Việt. Qua đó nhằm tạo những
tiền đề quan trọng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong xu thế tồn
cầu hóa hiện nay.
Từ khóa: Việt Nam, Ấn Độ, ảnh hưởng, văn hóa, lịch sử, tôn giáo.
Mở đầu
Việt Nam là một quốc gia nằm ở rìa phía đơng bán đảo Đơng Dương, nằm
ở vị trí thuận lợi cho sự phát triển giao thương giữa nhiều quốc gia, khu vực đối
với Việt Nam nói riêng và Đơng Nam Á nói chung. Vì vậy, Việt Nam ngay từ
sớm đã có sự tiếp xúc, giao lưu với một trong những nền văn minh lớn trên thế
giới là nền văn minh Ấn Độ.
Sự ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ đối với Việt Nam được nghiên cứu và
đề cập đến rất nhiều. Trong tiến trình nghiên cứu về Ấn Độ cũng như những ảnh
hưởng của Ấn đối với Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu và nhiều tác phẩm tiêu
biểu cho người sau học tập, theo dõi. Một trong những chuyên gia kiệt xuất là

3


ơng Cao Huy Đình. Với cơng trình “Văn hố Ấn Độ”, ơng đã tìm hiểu và khai
thác rất nhiều về văn hố Ấn Độ và sự ảnh hưởng của nó tại Việt Nam. Những
tác phẩm chủ yếu để hướng dẫn người sau trong lĩnh vực nghiên cứu dấu vết của
văn hố Ấn Độ tại Việt Nam có: “Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Văn hoá Ấn Độ,
Tuyển tập tác phẩm…” Hay các bài nghiên cứu khoa học đi sâu vào nghiên cứu
sự tiếp biến văn hoá Ấn trên các lĩnh vực tại Việt Nam như trong lĩnh vực văn
học ta có thể kể tới ơng Nguyễn Đổng Chi với những tác phẩm có giá trị quý
báu trong lĩnh vực này. Là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam,
Nguyễn Đổng Chi đã trải qua nhiều năm sưu tập, phiên dịch, nghiên cứu truyện

dân gian Việt Nam và đặt ra một cái mốc có tính phương pháp luận cho việc
nghiên cứu vấn đề này; tìm hiểu tác phẩm văn học dân gian trong không gian
sống động thực tế. Trong q trình phân tích sự cấu thành, ơng ln ln đề cập
đến yếu tố Ấn Độ và đã đóng góp nhiều về quan điểm văn hoá Ấn Độ tác động
như thế nào đối với tư tưởng dân gian Việt Nam.
Là một người đi sau tôi luôn cố gắng vận dụng những kiến thức của thế hệ
đi trước, tìm tịi nghiên cứu để đưa ra một bài luận thuyết phục và mang tính
khoa học nhất. Qua đó tơi đã tạo nên được bài luận với tiêu đề “ Sự ảnh hưởng
của Ấn Độ đối với VIệt Nam”. Thông qua bài viết này tơi hy vọng sẽ đưa ra
được cái nhìn rõ hơn về sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Việt Nam góp
phần vào sự phát triển mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Khơng tính phần mở đầu và kết luận, bố cục bài viết gồm:
1. Con đường du nhập văn hóa Ấn Độ vào Việt Nam:
1.1. Thơng qua hoạt động thương mại.
1.2. Thông qua hoạt động truyền giáo.
1.3. Thông qua hoạt động di dân.
2. Ảnh hưởng của Ấn Độ đến Việt Nam trên một số lĩnh vực:
2.1. Ảnh hưởng về tôn giáo
4


2.1.1. Đạo Phật
2.1.2. Đạo Hindu (Ấn Độ giáo)
2.2. Ảnh hưởng về lễ hội.
2.3. Ảnh hưởng về chữ viết, văn học
2.3.1. Chữ viết
2.3.2. Văn học
2.4. Ảnh hưởng về nghệ thuật kiến trúc.
1. Con đường du nhập văn hóa Ấn Độ vào Việt Nam:
Con đường du nhập vào Việt Nam của Ấn Độ chủ yếu bằng đường biển.

Nằm án ngữ vị trí quan trọng trên con đường tơ lụa trên biển, Đông Nam Á hấp
dẫn với các thương nhân Ấn Độ bởi nơi đây chính là xứ sở của hương liệu, của
gỗ thơm nhưng hấp dẫn nhất vẫn là những hạt cát vùng Nam Dương chở đầy
vàng chảy vào những triền núi hay những dịng sơng. Chính người Ấn Độ đã
biết đến Đông Nam Á từ rất sớm. Nhiều thế kỷ trước khi Khang Thái và Chu
Ứng nhà Ngô đến nước Phù Nam và những ghi chép của các biên niên sử nhà
Hán (Trung Quốc), về nước Lâm Ấp…sử thi Ramayana của Ấn Độ đã nói tới xứ
Java và Sumatra. Trong cuốn sách Arthashastra (khảo cứu về tổ chức chính trị
và hành chính) của Kautilya, vị thượng thư của Vua Chandragupta (cuối TK IV
đầu TK III TCN) có đoạn khuyên nhà vua chiếm đoạt đất đai của các vương
quốc khác hoặc di dân q đơng của mình tới đó. Các tập Jataka (bổn sinh kinh)
của Phật giáo, sử thi Ramayana và đặc biệt cuốn Niddesa có ghi lại những lời
tường thuật của những người đi biển Ấn Độ, có nhắc tới các địa danh như Java,
Sumatra, Suvannabhumi (xứ vàng)…ở Đông Nam Á. Tài liệu thời muộn hơn
Sasana Ams Appa Dipika cũng cho biết Asoka (thế kỷ III TCN) đã cử tới 3 đoàn
truyền giáo do các vị cao tăng Gavampati, Sona và Uttara đi truyền bá Phật giáo
đến xứ đất vàng (Suvannabhumi) tức Thatơn và vùng Nam sông Sittang

5


(Myanmar).
1.1. Thơng qua hoạt động thương mại:
Tuy có nhiều lý do khác nhau cho việc người Ấn Độ tìm đường vượt biển
đến Đông Nam Á nhưng các nhà khoa học đều thống nhất nguyên nhân cốt yếu
cho việc này chính là về yếu tố thương mại. Chính sự phong phú của hương liệu,
gỗ trầm, các loại dầu thơm (long não, cánh kiến trắng) và đặc biệt là vàng đã
đưa các thương nhân Ấn Độ đến đây. Nhưng con đường này chưa phải là hợp lý
nhất nếu muốn đi từ Trung Quốc sang Ấn Độ đến thế giới phương Tây và ngược
lại. Vì vậy người bn và các lái bn đến từ nhiều nước khác nhau đã thiết lập

“con đường tơ lụa” trên bộ dài 7000km nổi tiếng từ Tây sang Đơng với điều
kiện lúc bấy giờ hàng hóa chở đc rất ít nên khi đến tay người dân nó trở nên rất
đắt đỏ. Từ những hạn chế này đã dẫn đến sự xuất hiện của “con đường tơ lụa
trên biển”. Và từ đây những địa chỉ thương mại của khu vực Đơng Nam Á đã ra
đời. Hành trình ngược lại của tơ lụa và hàng hóa là: Trung Hoa → Phù Nam →
Eo Kra → Nam Ấn Độ. Sau đó hàng hóa sẽ được vận chuyển đến châu Âu , con
đường này mặc dù vẫn còn một số hạn chế như phải vận chuyển hàng hóa qua
eo Kra, phải dừng ở eo Phù Nam nhưng nó vẫn tối ưu hơn con đường tơ lụa trên
bộ vì vận chuyển được nhiều hàng hóa hơn. Điều này lý giải tại sao Phù Nam trở
thành một trung tâm buôn bán của khu vực trong những thế kỷ đầu công
nguyên. Từ một đầu mối giao thơng trên biển, nơi đến-đi-rẽ vào-tạt qua, Ĩc Eo Phù Nam đã trở thành một đầu mối giao thông, một trung tâm thương mại cổ
của khu vực Đông Nam Á, nơi thể hiện tập trung nhất sự phát triển của thương
mại khu vực. Theo các nhà nghiên cứu, “hấp lực kinh tế mà chủ yếu là vàng đã
đưa người Ấn Độ đến Đơng Nam Á”1. Theo đó, hấp lực đầu tiên của các thương
nhân đến Đông Nam Á là bn bán, trao đổi hàng hóa, nhất là tìm kiếm vàng
chứ chưa phải truyền giáo.
1.2. Thông qua hoạt động truyền giáo:
1 Cao Xuân Phổ, “Những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ vào Việt Nam”, Giáo trình đào tạo sau đại
học chuyên ngành khảo cổ học, tư liệu Viện Khảo cổ học.
6


Các cuộc tiếp xúc thương mại là không đủ để truyền bá văn minh cao hơn
của một dân tộc này cho một dân tộc khác. Nếu nhà bn đóng vai trị truyền bá
văn hóa thì trung tâm ban đầu phải là những khu bn bán ven biển, những gì
tìm được cho thấy rằng bên cạnh hoạt động thương mại thì theo những đồn
thuyền bn là những nhà truyền giáo truyền bá văn hóa một cách tự nguyện
hay có sự chỉ đạo từ phía các ơng hồng trên đất Ấn, hai tơn giáo có ảnh hưởng
sâu rộng là Phật giáo và Balamon giáo. Ngoài những cuộc truyền giáo lớn được
tiến hành có tổ chức theo mệnh lệnh của các vị vua thì cơng cuộc truyền giáo

này cịn ghi nhận rất nhiều công sức của các nhà sư truyền đạo với danh nghĩa
cá nhân. Họ thường thâm nhập vào tầng lớp bình dân, hòa nhập với cuộc sống
của cư dân nơi họ đến rồi dần giáo hóa theo tơn giáo của mình. Mặt khác, cũng
khơng thể bỏ qua vai trị của người bản xứ trong q trình này. Chính dịng
người mộ đạo từ Ấn Độ đến đã khuyến khích một sự đối lưu mạnh hơn nhiều
của các nhà sư bản xứ sang. Như vậy sau những thương nhân là những tri thức
người Ấn (các tu sĩ Bà la môn giáo, các nhà sư Phật giáo) vì nếu khơng thì khó
có thể hiểu được sự phát sinh ở Đông Nam Á những nền văn minh thấm nhuần
sâu sắc ảnh hưởng của Ấn Độ như văn minh người Khmer, của người Java và
người Champa. Do có ưu thế của một nền văn minh lớn cũng như ưu thế sớm
hình thành truyền thống đúc kết và ghi chép những thành tựu chính trị văn học,
nghệ thuật, tơn giáo, phong tục của mình thành văn bản, nên văn hóa Ấn Độ thời
cổ, thơng qua sự truyền bá của các nhà sư, các sư tăng, tu sĩ,... đã dễ dàng thâm
nhập và bén rễ vào những cư dân bản xứ của các vương quốc Đông Nam Á sơ
kỳ.
1.3. Thông qua hoạt động di dân:
Không chỉ những nhà truyền giáo mới có vai trị to lớn như vậy, những
người thuộc tầng lớp trí thức thượng lưu, vương cơng quý tộc dòng dõi
“Koxatoria” sa cơ thất thế dưới thời Asoka theo các thuyền bn cũng có vai trị
khơng kém trong việc truyền bá văn hóa Ấn Độ sang đây. Van Leur cho rằng “

7


phần lớn các thương gia thuộc những nhóm xã hội hạ lưu không thể truyền bá
nền học thuật, kiến thức và sự thành văn mang tính duy lý, quan liêu được…”2 .
Hình thức xâm nhập văn hóa này thể hiện rõ nhất ở Champa. Vì mục đích
chủ yếu và gần như là duy nhất của những người Ấn đến Champa cũng như các
vùng đất khác ở Đông Nam Á là buôn bán và thiết lập những cơ sở làm ăn lâu
dài, nên các thương nhân, thậm chí các tu sĩ. sư tăng đều phải tìm cách bám trụ

lại những vùng đất mới. Do khơng phải là những người lính đi xâm lược, đi
chiếm đất nên cách tối ưu nhất và duy nhất của những người Ấn kiều ở Champa
là xâm nhập và hòa vào với những người bản xứ. Và cách hay nhất, dễ nhất để
làm việc đó chính là lấy vợ người bản xứ, là thông qua người bản xứ để truyền
bá văn hóa của chính mình. Chính bằng con đường thâm nhập hịa bình đó mà
văn minh Ấn Độ dễ dàng được những người dân Champa chấp nhận khá nhanh
và triệt để.
Như vậy, quan hệ giao lưu giữa Ấn Độ và Đơng Nam Á có từ rất sớm. Nó
là kết quả của những thành tựu hàng hải thời bấy giờ, cơng lớn của các thương
gia theo đó là những nhà truyền đạo, những quý tộc và mặt khác xuất phát từ
nhu cầu của chính các triều đại trong khu vực thời bấy giờ.
2. Ảnh hưởng của Ấn Độ đến Việt Nam trên một số lĩnh vực:
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, là nơi chịu ảnh
hưởng sâu sắc nền văn minh Ấn Độ. Ảnh hưởng của Ấn Độ với Việt Nam diễn
ra từ rất sớm thông qua nhiều con đường nhưng chủ yếu là qua trao đổi bn
bán và có ảnh hưởng tới nhiều mặt của cư dân nơi đây.
2.1. Ảnh hưởng về tôn giáo:
Trước khi nhận sự giao lưu của các tôn giáo, người Việt đã có những tín
ngưỡng bản địa từ lâu đời. Trước đó, ở Việt Nam đã tồn tại ba trung tâm văn
hóa lớn lần lượt là văn hóa Đơng Sơn (miền Bắc), văn hóa Sa Huỳnh (miền
2 D. G.E Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, bản dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.40.
8


Trung) và văn hóa Đồng Nai (miền Nam). Điểm chung ở cả 3 nền văn hóa này
là đều có kinh tế chủ yếu từ trồng lúa và làm nông nghiệp. 3 Vì vậy, cư dân nơi
đây chủ yếu thờ những vị thần tự nhiên, những yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp. Ở một số địa phương, người ta cịn thờ các vị thành
hồng làng – đó có thể người sáng lập bộ tộc, bộ lạc hoặc những vị anh hùng
dân tộc – để bảo hộ và phù trợ cho cuộc sống của họ. Tới những năm đầu Công

nguyên những tôn giáo của Ấn Độ mà chủ yếu là đạo Phật và đạo Hindu đã
truyền bá vào nước ta.
2.1.1. Đạo Phật:
Phật giáo là một trong những tinh hoa văn hóa tinh thần của Ấn Độ, có
ng̀n gớc dài lâu, nội dung rộng lớn, giáo lý sâu sắc, với tinh thần từ bi hỉ xả,
đáp ứng được việc giải tỏa những khổ đau của nhân sinh nơi trần thế, cho nên
Phật giáo đã quy tụ được hàng triệu tín đồ và có ảnh hưởng sâu rộng khơng chỉ
ở Ấn Độ mà còn lan tỏa ra khắp thế giới trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là nước nằm trong khu vực giao lưu giữa văn hóa Ấn Độ và văn
hóa Trung Quốc (Indochine) cho nên sớm tiếp nhận được Phật giáo. Trong tiến
trình lịch sử, Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, “cả nước
có đến 75% người dân chịu sự giáo dục hoặc ảnh hưởng của Phật giáo, 60%
người dân theo đạo Phật. Cả nước Việt Nam có khoảng hơn 32.000 người xuất
gia tăng ni, có hơn 14.000 ngôi chùa miếu”.4
Tuy nhiên, Phật giáo sau khi du nhập vào Việt Nam đã được bản địa hóa,
hoằng dương, thăng hoa góp phần gắn kết giữa chính trị và tơn giáo, đồng hành
cùng dân tộc trong việc giữ gìn bảo vệ tổ quốc, chăm lo đời sống thái bình cho
dân chúng và góp phần hưng thịnh đất nước.
Sự phát triển của đạo Phật, sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá
nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Nửa sau thế kỉ III Tr.CN , đạo Phật được
3 Nguyễn Thu Phương. 2019. Các nền văn minh cổ trên thế giới và Việt Nam. N.p.: Thanh niên, Tr.
45.
4 (PGS. TS. Trần Lê Bảo, 2015)
9


truyền bá sang Sri Lanka , sau đó các nước như Myanmar, Thái Lan, Indonesia,
Việt Nam... Đến khoảng năm 100 sau công nguyên, đạo Phật tách ra làm hai
phái: ở miền Nam Ấn, người ta theo phái Tiểu thừa (Hinayana ) tức là “cỗ xe
nhỏ”; ở Bắc Ấn người ta theo phái Đại thừa (Mahayana ) tức là “cỗ xe lớn”.

Việc xuất hiện Đại thừa và Tiểu thừa thể hiện sự phân hoá làm vị thế của đạo
Phật suy yếu ở Ấn Độ.
Nội dung chủ yếu của đạo Phật được tóm tắt trong câu nói của Phật Thích
Ca : “trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra chân lý về nỗi khổ và sự giải
thoát khỏi nỗi khổ”, “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết
của ta chỉ có một vị là cứu với”5. Chân lý về nỗi khổ và sự giải thoát khỏi nỗi
khổ được thể hiện trong “ Tứ diệu đế ” gồm : Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
Đạo Phật cho rằng kiếp người lại không ngừng tái sinh, nguyên nhân các nỗi
khổ ấy cũng là một dịng vơ tận. Để thốt khỏi vịng ln hồi, chấm dứt nỗi khổ
đau. Phật Giáo khuyên chúng sinh phải tuân theo luật Ngũ giới ( 5 điều kiêng
kỵ): không sát sinh, khơng trộm cắp, khơng nói bậy, khơng uống rượu, không tà
dâm .
Phật Giáo từ Ấn Độ du nhập vào nước ta khoảng đầu Công nguyên do nhà
sư người Ấn Độ Mahajivaka truyền đạo theo đường biển . 6 Nhờ du nhập theo
con đường hịa bình , chứa đựng những triết lý khơng mâu thuẫn với tín ngưỡng
bản địa, Phật giáo đã nhanh chóng dung hịa hoặc thay thế tín ngưỡng bản địa.
Qua thời gian du nhập mới mẻ ban đầu, các tơn giáo từ Ấn Độ nhanh chóng hịa
nhập vào văn hóa và tín ngưỡng dân gian. Q trình này đã tiếp biến và làm
mềm hóa theo hướng thích ứng với thực thể địa phương qua hàng loạt các thời
kỳ nhỏ như sơ truyền, xung đột, thay đổi, thích ứng, dung hợp, và thẩm sâu vào
văn hóa nước ta. Chỉ mấy trăm năm sau, Phật giáo trở thành quốc giáo của dân
tộc với nội hàm phong phú và vị thế quan trọng trong xã hội, thu hút đông đảo
phật tử và tăng sĩ thuộc các tầng lớp trong xã hội.
5 (Ban Tơn giáo Chính Phủ, 2021)
6 (Hưng Trung, 2022)
10


Tóm lại, sau thời kỳ đầu du nhập ở thế kỷ thứ nhất và thứ hai, trực tiếp từ
nguồn gốc Ấn Độ, điều đã cho phép sự phát triển Phật giáo rất sớm ở Việt Nam,

vào những thế kỷ sau, Phật giáo Việt Nam đã có sự giao tiếp với Phật giáo
Trung Hoa, tiếp nhận những thâm nhập mới. Trong giai đoạn du nhập, Phật giáo
Việt Nam đã bước đầu tự hình thành nên tư tưởng thiền định đầu tiên. Cùng với
sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó, các thiền phái như Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh
của một dân tộc bị đô hộ, nhà chùa Phật giáo đã tự nhận lấy cho mình trách
nhiệm chăm lo đối với dân chúng. Họ, những sư sãi Phật giáo, đã nhận phần
công việc dạy học, hốt thuốc, trị bệnh, ma chay, tế lễ, định việc xây cất, làm
ăn… cho mọi người, và bao trùm lên tất cả, là sự hun đúc một tinh thần độc lập
dân tộc.7 Chính là từ chỗ tinh thần về một nền độc lập đó vẫn tồn tại, nên cho dù
đã 1.000 năm bị đô hộ mà Đinh Bộ Lĩnh đã có thể hoàn tất việc xây dựng một
triều đại độc lập đầu tiên sau ách thống trị phương Bắc. Trải qua Đinh, Lê, Lý,
Trần, dù các tăng sĩ chỉ can dự trực tiếp vào chính sự ở giai đoạn đầu, nhưng vị
trí, vai trò của Phật giáo đã ngày càng phát triển, đạt đến độ cực thịnh vào thời
Trần, và chỉ suy thoái từ nửa sau thế kỷ 14.
Sự phát triển của Phật giáo trong những thời kỳ lịch sử này, với tinh thần
nhập thế thể hiện ở những mức độ khác nhau, không hề đứng trên tư tưởng
thống trị, quyền lực và quyền lợi, Phật giáo đã thực thi một tinh thần khoan
dung, độ lượng, hòa hợp đối với dân chúng, đối với kẻ địch, và cả đối với những
tư tưởng-giáo lý khác. Những điều này không những làm cho Phật giáo đứng ở
trung tâm của hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội giai đoạn thế kỷ 10 – 14, thậm
chí có những lúc là quyết định vận mệnh quốc gia (trường hợp Lý Công Uẩn lên
ngôi), mà đối với bản thân, nó đã xây dựng cho mình một tư tưởng Phật giáo,
một giáo hội Phật giáo Việt Nam độc lập, mang bản sắc riêng, và lớn hơn thế
nữa, nó còn tạo nên bản sắc văn hóa, bản sắc chính trị trong giai đoạn lịch sử
này, tạo nên bản sắc của dân tộc ta khi đó. Sự đi xuống của Phật giáo sau đó, từ
7 (Lê Tuấn Huy, 2015)
11



nửa sau thế kỷ 14, là một điều hoàn toàn hợp tính quy luật, khi mà một hệ tư
tưởng tôn giáo không còn có sự ủng hộ của những quyền lực thế tục. Nhưng dù
vậy, tinh thần hòa hợp Phật giáo – dân tộc đó mãi mãi là một trong những trang
sử đậm nét nhất của dân tộc ta.
2.1.2. Đạo Hindu (Ấn Độ giáo)
Cũng giống như đạo Phật, đạo Hindu được du nhập và truyền bà vào khu
vực miền Trung và miền nam nước ta từ sớm, khi đó là vương quốc Chăm hùng
mạnh. Ấn Độ giáo có nguồn gốc từ những tín ngưỡng cổ thờ các vật tổ, các sức
mạnh tự nhiên, sau được tập hợp lại, trộn lẫn nhau, hình thành một tơn giáo đa
thần, trong đó, thần Brama được coi là đấng tối cao, sáng tạo ra mn lồi, chúa
tể của chư thần và của con người. Trong giáo lý của đạo Bà la môn, cấu trúc xã
hội chia ra các đẳng cấp ngặt nghèo với vai trị, chức năng và vị trí xã hội khác
nhau. Mặc dù có sự khắc nghiệt nhưng tơn giáo này lại có ý nghĩa tổ chức xã hội
cao, phù hợp với việc xây dựng nhà nước. Hệ thống đa thần của Bà la môn giáo
khá đa dạng, phong phú gắn liền với các hiện tượng tự nhiên như: thần lửa
( Agni ); thần mặt trời ( Surya ); thần mưa, sấm sét ( Indra ); thần gió ( Vayu );
thần biển ( Varuna ); thần mặt trăng ( Soma ), hay các biểu tượng trời - cha
( Dyaus ), đất - mẹ ( Prithivi ), thần rạng đông ( Usa ), thần bình minh và hồng
hơn ( Asuin ). Bên cạnh đó là những vị thần gắn với quan niệm âm dương ( Yoni
- Linga ), quan niệm tình cảm, như thần chết ( Yama ), thần yêu ( Kama ), quan
niệm phá hủy, sáng tạo và bảo tồn ( thần Siva - Brama - Vishnu ), hay những
hóa thân của thần Vishnu thành các loài vật quen thuộc gần gũi như cá, rùa, lợn
rừng, sư tử ... cùng các yếu tố phồn thực sinh sôi nảy nở gắn với nền sản xuất
nông nghiệp, những chất thi ca lãng mạn của thần thoại, sử thi trong Rig Veda,
Mahabharata, Ramayana của văn hoá Ấn Độ đã thổi vào đời sống xã hội
Champa, gặp được sự đồng điệu, giải tỏa được bức xúc khi mới giành được độc
lập nên người Chăm đã chấp nhận mơ hình xã hội, tơn giáo văn hố Ấn Độ trong

12



cấu trúc xã hội của mình8. Đó là tiền để để sau này Ấn Độ giáo giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống xã hội và tinh thần của người Chăm theo suốt tiến trình lịch
sử và họ đã sáng tạo nên một nền văn hóa độc đáo, ảnh hưởng của văn hoá Ấn
Độ nhưng mang đậm bản sắc của dân tộc mình .
Tuy nhiên, tương tự như ở miền bắc, dù thu nhận nguồn gốc ảnh hưởng
của Ấn Độ nhưng đạo Hindu nơi đây vẫn chịu ảnh hưởng từ văn hóa bản địa Sa
Huỳnh và văn minh nơng nghiệp lúa nước của Đông Nam Á. Họ cũng tiếp thu
những một cách có sàng lọc và sáng tạo những tơn giáo khác cho phù hợp với
tín ngưỡng người dân địa phương, từ đó xây dựng thành nền văn hóa Chăm bản
địa đặc sắc. Điều này được thể hiện qua tín ngưỡng phồn thực với tục thờ cấp
linh vật Linga – Yoni. Người Chăm bản địa vốn theo chế độ mẫu hệ nên dù tiếp
nhận cả 3 vị thần của Hindu giáo nhưng họ lại tơn thờ thần Shiva và tính âm
của Siva. Ngoài thờ 3 vị thần của Hindu giáo, người Chăm còn thờ phụng những
vị thần thứ yếu khác trong đó có cả thờ phụng Phật giáo. Người Chăm ngày nay
vẫn theo tín ngưỡng đa thần, vẫn giữ các tập tục của văn hóa truyền thống.
Có thể nói, những ảnh hưởng từ tôn giáo của Ấn Độ đến Việt Nam là rất
lớn và nó vẫn sẽ cịn hiện hữu trong suốt chiều dài phát triển của dân tộc. Ảnh
hưởng của tơn giáo khơng chỉ dừng lại ở tín ngưỡng và những quan niệm về
niềm tin mà còn ảnh hưởng tới những khía cạnh khác của văn hóa.
2.2. Ảnh hưởng về lễ hội:
Người Chăm và người Khmer Nam Bộ ở Việt Nam là hai dân tộc chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nền văn hóa Ấn Độ. Katê - lễ hội chính của
người Chăm được cho là có xuất xứ từ Ấn giáo vì nghi lễ giống ở Ấn Độ, các
bài tán tụng nói về các vị thần Ấn giáo như thần Shiva, thần Vishnu, và người
điều khiển buổi lễ là một giáo sĩ Bàlamôn người Chăm. 9 Katê ngày nay được
coi là một trong những lễ hội quan trọng và lớn nhất của người Chăm Ninh
Thuận, thậm chí người ta còn gọi là “Tết” Katê, Tết của dân tộc Chăm. Trong
8 (Lê Đình Phụng, 2012)
9 (Ngơ Bích Thu, 2021)

13


những ngày diễn ra lễ hội Katê, ngồi khơng khí hội hè bên cạnh các nghi lễ
mang tính phong tục truyền thống thì những ngày này thực sự mang đậm tính
chất tết của một dân tộc bao trùm lên mọi sinh hoạt đời sống của họ. Người ta
chúc tụng nhau những điều tốt đẹp và thiết đãi ăn uống, vui chơi sau khi thực
hành các nghi lễ tưởng nhớ Vua - Thần, tưởng nhớ ông bà tổ tiên và các vị thần
khác, cầu xin mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt, bội thu, cuộc sống bình
yên, ấm no, hạnh phúc. Katê ban đầu chỉ là một lễ tục của người Chăm trong đó
có nhiều lễ thức. Lễ tục này đã phát triển lên thành lễ hội và được coi như Tết
của người Chăm ngày nay là một sự phát triển tự nhiên phù hợp với nguyện
vọng, nhu cầu tình cảm của cộng đồng người Chăm. Trước đây người Chăm
cũng khơng gọi Katê là tết, họ chỉ gọi đó là lễ Katê, là một lễ tục truyền thống
mang đậm tính dân gian bản địa tuy có pha lẫn sắc màu tơn giáo. Tuy nhiên, họ
lại có cụm từ “băng Katê” (ăn Katê). Như vậy, trong lễ Katê về mục đích, ý
nghĩa khơng hồn tồn chỉ có làm lễ cúng Yang. Từ “ăn” ở đây bao hàm ý
nghĩa “ăn lễ”, “ăn tết” trong đó việc cúng lễ chỉ là để thể hiện lòng biết ơn, sự
tưởng nhớ đối với các vị thần và tổ tiên trong dịp đó mà thơi. Ngồi Katê ra, các
lễ cúng khác của người Chăm dù quan trọng cũng không được gọi là “băng”
(ăn) mà gọi là “ngap”, “ngap Yang” (làm, làm lễ, cúng lễ).
Cho đến hiện nay cũng chưa ai giải thích được nguồn gốc của từ “Katê”
và bản thân từ đó có ý nghĩa là gì. Người ta chỉ biết rằng Katê là lễ cúng để
tưởng nhớ thần Cha (Ngap padhi phuel bilan Katê sak ka yang po yang Aman).
Còn Cambun là lễ cúng tưởng nhớ thần Mẹ. Thần Cha thuộc “dương” còn thần
Mẹ thuộc “âm” nên Katê được tổ chức vào thượng tuần trăng (1 tháng 7 lịch
Chăm), và Cambun được tổ chức vào hạ tuần trăng (15 tháng 9 lịch Chăm), đều
được tổ chức ở đền, tháp. Hai lễ này được xem là “một cặp” tương ứng (âm dương) thống nhất trong quan niệm dân gian của người Chăm. Các vị thần này
là các thần xứ sở cao cả theo truyền thuyết. Tuy nhiên, về sau do ảnh hưởng tôn
giáo du nhập từ bên ngồi vào nên trong lễ Katê mặc dù chính là cúng thần Cha


14


Yang Po Yang Aman nhưng ngoài ra cũng mời gọi các thần Yang trong đền
tháp (thần Ấn Độ), thần Yang Po Biruw (thần mới), thần Muk Kei (thần tổ tiên),
thần làng, thần thổ địa và các thần khác.10
Với mục đích và ý nghĩa đó, Katé vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ấn
giáo để trở thành một lễ hội mang đậm dấu ấn bản địa, mà các vị thần linh thờ
cúng phần lớn đều có nguồn gốc bản địa xuất thân từ thần thoại của nhân dân
địa phương, hay các nhân vật lịch sử có thật ảnh hưởng Ấn giáo hay Hồi giáo.11
2.3. Ảnh hưởng về chữ viết và văn học
2.3.1. Chữ viết:
Chữ Sanskrit được truyền bá vào Việt Nam từ sớm nhưng có ảnh hưởng
chủ yếu nhất là ở khu vực của nước Chămpa (khu vực miền trung Việt Nam hiện
nay). Người ta phát hiện tấm bia cổ ghi nhận sự xuất hiện của chữ Săng xcrit ở
khu vực này có tên là bia Võ Cảnh (Khánh Hịa), có niên đại vào thế kỷ III –
IV. Chữ Sanskrit tồn tại và được sử dụng trong triều đình người Chăm cho đến
tận khi vương quốc này sụp đổ (1471). Trên cơ sở tiếp thu chữ Ấn Độ, người
Chăm cũng sáng tạo ra chữ viết của riêng mình. Tấm bia Đơng Yên Châu có
niên đại vào thế kỷ IV nói về vị thánh Naga được viết bằng chữ Chămpa cổ.
2.3.2. Văn học:
Có thể nói, văn học Việt Nam có ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn học Ấn Độ
với đa dạng nhiều thể loại khác nhau. Trước khi tôn giáo ở Ấn Độ có ảnh hưởng
đến nước ta thì chúng ta đã có và phát triển dịng văn học dân gian truyền miệng
xuất phát từ cuộc sống lao động cần cù và những cuộc đấu tranh kiên cường của
dân tộc.
Sau khi có sự ảnh hưởng của tơn giáo thì dịng văn học viết mới hình
thành cũng như sản sinh ra nhiều thể loại văn học khác nhau. Chúng ta có dễ
10 (Nguyễn Thị Thu, 2014)

11 Qasim Từ ( 2008), “Góp phần tìm hiểu lễ hội Kate”, Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 101
– 112.
15


dàng nhận thấy những yếu tố tôn giáo như các nhân vật xuất phát từ đạo Phật,
giáo lý Phật giáo hay các biểu tượng của Phật giáo xuất hiện rất nhiều trong văn
học Việt Nam sau này.
Tiêu biểu là sự xuất hiện của nhân vật Bụt với hình ảnh là một ơng lão râu
tóc bạc phơ nhiều phép lạ, nhân từ, luôn cứu giúp những người phải chịu oan
ức, nhân vật Bụt hiện lên gắn liền với câu nói “Tại sao con khóc?”. Bụt ở đây là
danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) phiên âm trực tiếp từ tiếng Phạn sang tiếng
Việt, sau đó người Trung dịch thành Phật. Phật/Bụt đóng vai trò như một trợ
thủ đắc lực, giúp đỡ các nhân vật chính trải qua khó khăn thử thách, đóng vai
trị là “người cởi nút thắt” cho câu chuyện. Có thể kể ra hàng loạt những câu
chuyện cổ tích của Việt Nam có sự xuất hiện của Bụt như Tấm Cám, Sự tích
cây tre trăm đốt, Thằng Bờm, …. Ngồi ý nghĩa tơn giáo hay tín ngưỡng, Bụt
cịn là hình ảnh mang những đức tính tốt đẹp của người Việt, thể hiện cách đối
nhân xử thế giữa người với người của ông bà ta xưa.
Các quan niệm, giáo lý nhà Phật cũng được đưa vào văn học cổ Việt Nam
theo một lẽ tự nhiên. Phần lớn là những thuyết nhân quả, luân hồi, nghiệp báo
mà dễ thấy nhất là trong câu chuyện Tấm Cám. Nhưng thay vì diễn đạt chúng
theo những triết lý phức tạp, người ta chỉ truyền đạt những đạo lý đơn giản nhất
nói về việc “ở hiền thì gặp lành, ác giả ác báo”. Chỉ khi làm điều thiện thì con
người mới nhận được những kết cục tốt đẹp – đó cũng là lý tưởng của đạo Phật
theo thuyết Tứ Diệu Đế.
Nếu ở phía bắc, người Việt tiếp thu và ứng biến với đạo Phật một các
dung dị, tự nhiên thì ở vương quốc Chămpa, nơi chịu ảnh hưởng tư tưởng của
đạo Hindu cũng nhanh chóng được ghi nhận về mặt văn học. Trước khi bị chi
phối bởi văn hóa Ấn Độ, người Chăm đã xây dựng hình tượng người mẹ Xứ sở

Pơ Inư Nagar. Đó là một người phụ nữ có xuất thân thần kì, với sức mạnh và
quyền năng to lớn và có mối liên hệ gần gũi với các thần linh trên trời. Sau khi
tiếp nhận các yếu tố văn hóa của Ấn Độ, hình tượng nữ thần trở nên đậm tính
triết lý hơn. Bên cạnh đó, cịn có sự xuất hiện của những bộ sử thi của các dân
16


tộc khu vực Tây Nguyên. Dựa trên 2 bộ sử thi nổi bật nhất của Ấn Độ là
Mahabharata và Ramayana, các dân tộc ở khu vực Tây Nguyên còn sáng tạo
nên những bộ sử thi của riêng họ. 12 Có thể kể đến như Sử thi Đăm Săn của
người Ê Đê, Chi Bri – Chi Brít của người Chăm, Cướp chiêng cổ bon Tiăng của
người M'nông, …. Theo GS. Phan Đăng Nhật, sử thi Tây Nguyên có khối lượng
rất đồ sộ, lên tới hàng trăm bộ. Tuy nhiên vấn đề lớn nhất của việc thu thập và
nghiên cứu sử thi là “việc phiên âm, phiên dịch và biên tập văn học” theo GSTS. Nguyễn Xn Kính. Chúng ta có thể sưu tầm nhiều bộ sử thi của nhiều dân
tộc khác nhau nhưng lại khơng có người để có thể phiên âm và phiên dịch hoặc
người có thể phiên dịch được lại đang ở độ tuổi cao. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
cũng như các nhà khoa học cần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu cũng như đưa
ra những biện pháp bảo tồn cho dòng văn học sử thi ở Tây Nguyên.
2.4. Ảnh hưởng về kiến trúc nghệ thuật
Nền nghệ thuật của Việt Nam rất phong phú trong đó nổi bật là lĩnh vực
kiến trúc và điêu khắc. Kiến trúc Việt Nam, nhất là những kiến trúc tơn giáo có
ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ấn Độ. Một trong số đó phải kể đến là khu di tích thánh
địa Mỹ Sơn (xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) của người
Chăm. Khu di tích được xây dựng từ cuối thế kỷ IV bởi vua Bhadravarman (trị
vì từ năm 349 đến năm 361) đến thế kỷ XIII dưới thời vua Jaya Simhavarman
III, là khu đền tháp quan trọng bậc nhất của vương quốc cổ Chămpa.

13

Nói đến kiến trúc đền tháp Chăm Pa, hiện nay đang còn lưu giữ 19 khu

đền tháp với 40 kiến trúc lớn nhỏ trên dải đất miền Trung, Tây Nguyên ngày
nay, hệ thống kiến trúc đền tháp Chăm Pa chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo
Ấn Độ. Đa số các khu đền tháp đều mang hình núi Meru( còn gọi là núi vàng
nằm ở dãy HimaLaya thu nhỏ) theo như quan niệm của người theo Ấn Độ giáo
thì các vị thần ln ngự ở trung tâm thế giới trên núi Meru, nên đền thờ vàng ở
hạ giới phải thể hiện như núi vũ trụ Mêru.,không những thế kiến trúc đền tháp
12 (Gaga and Cooper, 2022)
13 (Tập thể tác giả Quảng Nam, 2001)
17


Chăm còn màng bố cục đậm nét của Ấn Độ giáo. Khi xây các đền tháp người
Chăm luôn hướng các đền tháp trong cụm 1 vào tâm, các trục quay ra bốn
hướng, hướng mặt tiền quay về hướng đông phương mặt trời mọc, nơi nguồn
gốc của sự sống. Hiện nay cụm tháp cổ thể hiện nguyên vẹn được bố cục đó phải
nói đền tháp Chăm PoKlong Rai ở Ninh Thuận, cụm tháp ở Mỹ Sơn. Đa số các
cụm tháp được phân bố theo bố cục,ở trung tâm là một ngọn đền(Kalan), và
xung quanh được bao quanh bởi những ngọn tháp nhỏ hoặc những cơng trình
phụ, chính ngơi đền chính đó chính là tượng trưng cho ngọn núi Meru trung tâm
của vũ trụ của thần linh, đó chính là màu sắc của tôn giáo Ấn Độ. 14 Tháp Chăm
thường không rộng lắm, thông thường bên trong chỉ thờ một bộ Linga tượng
trưng cho thần Shiva chiếm gần hết diện tích của tháp. Đền thờ chăn thường
được xây theo dạng hình vng, một cửa chính dùng để ra vào và ba cửa giả,
nếu tháp có hai cửa chính thì có hai cửa giả, nhiều khi hai bên tiền sảnh cịn có
hai cửa giả, trên các cửa đó đều có trang trí vịm cuốn, vòm cuốn Chăm cùng với
tường tháp là một nghệ thuật đặc sắc của người Chăm. Mình tháp thường có ba
tầng, càng lên cao càng thu hẹp lại, mỗi tầng mơ phỏng lại vịm cuốn cửa chính
và cửa giả, ở góc mỗi tầng đều có hình tháp thu nhỏ và được trang trí bằng rất
nhiều hình bằng sa thạch như chim thần Garuda, bị thần Nadin, tường tháp ln
được để trơn. Trên chóp tháp là một khối đá nhọn đặt ngay giữa đỉnh, có ý kiến

cho rằng khối đá này chính là biểu tượng của Linga nhưng cũng có ý kiến cho
rằng đây là biểu tượng bia đá cho Kalan( lăng mộ). Bên cạnh những tháp hình
vng ,mái nhọn cịn có những tháp mái cong hình thuyền, loại hình này chỉ sử
dụng trong đền thờ chính. Nói chung tháp chăm thường thể hiện theo hình
vng có ba tầng thon dần, hoặc mái cong hình thuyền và tháp với mái một tầng
cong nhọn… Nói tóm lại, trong kiến trúc chăm chịu sự chi phối và ảnh hưởng
mạnh mẽ của tôn giáo Ấn Độ khơng những ảnh hưởng về mặt bên ngồi mà còn
ăn sâu vào kiến trúc bên trong. Người Chăm ln bố cục đền tháp của mình theo
quan niệm của tôn giáo Ấn Độ và không quên dành những vị trí trung tâm hay
14 (Ngơ Văn Doanh 1994, tr.35)
18


nói đúng hơn là vị trí quan trọng nhất cho các vị thần của tơn giáo Ấn Độ nó chỉ
hơi dịch chuyển về tầm ảnh hưởng của các vị thần. Ngồi ra kết hợp với những
vẻ đẹp bên ngồi có sự uốn lượn của mái cong hình thuyền và vịm cuốn đã tạo
nên một vẻ đẹp hoàn mỹ cho phong cách kiến trúc tôn giáo Chăm.
Cùng với kiến trúc, người Chăm cũng được biết đến với kỹ thuật điêu
khắc trên gạch vơ cùng tinh vi. Người ta tìm thấy trên các tháp trong khu di tích
thánh địa Mỹ Sơn có rất nhiều những bức điêu khắc đẹp mà vô cùng tinh xảo.
Tháp Chăm được xếp bằng gạch, ghép với những mảng trang trí bằng sa thạch.
Sau khi xây xong, người ta mới tiến hành chạm khắc lên tháp. Đó có thể là hình
hoa lá, hình người hoặc động vật. Bên cạnh đó cịn có những tương vũ nữ, các
thần linh thờ phụng của dân tộc Chăm, những con vật cũng như những sinh hoạt
của cộng đồng.15 Kiểu trang trí có thể khác tùy theo từng thời kỳ nhưng đều có
điểm chung là rất tinh xảo, mang vẻ đẹp tao nhã. Nhìn chung, người ta có thể
tìm thấy cả một nền văn hóa Chămpa từng rất phát triển trong lịch sử các dân tộc
ở Việt Nam. Chạm trổ trên gạch là một kỹ thuật độc đáo, hiếm có ở các quốc
gia Đơng Nam Á khác. Với vẻ đẹp phóng khống tự nhiên, nghệ thuật trong văn
hóa người Chăm đã dung hịa được những yếu tố của nền nghệ thuật bên ngoài

với yếu tố của văn hóa bản địa. Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể đưa ra
lời giải đáp chính xác về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và cách xây
dựng tháp của người Chăm.
Đến nay, trải qua thời kỳ chiến tranh tàn phá, khu thánh địa Mỹ Sơn đã
khơng cịn giữ được vẻ đẹp vốn có, nhiều đền, tháp để bị phá hủy một phần
hoặc hoàn tồn nhưng dựa trên những gì cịn sót lại, các nhà khoa học vẫn tìm
ra được những nét đẹp, những văn hóa đặc sắc trong nét văn hóa, nghệ thuật của
người Chăm. Vào tháng 12/1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO cơng
nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Kết luận
Thơng qua những nghiên cứu trên có thể thấy:
15 (Đoàn Thị Nga 2018)
19


Thứ nhất, văn hóa Ấn Độ có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa của người Việt
trên nhiều lĩnh vực từ tư tưởng, tôn giáo, văn học cho đến kiến trúc, điêu khắc
nghệ thuật.
Thứ hai, có thể thấy q trình giao lưu văn hóa Việt - Ấn diễn ra hịa bình
khơng chứa bất cứ sự xung đột nào khiến các lớp văn hóa Ấn Độ nhanh chóng
được tiếp nhận và dung hịa cùng văn hóa bản địa. Khiến cho sự biến đổi văn
hóa diễn ra rất tự nhiên.
Thứ ba, dù là người Việt hay người Chăm, chúng ta đều tiếp nhận văn hóa
Ấn Độ dựa trên những tín ngưỡng văn hóa vốn có. Chúng ta hịa nhập vào văn
hóa Ấn, tổng hợp và vận dụng linh hoạt những tư tưởng của tôn giáo Ấn Độ để
xây dựng lên bản sắc riêng của chính mình, khơng hịa trộn với bất kỳ dân tộc
nào trên thế giới. Đây là cơ sở giúp dân tộc Việt Nam tự tin bước ra thế giới để
giao lưu văn hóa mà khơng sợ rằng chúng ta sẽ đánh mất bản sắc dân tộc trong
tương lai.
Trong phạm vi bài viết này, tơi chú trọng phân tích sự hội nhập của văn

hoá Ấn Độ trong các lĩnh vực một cách tổng hợp và có cái nhìn tồn diện hơn
trong khuôn khổ một bài nghiên cứu. Nhằm nhận thức đầy đủ và rõ hơn về sự
ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Việt Nam. Văn hóa Ấn Độ đã chinh phục một
cách hịa bình và quảng bá được những gam màu khác nhau của nó. Q trình
giao lưu tiếp biến văn hóa Việt - Ấn thể hiện tính hịa hợp, dung hợp, hịa bình,
khơng chứa đựng bất cứ sự xung đột nào kể cả sau khi Phù Nam, Champa bị
triệt tiêu, suy vong. Đó là cuộc chinh phục bằng con đường hịa bình thơng qua
những làn sóng văn hóa vỗ liên tục vào đất Việt. Lớp văn hóa Ấn Độ đã trở
thành yếu tố không thể phân biệt với yếu tố truyền thống của văn hóa bản địa.
Sự cộng sinh văn hóa đó là di sản, cơ sở quan trọng để tăng cường kết nối, thúc
đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Ấn Độ hiện nay.

20



×