Chương 4
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư trong quan hệ với khách hàng
2. Thực hiện quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với khách hàng
2.1 Những quy tắc cơ bản trong quan hệ với khách hàng
2.1.1. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng
Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với cơng việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư
Việt Nam. Quy tắc này có thể coi là một thông điệp chuyển tải một trong những trách nhiệm
pháp lý và đạo đức của nghề luật sư là phải bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách
hàng.
Tuy nhiên, về quan niệm lẫn thực chất, “bảo vệ tốt nhất” có nội hàm khác hồn tồn với “bảo vệ
bằng mọi giá”. Hiện nay, nhu cầu của bị can, bị cáo và các đương sự cần đến sự giúp đỡ của Luật
sư trong vụ án hình sự hoặc tư vấn, cung cấp các dịch vụ pháp lý khác là rất lớn, đó là chưa kể
đến việc Tịa án các cấp phải chỉ định Luật sư cho các bị cáo trong trường hợp pháp luật quy
định. Tuy nhiên, nhu cầu này bao hàm rất nhiều yếu tố khác nhau và có những nhu cầu đích thực
bị “che lấp” do xuất phát từ nhận thức khác nhau của khách hàng. Ví dụ, có khách hàng đến nhờ
Luật sư với mong muốn quyển và lợi ích hợp pháp của họ được pháp luật bảo vệ và Luật sư là
người giúp chuyển tải cho họ tâm tư, nguyện vọng trước các Cơ quan tiến hành tố tụng. Có
khách hàng, do nhận thức hạn chế, muốn nhờ Luật sư “lo từ A tới Z”, chấp nhận các biện pháp
trái pháp luật, miễn là đạt yêu cầu của họ.
Ví dụ 2: Trong một buổi làm việc với khách hàng là bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, khi cán bộ dẫn giải bị can (là một nữ doanh nhân khá nổi
tiếng trên thương trường) vào phịng hỏi cung, do tính chất vụ án, mặc dù sau khi kết thúc điều
tra, việc gặp bị can hết sức khó khăn, Luật sư khơng được gặp riêng khách hàng do khơng có
Kiểm sát viên (khơng bố trí lịch đi cùng được). Tuy nhiên, Luật sư đã trình bày và khiếu nại về
vấn đề quyền được gặp và làm việc riêng với bị can sau khi kết thúc điều tra với Lãnh đạo Vụ
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Sau đó, Kiểm sát viên phải sắp xếp công việc, đi
cùng Luật sư vào Trại tạm giam. Khi Cảnh sát tại Trại tạm giam dẫn giải bị can vào phòng hỏi
cung, mặc dù đã rất nhiều lần làm việc, dự cung trong giai đoạn điều tra, nhưng Luật sư nhận
thấy thái độ của bị can rất kỳ lạ. Trước đây, mỗi lần được gặp Luật sư, bị can đều rất mừng rỡ,
thậm chí xúc động khóc rất nhiều. Vậy mà lần gặp này, thấy thái độ của bị can rất lạnh nhạt,
thậm chí khi Luật sư chào cũng không lên tiếng đap lai.
Trước khi buổi làm việc bắt đầu, bị can tỏ ý không hài lòng với Luật sư khi thấy Luật sư đi cùng
với Kiểm sát viên. Là người nhạy cảm, từ thái độ ban đầu khi gặp, cho đến khi cất lên tiếng nói,
Luật sư thấy điều gì đó khác thường trong suy nghĩ của bị can. Khi trao đổi và tìm hiểu, hóa ra bị
can cho rằng Kiểm sát viên này trong buổi làm việc trước đây đã có lời nói xúc phạm bà, cố ý
kết tội không đúng. Nay lại thấy Luật sư đi cùng Kiểm sát viên, bị can cho rằng “Luật sư xuôi
chiều theo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát”, không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của khách
hàng. Luật sư nhận ra nguyên nhân của câu chuyện, Hển giải thích và trình bày q trình xin gặp,
làm việc rất khó khăn, do bị can khơng nhận tội. Bản thân Luật sư phải tìm hết mọi biện pháp để
bằng mọi cách gặp được bị can. Ngay buổi làm việc này, phải từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà
Nội rất vất vả nên Luật sư đã khiếu nại lên lãnh đạo và Kiểm sát viên phải đi cùng vào Trại.
Thấy thái độ như vậy, Luật sư nói cảm thấy buồn vì khách hàng chưa hiểu những khó khăn trong
việc Luật sư tham dự các buổi hỏi cung trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, Luật sư giải thích rõ
ràng là xun suốt q trình điều tra cho đến nay, Luật sư đã có rất nhiều kiến nghị, Luật sư kiên
trì giữ vững quan điểm pháp lý nhằm tận tâm, cố gắng hết sức mình để đấu tranh bảo vệ quyền
lợi hợp pháp cho bị can. Nghe đến đây, bị can ngân ngấn nước mắt, hiểu ra suy nghĩ của mình về
Luật sư là khơng đúng, thật lịng xin lỗi Luật sư. Buổi làm việc sau đó được tiếp tục trên tinh
thần chia sẻ và đồng cảm giữa Luật sư và khách hàng...
Nhìn chung, Luật sư thơng qua việc tiếp xúc ban đầu với khách hàng, cần tìm hiểu tâm tư,
nguyện vọng của họ một cách thấu đáo, bằng cách lắng nghe họ trình bày, xem xét những tài liệu
ban đầu (đơn từ, các tài liệu liên quan vụ việc, các giấy tờ cá nhân...); đồng thời cũng phải chỉ rõ
cho khách hàng biết được giới hạn trách nhiệm của Luật sư trước pháp luật và trước khách hàng,
khơng để khách hàng lơi kéo mình theo những u cầu trái pháp luật và trái đạo đức nghề
nghiệp. Nội dung quy tắc bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng không chỉ được nhận thức
một cách sâu sắc và tồn diện nêu trên, mà cịn phải thể hiện bằng điều khoản cụ thể về nghĩa vụ
của Luật sư trong hợp đồng dịch vụ pháp lý ký với khách hàng. Trong hợp đồng không được
thỏa thuận, cam kết “bao kết quả” với khách hàng để nhằm tạo sự tin tưởng hoặc để được trả thù
lao cao.
2.1.2. Tôn trọng khách hàng
Quy tắc cơ bản này đòi hỏi Luật sư thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý trên cơ sở yêu cầu
hợp pháp của khách hàng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng. Để
nhận diện thế nào là “yêu cầu hợp pháp của khách hàng”, Luật sư cần tìm hiểu về vụ việc và yêu
cầu của khách hàng trên tinh thần chia sẻ, hiểu biết thấu đáo bản chất vụ việc.
Thông thường, với những thông tin, tài liệu, hồ sơ ban đầu, khách hàng chưa nắm hoặc chưa đưa
ra hết những tình tiết, diễn biến sự việc, nên có thể Luật sư chưa đánh giá hết được những cơ sở,
đường dẫn hướng đến kế hoạch, bước đi sau này, thậm chí ngộ nhận yêu cầu của khách hàng là
có căn cứ, việc buộc tội là oan ức. vẫn có trường hợp khách hàng “dẫn dắt” Luật sư theo những
mong muốn của mình, đơi khi Luật sư bị đặt trong tình trạng “chạy theo” khách hàng, phục vụ
cho những u cầu khơng chính đáng hoặc không hợp pháp của khách hàng.
Yêu cầu hợp pháp là những yêu cầu gắn liền với quyền và lợi ích của khách hàng, được xác định
dựa trên những căn cứ được pháp luật quy định hoặc hợp với đạo lý, lẽ công bằng. Tuy nhiên,
trong suy nghĩ của khách hàng, yêu cầu khi tìm đến nhờ Luật sư thường rất rộng, đa dạng, không
chỉ là bảo vệ quyền lợi hợp pháp, mà cịn cả các vấn đề, tình tiết bên lề' vụ án. Có trường hợp,
khi tìm hiểu hoặc được giới thiệu, khách hàng mong muốn Văn phòng Luật sư cử Luật sư. A là
người có kinh nghiệm tư vấn hoặc tranh tụng để bảo vệ cho mình, nhưng Luật sư A bận nhiều
việc nên lại cử Luật sư. B là Luật sư trẻ, mới vào nghề tiếp và gợi ý cho khách hàng nhờ Luật sư.
B. Khách hàng khơng hài lịng về việc đề cử Luật sư như vậy, kiên quyết mong muốn được nhờ
Luật sư. A trực tiếp tư vấn, bào chữa cho mình. Khi gặp trường hợp này, Luật sư. A có thể trao
đổi, thảo luận với khách hàng về tình hình cơng việc thực tế của Văn phòng, Luật sư. A sẽ trực
tiếp nhận trách nhiệm, nhưng sẽ có thêm Luật sư. B để phụ giúp trong quá trình chuẩn bị hồ sơ,
làm thủ tục, tham dự buổi làm việc hoặc hỏi cung nếu Luật sư. A bận công tác đột xuất. Khách
hàng thấy phương án Luật sư. A đưa ra như vậy là phù hợp với tình hình thực tế nên đã đồng ý
để Luật sư. B cùng tham gia tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho mình.
Tơn trọng khách hàng cịn được hiểu là sự tơn trọng của chính Luật sư đối với bản thân cá nhân
con người của khách hàng, hiểu thấu đáo hoàn cảnh xuất thân, nguyên nhân, bối cảnh nảy sinh
vụ việc dẫn đến nhu cầu phải nhờ Luật sư. Trong một chừng mực nhất định, Luật sư với tư cách
là người có kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm đời sống thực tiễn, biết khơi gợi, nắm bắt tâm tư,
tình cảm, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn của khách hàng. Khách hàng tin cậy, gửi gắm lịng tin
vào Luật sư khơng chỉ về kiến thức, uy tín, kinh nghiệm nghề nghiệp, mà cịn thơng qua cách
ứng xử của Luật sư làm tăng thêm sự đồng cảm, thúc đẩy cho công việc cung cấp dịch vụ pháp
lý đi vào thực chất và chiều sâu. Khách hàng là pháp nhân hay cá nhân đều có một quá trình hình
thành, tích lũy và phát triển, khi gặp khó khăn hoặc rủi ro trong cuộc sống, trong kinh doanh mới
phải nhờ Luật sư. Vì thế, Luật sư khơng nên đưa ra đánh giá, nhận xét về khách hàng một cách
vội vàng. Có những trường hợp, khách hàng là bị can, bị cáo trong những vụ án về trật tự xã hội,
có hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội, nhưng khi nhận trách
nhiệm bào chữa, với trái tim và tấm lòng trắc ẩn, Luật sư nhận ra được những góc khuất của thân
phận con người, nguyên nhân, hoàn cảnh, các yếu tố tác động đến việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Do vậy, lời bào chữa của Luật sư tại phiên tịa khơng chỉ đưa ra các lập luận, ý
kiến pháp lý, mà cịn thấm đẫm tình người, mang tính nhân văn.
Ví dụ 3: Vì sao Luật sư lại cảm ơn khách hàng ngay tại phiên tòa?
Tại phiên tòa sơ thẩm vào ngày 11/01/2018 xét xử vụ án xảy ra tại Tập đoàn D, sau khi đại diện
Viện kiểm sát phát biểu lời luận tội, Luật sư đã trình bày ý kiến bào chữa của mình cho Chủ tịch
Hội đồng Thành viên Tập đoàn. Mở đầu bài phát biểu, Luật sư trình bày:
“Là người được Chủ tịch Tập đồn và gia đình nhờ bào chữa cùng với các Luật sư khác, tơi cảm
nhận những ngày tháng diễn ra tiến trình điều tra, những ngày làm việc liên tục trong Trại tạm
giam và phiên tịa dân chủ, cơng khai của Tịa án nhân dân TP. Hà Nội là những trải nghiệm đặc
biệt về nghề nghiệp. Lời cám ơn đối với các Cơ quan tiến hành tố tụng tơi đã trình bày ngay phần
đầu tiên, nhưng tôi phải cảm ơn khách hàng của mình cùng gia đình ơng về sự tin cậy đối với các
Luật sư. Có lẽ từ người dân bình thường, cho đến những người từng giữ trách nhiệm mà Đảng và
Nhà nước phân cơng đều có nhu cầu như nhau về sự trợ giúp pháp lý của Luật sư. Đó chính là
điều kiện cho Nghề Luật sư ở Việt Nam có điều kiện phát triển tốt hơn dựa trên nền tảng sự tin
cậy của các chủ thể xã hội. Nhưng thật đặc biệt, trong cái rét lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông
Hà Nội, ông vẫn cảm động nói với chúng tơi, rằng ơng ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, tin vào sự công tâm xem xét của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Hội đồng xét
xử hôm nay. Điều này khiến cho các Luật sư chúng tơi thật ấm lịng”.
Báo chí đưa tin về vụ án ngay sau đó với tiêu để “Luật sư bào chữa cảm ơn bị cáo..”. Trong q
trình hành nghề, có lẽ, đây là một tình huống chưa từng xảy ra tại các phiên tòa, chưa nói đến đó
là phiên tịa đang thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Như lời phát biểu nêu trên, trong tâm
thế của Luật sư, sự tôn trọng và tin cậy của khách hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chỉ có sự
tơn trọng và tin cậy ấy, các Luật sư mới có sự đồng cảm, chia sẻ và cố gắng hết sức mình để bào
chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích của khách hàng. Đó cũng là một thông điệp để dư luận xã hội
hiểu thêm về nghề nghiệp Luật sư, cũng như khi đứng trước những rủi ro pháp lý, từ người dân
bình thường hay đến người có chức vụ, quyền hạn, nhu cầu cần sự trợ giúp pháp lý của Luật sư
đều như nhau.
Sự tôn trọng đối với khách hàng trong việc nhờ Luật sư cịn bao hàm cả sự tơn trọng đối với sự
lựa chọn của khách hàng. Trên thực tế, sự lựa chọn của khách hàng thường thể hiện trên các mặt,
bao gồm sự lựa chọn Luật sư tư vấn, trợ giúp pháp lý; sự phù hợp về định hướng giải quyết vụ
việc, sự thống nhất về cách thức, phương pháp, tiến độ giải quyết và trao đổi thống nhất về mức
thù lao Luật sư... Cần hiểu nhu cầu và sự lựa chọn của khách hàng rất đa dạng, có thời điểm lại
thay đổi, khiến cho Luật sư làm thế nào đáp ứng được nhu cầu đó rất khó khăn, thậm chí có thể
dẫn đến mâu thuẫn về nhận thức và cách thức phối hợp tiến hành công việc. Nếu thiếu đi sự cẩn
trọng, cân nhắc đến các khía cạnh phát sinh trong quan hệ với khách hàng, Luật sư sẽ tự đánh
mất lòng tin của khách hàng đối với chức phận nghề nghiệp của Luật sư. Đó cũng là nguồn gốc
phát sinh những va chạm, mâu thuẫn nảy sinh, dẫn đến tranh chấp hoặc khiếu nại, tố cáo đối với
Luật sư. Nhận thức và hiểu thấu đáo nguyên tắc chung về tôn trọng khách hàng sẽ tạo ra sự đồng
thuận, nỗ lực của Luật sư trong việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
2.1.3. Giữ bí mật thơng tin
* Quy tắc 7.1 quy định: Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin của khách hàng khi thực hiện
dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc
theo quy định của pháp luật.
Như trên đã nêu, pháp luật về Luật sư đã quy định bắt buộc Luật sư không được tiết lộ thông tin
về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách
hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Quy định này địi hỏi mỗi Luật sư
phải bảo mật thông tin về vụ, việc và thơng tin về khách hàng mà mình biết được trong quá trình
hành nghề, thể hiện một trong những đặc điểm quan trọng của nghề luật sư là tạo sự tin cậy, tín
nhiệm từ phía khách hàng. Đây khơng chỉ là quy định chung, mà còn là sự khác biệt lớn đối với
các chủ thể tư pháp khác. Sự tin cậy, tín nhiệm của khách hàng khi trình bày hết những góc
khuất của vụ việc và cá nhân cho Luật sư chính là sự gửi gắm niềm tin vào vị trí, vai trò và tâm
thế của Luật sư sẽ là người bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho mình.
Có một vấn đề mà Luật sư cần tránh, đó là sử dụng thơng tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình
biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên thực tế, những biểu hiện vi phạm
trong mối quan hệ với khách hàng liên quan đến nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin của khách hàng
theo quy định của pháp luật khơng chỉ trong q trình thời hạn cung cấp dịch vụ pháp lý có hiệu
lực, mà cịn bao hàm cả sau khi kết thúc vụ việc. Điều này rất quan trọng, vì pháp luật quy định
như vậy để ràng buộc một hành lang cho việc ứng xử của Luật sư, trong khi bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của khách hàng, Luật sư không được xâm phạm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của các chủ thể xã hội khác. Đương nhiên, việc tiết lộ thông tin chỉ được phép khi khách
hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật.
* Quy tắc 7.2 quy định: Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân
viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết khơng tiết lộ những bí mật thơng tin mà họ biết
được và Luật sư có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
Quy tắc này đòi hỏi và ràng buộc trước hết trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức hành nghề
và của chính Luật sư được khách hàng lựa chọn trong việc giữ bí mật thơng tin của khách hàng.
Để thực hiện đúng quy tắc này, người đứng đầu Tổ chức hành nghề luật sư cần xây dựng và đưa
vào trong quy chế vận hành nội bộ, thường xuyên quán triệt đến các Luật sư thành viên về nghĩa
vụ giữ bí mật thông tin khách hàng, tổ chức công tác văn thư, lưu trữ, bảo quản bảo đảm tính bí
mật hồ sơ của khách hàng, những người khơng liên quan thì không tiếp cận được hồ sơ vụ, việc
hoặc thông tin cá nhân của khách hàng. Khi đưa quy định này vào quy chế nội bộ, Tổ chức hành
nghề luật sư cần quy định chi tiết về hình thức và chế tài xử lý nếu xảy ra vi phạm.
Đáng chú ý, theo điểm c khoản 7 Điều 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
hành chính tư pháp, quy định mức xử phạt từ 30 đến 40 triệu đồng đối với hành vi “tiết lộ thông
tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách
hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, việc tuân thủ quy định về
mặt đạo đức đối với việc không tiết lộ thơng tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong
q trình hành nghề đã được chuyển hóa thành quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động Ví dụ 4: Đưa thơng tin hồ sơ vụ việc, cá nhân của khách hàng lên
Facebook, mạng xã hội mà không được sự đồng ý của khách hàng có vi phạm Quy tắc 7?
Thực tế trong những năm gần đây, với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã
hội ngày càng phát triển, trong đó có Facebook và một số mạng xã hội khác. Nhiều Luật sư đã sử
dụng mạng xã hội một cách hiệu quả để tuyên truyền pháp luật, nâng tầm ảnh hưởng trong hoạt
động nghề nghiệp Luật sư và thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Tuy nhiên, trong một số
trang Facebook cá nhân có đăng tải một số thông tin liên quan đến hồ sơ vụ án đang trong giai
đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm hoặc chưa kết thúc giai đoạn điều tra mà Luật sư tham
gia tố tụng. Ngồi ra, cịn đưa thơng tin vê tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hoặc có sự
tranh luận, nảy sinh tình trạng mâu thuẫn, khác biệt về quan điểm ngày giữa các Luật sư với
nhau. Vậy hành vi nói trên có bị coi là vi phạm Quy tắc 7 nêu trên?
Để có thể trả lời câu hỏi này, cẩn nhận thức việc các Luật sư sử dụng mạng xã hội để chia sẻ
công việc và đời sống cá nhân là quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin đã được
quy định trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013. Điều 10 Luật Báo chí năm 2016 giải thích cụ thể
cơng dân có các quyền tự do báo chí sau: (1) Sáng tạo tác phẩm báo chí; (2) Cung cấp thơng tin
cho báo chí; (3) Phản hồi thơng tin trên báo chí; (4) Tiếp cận thơng tin báo chí; (5) Liên kết với
cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; (6) In, phát hành báo in. Điều 11 Luật Báo chí năm
2016 cũng quy định cụ thể quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân. Theo đó, cơng dân
có quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình,
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, CQNN, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các
tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời, không ai được lạm dụng các quyển tự do báo chí, tự do ngơn
luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích Nhà nước, tập thể và cơng dân.
Tuy nhiên, trong q trình hành nghề, cẩn đặt vấn để thông tin của khách hàng hay thông tin về
vụ án trong giai đoạn điều tra được coi là thông tin không được tiết lộ. Điểm e và g khoản 2 Điều
73 BLTTHS năm 2015 quy định: (e) Khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực
hiện bào chữa; khơng được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng quyển và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân; (g) Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết
khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin
đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, điểm e khoản 6 Điêu 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
ngày 15/7/2020 của chính phủ quy định mức xử phạt từ 20 đến 30 triệu đồng đối với hành vi ứng
xử, phát ngơn hoặc có hành vi làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của Nghề Luật sư hoặc gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Vì thế, việc một Luật sư đăng tải thông tin liên quan đến thông tin của khách hàng mà khơng
được sự đồng ý của người đó, cũng như đăng tải thơng tin, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án đang giai đoạn điều tra trên trang Facebook cá nhân, mạng xã hội khác... có thể bị coi là vi
phạm
2.1.4. Thù lao luật sư
Quy tắc 8 quy định về thù lao Luật sư: “Luật sư phải giải thích cho khách hàng những quy định
của pháp luật về căn cứ tính thù lao, phương thức thanh tốn thù lao; thơng báo rõ ràng mức thù
lao, chi phí cho khách hàng và mức thù lao, chi phí này phải được ghi trong hợp đồng dịch vụ
pháp lý”. Do một trong những đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của Luật sư là mang tính dịch vụ,
nên khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của Luật sư theo quy định tại Điều
54 Luật luật sư năm 2006 và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trong quá trình thảo luận nhằm thiết lập Hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, một trong
những nghĩa vụ về mặt pháp luật và đạo đức của Luật sư là phải giải thích một cách rõ ràng, xác
thực về căn cứ tính thù lao, phương thức thanh tốn thù lao, thơng báo rõ ràng mức thù lao, chi
phí cho khách hàng. Điều 55 Luật luật sư nêu trên quy định mức thù lao được tính dựa trên các
căn cứ sau đây: Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý; Thời gian và công sức của Luật sư sử
dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý; Kinh nghiệm và uy tín của Luật sư. Luật sư cũng phải thảo
luận và thống nhất với khách hàng về phương thức tính thù lao Luật sư theo giờ làm việc của
Luật sư; theo mức thù lao trọn gói; tính theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị
hợp đồng, giá trị dự án; hoặc tính mức thù lao cố định theo hợp đồng dài hạn.
Ví dụ 5: Làm sao để khách hàng biết được thời gian, cơng sức của Luật sư?
Ngồi căn cứ về kinh nghiệm và uy tín của Luật sư là điều mà khách hàng khơng q khó khăn
để nhận biết, việc xác định thời gian và công sức của Luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp
lý như thế nào là vấn đề cần bàn và thống nhất. Thời gian, công sức của Luật sư sử dụng để thực
hiện dịch vụ pháp lý là một khái niệm mang tính khái quát cao, vì mỗi Luật sư, tổ chức hành
nghề đều xây dựng các tiêu chí trong việc xác định thời gian và công sức làm việc của Luật sư.
Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp Luật sư tư vấn cho khách hàng thống nhất được cách thức tính
thời gian và cơng sức của Luật sư theo phương thức tính thù lao theo giờ làm việc, còn trong
trường hợp tham gia tố tụng hoặc cách tính thù lao theo phương thức khác, việc thơng báo, giải
thích rõ ràng cho khách hàng về cách xác định thời gian và công sức của Luật sư là rất cần thiết.
Chẳng hạn, đối với một vụ án hình sự hoặc dân sự, căn cứ vào từng giai đoạn và thời hạn tố tụng
sơ thẩm, phúc thẩm được pháp luật quy định, Luật sư có thể dự liệu khoảng thời gian có thể cung
cấp dịch vụ pháp lý là 03 tháng, 06 tháng hay 01 năm tùy theo từng vụ án. Cơng sức Luật sư
được hiểu là q trình sao chụp, nghiên cứu hồ sơ, xây dựng kế hoạch thẩm vấn, xây dựng dự
thảo phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi, vào làm việc với bị can, đương sự nhiều lần để
thống nhất chuẩn bị cho phiên tịa... Cơng sức của Luật sư để làm căn cứ tính thù lao cịn được
hiểu là sự tìm tịi, nghiên cứu, nhận diện bản chất vụ án, đưa ra được các phương án, giải pháp
pháp lý ở mức độ tốt nhất cho khách hàng.
Đáng lưu ý, theo Điều 56 Luật luật sư năm 2006, đối với vụ án hình sự mà Luật sư tham gia tố
tụng thì mức thù lao khơng được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định. Theo Điều
18 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật luật sư (Nghị định số 123/2013/NĐ-CP), mức thù lao Luật sư tham
gia tố tụng trong vụ án hình sự do khách hàng và văn phịng Luật sư, công ty luật thỏa thuận
trong hợp đồng dịch vụ pháp lý dựa trên các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 55 của Luật luật
sư và được tính theo giờ hoặc tính trọn gói theo vụ việc, nhưng mức cao nhất cho 01 giờ làm
việc của Luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định. Thời
gian làm việc của Luật sư do Luật sư và khách hàng thỏa thuận. Đồng thời, điều luật cũng
khuyến khích văn phịng Luật sư, cơng ty luật miễn, giảm thù lao Luật sư cho những người
nghèo, đối tượng chính sách. Trong trường hợp để tính thù lao khi tham gia tố tụng trong vụ án
hình sự, Luật sư có thể trao đổi và thống nhất với khách hàng về khoản thù lao tư vấn tách bạch
với khoản thù lao tham gia tố tụng và cách thức xác lập thời giờ làm việc của Luật sư để thuận
tiện cho việc thanh toán của khách hàng.
Riêng thù lao và chi phí cho Luật sư trong trường hợp Luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng, Điều 19 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP nói trên quy định: (1) Đối với
những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Luật sư thì mức thù lao được trả cho 01 ngày
làm việc của Luật sư là 0,4 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định; (2) Thời gian làm việc
của Luật sư được tính bao gồm: (a) Thời gian gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (b) Thời gian
thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; (c) Thời gian nghiên cứu hồ sơ và
chuẩn bị tài liệu; (d) Thời gian tham gia phiên tòa; (đ) Thời gian hợp lý khác để thực hiện việc
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Thời gian làm việc của Luật sư phải
được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án xác nhận; (3)
Ngồi khoản tiền thù lao, trong q trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên tòa và các cơ
quan tiến hành tố tụng, Luật sư được thanh tốn chi phí tàu xe, lưu trú theo quy định hiện hành
về chế độ cơng tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác trong nước.
Điều 19 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP cũng quy định, cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu cầu
Luật sư tham gia tố tụng có trách nhiệm thanh tốn theo đúng quy định về thù lao và các khoản
chi phí nêu tại khoản 1 và khoản 3 Điều này. Nguồn kinh phí chi trả được dự toán trong ngân
sách hàng năm của cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài khoản thù lao và chi phí do cơ quan tiến
hành tố tụng thanh tốn, Luật sư khơng được địi hỏi thêm bất cứ khoản tiền, lợi ích nào khác từ
bị can, bị cáo hoặc thân nhân của họ.
Thực tiễn giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối với Luật sư trong thời gian qua của Liên đoàn luật
sư Việt Nam cho thấy, đa số liên quan đến tranh chấp về thù lao, chi phí giữa khách hàng và Luật
sư. Pháp luật và quy tắc đạo đức của Luật sư yêu cầu việc thỏa thuận mức thù lao, chi phí của
Luật sư phải bảo đảm tính căn cứ, minh bạch và trên tinh thần thỏa thuận, được cập nhật trong hệ
thống sổ sách kế toán và báo cáo quyết toán thuế của Tổ chức hành nghề luật sư. Trong nhiều
trường hợp, Liên đoàn Luật sư hay Đoàn Luật sư địa phương khi nhận được khiếu nại, tố cáo của
khách hàng đối với Luật sư liên quan vấn đề thù lao, nếu xác định khơng có dấu hiệu vi phạm
pháp luật và quy tắc đạo đức đến mức phải xử lý kỷ luật, thường hướng dẫn đương sự nếu không
thỏa thuận được thì đưa ra Tịa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định
của pháp luật về dân sự được quy định tại Điều 59 Luật luật sư năm 2006.