Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trong triết học1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.26 KB, 28 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG TRIẾT HỌC .
****
Triết học hiểu theo nghĩa chung nhất đó là mơn khoa học nghiên
cứu những quy luật chung nhất của thế giới. Triết học ra đời từ rất lâu đời
qua một quá trình lịch sử rất lâu dài. Lịch sử triết học đó là một vấn đề rất
quan trọng của triết học. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học nói
chung thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh
giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Vấn đề này được coi là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng
chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia
thành các giai cấp đối kháng.
Thường thường (trừ một số trường hợp ngoại lệ) Chủ Nghĩa Duy
Vật thể hiện thế giới quan của những lực lượng tiên tiến, tiến bộ xã hội
đại diện cho những tư tưởng tiên tiến của từng thời đại. Cịn Chủ Nghĩa
Duy Tâm (tuy khơng phải bao giờ cũng vậy) nhưng là thế giới quan của
lực lượng suy tàn bảo thủ và phản động của xã hội, đại diện cho những tư
tưởng trì trệ của từng thời đại.
Trong thế giới quan của Chủ Nghĩa Duy Vật khẳng định tính thứ
nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức. Họ cho rằng
vật chất sinh ra trước ý thức và quyết định ý thức, cịn ý thức có sau là sự
phản ánh những mặt, những yếu tố của vật chất; và Chủ Nghĩa Duy Vật
khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới. Ngược lại Chủ
Nghĩa Duy Tâm khẳng định tính thứ nhất có trước của ý thức và tính thứ
hai có sau của vật chất, họ cho rằng ý thức có trước vật chất và ý thức
quyết định vật chất họ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con
người, họ cho rằng sự nhận thức chỉ có được ở thế giới thần linh thượng
đế do thượng đế quyết định. Để thấy rõ dược cuộc đấu tranh giữa hai
trường phái triết học Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm chúng
ta nghiên cứu cuộc đấu tranh đó trong sự hình thành và phát triển của lịch
sử triết học. Hiểu được vấn đề này chúng ta không chỉ dừng lại ở những


hiểu biết thơng thường mà nó cịn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
chúng ta trong việc giải quyết những vấn đề về thế giới quan và những
vấn đề về kinh tế xã hội đang diễn ra xung quanh đời sống của mỗi cá
nhân trong xã hội .
Để tìm hiểu cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm chúng ta có thể đi qua một số giai đoạn và một số nhân vật tiêu
biểu ở những thời kỳ nhất định và cuộc đấu tranh giữa chúng.

Trang1


Chương I: CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ
CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI HY LẠP.
*****
1.1> Hoàn cảnh lịch sử :
Hy Lạp là một nước nằm ven bờ Địa Trung Hải nơi có điều kiện rất
thuận tiện cho việc giao lưu phát triển kinh tế cũng như phát triển nền
nông nghiệp. Thế kỷ XV đến thế kỷ IX trước công nguyên chế độ công xã
nguyên thuỷ đã hình thành và tan rã chế độ chiếm hữu nơ lệ. Đã có những
biến động lớn ở Hy Lạp về kinh tế xã hội người ta biết được do hai tập
thơ nổi tiếng của Hô Mere sáng tác ( nhà thơ mù ). Vào thế kỷ V trước
công nguyên xảy ra cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Ba Tư, kết thúc
bằng chiến thắng thuộc về Hy Lạp mở ra một thời kỳ hưng thịnh về kinh
tế và chính trị. Một quốc gia bao gồm 300 quốc gia nhỏ thành liên bang
Hy Lạp trong đó có 2 bang lớn nhất thời kỳ này đó là Spac và Aten. Tuy
nhiên hai bang này luôn luôn mâu thuẫn với nhau cho nên xảy ra cuộc
chiến tranh kéo dài hàng chục năm, cuối cùng Spac đã chiến thắng nhưng
chính cuộc chiến tranh đó đã làm cho nền kinh tế Hy Lạp suy yếu nặng
nề. Trong khi đó vua Phi-líp của Ma xe đoan đã đem quânchiếm toàn bộ
Hy Lạp. Tuy bị xâm chiếm như vậy nhưng nền văn hoá Hy Lạp vẫn phát

triển mạnh mẽ và chính nền văn hố Hy Lạp đã chinh phục lại những
người đi xâm chiếm với hoàn cảnh lịch sử như vậy đã phản ánh vào tư
tưởng triết học.
1.2> Sự ra đời và phát triển của triết học :
Từ những nét đặc thù về kinh tế xã hội trên đây, triết học Hy Lạp
ra đời và mang những đặc điểm cơ bản sau đây.
+ Thứ nhất sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học
Duy Tâm và Duy Vật Biện Chứng và Siêu Hình Vô Thần và Hữu Thần là
nét nổi bật trong quá trình hình thành và phát triển của triết học. Trong đó
điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai “ đường lối” triết học ; đường lối Duy
Vật của Đe mơ-crít và đường lối Duy Tâm của Platon.
+ Thứ hai các trường phái triết học nói chung đều có xu hướng đi
sâu giải quyết các vấn đề về bản thổ và nhận thức luận triết học là những
vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
+ Thứ ba triết học Hy Lạp cổ đại nói chung (cũng như triết học cổ
đại của nhiều nước khác) cịn ở trình độ trực quan chất phác đặc biệt là
đối với các hệ thống triết học Duy Vật. Tuy vậy nó đã đặt ra hầu hết các
vấn đề triết học căn bản nó chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan
Duy Vật.

Trang2


Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại rất quan trọng nó khơng chỉ đơn
thuần là sự phân biệt giữa hai nền triết học Đông Tây cổ đại mà cịn nói
lên vai trị của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới nó
là nền tảng cho sự phát triển của triết học Tây Âu trên 2000 năm sau.
Có thể nói rằng từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra
những cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa hai trường phái triết học Duy Vật và
Duy Tâm. Điển hình của thời kỳ này ở Hy Lạp đó là cuộc đấu tranh giữa

đường lối Duy Vật của Đe mo-crít và Duy Tâm của Platon.
1.3> Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Duy Tâm:
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
như trên đã nói đó là cuộc đấu tranh giữa trường phái Duy Vật của Đe
mo-crít và Duy Tâm của Platon là tiêu biểu và điển hình hơn cả.
Đe mo-crít (460-370 TCN) là “một trong những nhà Duy Vật lớn
của thời kỳ cổ đại chiếm vị trí nổi bật trong triết học Duy Vật Hy Lạp cổ
đại”(1) ơng đã có q trình tích luỹ kiến thức qua việc đi qua các nước ở
phương đông, Babilon, là người am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Platon là đại
diện cho trường phái Duy tâm, ông là người đầu tiên xây dựng hệ thống
hoàn chỉnh cảu Chủ Nghĩa Duy Tâm khách quan đối lập với thế giới quan
Duy Vật. Ông là người đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại Chủ
Nghĩa Duy Vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của Chủ Nghĩa Duy
Vật thời bấy giờ như Hê ra crít hay Đe mo crít.(1)
- Về vấn đề khởi nguyên của thế giới , Đe mo-crít quan niệm rằng
nguyên tử và khoảng trống là cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật đó là
những hạt vật chất cực nhỏ, khơng nhìn thấy được, khơng màu sắc, khơng
âm thanh, không mùi vị, không thể phân chia được, không khác nhau về
chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự, tư thế. Nguyên tử có rất nhiều
nhưng mỗi ngun tử có một hình thức nhất định: hình cầu, góc cạnh và
mỗi loại sinh vật đều được cấu thành bởi các nguyên tử do chúng kết hợp
với nhau theo một trật tự nhất định.
- Ông quan niệm sinh vật biết đổi là do sự sắp xếp các nguyên tử.
Ông quan niệm về bản ngun thế giới mang tính hình tượng nhưng chưa
thốt khỏi trực quan cảm tính, biểu hiện là ơng coi các ngun tử có hình
dạng nhất định. Còn Platon cho rằng ý niệm là nguồn gốc sinh ra thế giới.
Ý niệm tồn tại ngoài con người, ngoài cảm giác của con người; “ý niệm
tồn tại vĩnh viễn bất biến, bất động” (2). Các sự vật cụ thể có thể cảm thụ
được bằng cảm giác chỉ là bản sao của các ý niệm dựa vào ý niệm hay
đúng hơn là thế giới ý niệm. Platon thừa nhận có hai thế giới tồn tại: thế

giới ý niệm, là thế giới tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động, tuyệt đối chân
thực cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. Cịn thế giới sự vật cảm
tính là thế giới tồn tại không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng

Trang3


của ý niệm, do ý niệm sản sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm loài người cũng
thuộc về thế giới này.
- Về vũ trụ Đe mo-crít cho rằng vũ trụ là vơ tận vĩnh cửu; có vơ số
thế giới phất sinh phát triển và tiêu diệt. Cịn Platon thì ngược lại ông cho
rằng vũ trụ này không tồn tại thực, tất cả chỉ là sự phức hợp của ý niệm do
ý niệm quy định do thượng đế quyết định và không tồn tại.
- Về vấn đề linh hồn: theo Đe mo-crít, ơng đã bác bỏ quan niệm về
sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là
kết quả biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên
xuất hiện ở môi trường nước và dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó
sống dưới nước, sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn.
Cuối cùng là con người ra đời trên quả đất. Ông đã phân biệt rõ ràng sự
vật và sinh vật chúng khác nhau ở chỗ sự vật khơng có linh hồn, cịn sinh
vật có linh hồn: linh hồn được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống
như nguyên tử của lửa vận động với vận tốc cao. Nguyên tử linh hồn sinh
ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Ông coi cái chết là
sự phân tán của các nguyên tử cấu tạo nên thể xác và các nguyên tử cấu
tạo nên linh hồn chứ không phải là linh hồn lìa khỏi thể xác. Tuy quan
niệm của Đe mo-crít về linh hồn cịn mang tính mộc mạc, song nó giữ vai
trị rất quan trọng trong việc chống lại quan điểm duy tâm, tơn giáo về
tính bất tử của linh hồn. Còn Platon cho rằng con người bao gồm linh hồn
và thể xác tồn tại độc lập với nhau . “Linh hồn của con người là một bộ
phận của linh hồn vũ trụ do thượng đế sáng tạo ra do đó nó bất tử và tồn

tại vĩnh hằng”(2). Khi con người chết linh hồn sẽ thoát ra khỏi con người
và bay lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh hồn bay
xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con người hồn chỉnh bao gồm cả
linh hồn và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con người linh
hồn đã lãng quên những điều quan sát được ở thế giới những ý niệm. Vì
thế, nhận thức của con người thực chất là sự hồi tưởng, sự nhớ lại của linh
hồn về những điều mà nó đã lãng quên.
-Về vấn đề nhận thức: “Đe mo-crít là người có cơng lao to lớn
trong lịch sử triết học về vấn đề xây dựng lý luận nhận thức vai trị của
cảm giác vớ tính cách là điểm khởi đầu của nhận thức và vai trò của tư
duy trong việc nhận thức thế giới xung quanh”(2).
Theo Đe mo-crít sở dĩ con người có những cảm giác khác nhau về
màu sắc mùi vị, âm thanh nóng lạnh là do những nguyên tử khối hợp tạo
nên chủ thể nhận thức. Điều đó có nghĩa là đối tượng của nhận thức là vật
chất thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng
nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được. Ông chia ra
nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối
là nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý là nhận thức do

Trang4


sự phân tích sâu sắc sự vật để nắm chắc bẳn chất bên trong của nó. Ơng
quan niệm rằng hai dạng nhận thức đó có liên quan với nhau chặt chẽ.
Trong đó cảm giác là bước đầu của nhận thức. Ơng xây dựng nên thuyết
“hình ảnh”(I-dơ-lơ) mộc mạc. Ơng quan niệm bề ngồi của sự vật tốt ra
những hơi thở tinh tế tạo thành hình ảnh của chúng, những hơi thở tinh tế
đó tác động vào cơ quan cảm giác của con người làm cho mọi người cảm
nhận được sự vật. Song cảm giác là nhận thức “mờ tối” vì nó chưa là cho
con người hiểu được bản chất tinh tế nằm sâu trong sự vật. Do đó con

người phải dựa vào nhận thức sâu sắc hơn.
Qua đây chúng ta có thể thấy theo Đê mo-crít “ lý tính”, phải dựa
vào “những dẫn chứng” do cảm tính đem lại và sau đó cần phải đi sâu vào
phân tích tìm chân lý đang còn nằm sâu dưới đáy bể. Điều này có thể thấy
rằng ơng khơng hề phủ nhận khả năng nhận thức chân lý khách quan của
cin người. Còn Platon cho rằng chỉ có nhận thức lý tính đưa vào khái
niệm mới có thể đạt tới tri thứcchân thực, nhân thức cảm tính khơng bao
giờ đạt tới tri thức chân thực mà chỉ đưa lại dư luận. Thực chất của vấn đề
này là Platon đã đề cao vai trò của nhận thức lý tính và hạ thấp vai trị của
nhận thức cảm tính. Ơng cho rằng nhận thức chẳng qua là sự hồi tưởng,
nhớ lại những ý niệm.
- Về quan điểm chính trị- xã hội :
Đe mo-crít đứng trong lập trường của phái chủ nô dan chủ, kịch liệt
chống lại phái chủ nơ q tộc (2). Ơng ra sức bảo vệ và tuyên truyền cho
chế độ dân chủ của chủ nơ trong đó thể hiện quyền lợi của mình gắn liền
với sự phát triển ngày càng một mạnh mẽ của thương mại và cơng nghiệp.
Ơng đề cao, ca ngợi cổ vữ cho tình thân ái, tính ơn hồ lợi ích chung và
quyền lợi chung của công dân tự do. Theo ông “ cần phải ưa thích cái
nghèo trong một Nhà nước dân chủ hơn so với cái gọi là cuộc sống hạnh
phúc trong chế độ chuyên chế tựa như là tự do tốt hơn nô lệ” (3). Đương
nhiên là do xuất thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ Đe mo-rít chỉ đề cập đến
nền dân chủ của chủ nơ, cịn bản thân nơ lệ thì cũng như các nhà tư tưởng
khác, ông cho rằng phải biết tuân theo người chủ nơ.
Ơng đề cao Nhà nước, chính Nhà nước đóng vai trị duy trì trật tự
và điều hành xã hội. Theo Đe mo-crít cần phải trừng trị nghiêm khắc
những kẻ vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó. Phương
châm tư tưởng của Đe mo-crít là thà sống nghèo khổ cịn hơn là giàu có
nhưng mất tự do dân chủ. Mục tiêu của con người là sống hạnh phúc
nhưng hạnh phúc khơng đơn thuần chỉ là giàu có. Ông khẳng định hạnh
phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự do. Chỉ có người biết

bằng lịng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới được hạnh phúc.
Cịn Platon: ơng đề cao vai trị của chế độ quý tộc đứng trên lập
trường của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chỉ tiến bộ của xã

Trang5


hội. Ông cho rằng linh hồn gồm các bộ phận lý tính, ý chí và cảm tính
trong xã hội có các hạng người tương ứng với các bộ phận của linh hồn.
Lý tính là cơ sở của các đức tính cao cả chỉ có được ở những nhà triết học,
các nhà thơng thái ; ý chí là cơ sở của đức tính can đảm. Nó thể hiện ở
trong những người lính, những chiến binh. Cảm tính là cơ sở của các đức
tính thận trọng. Đức tính này thường có ở những người dân tự do, những
người thợ thủ công. Platon đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông nô lệ khơng
phải là người mà chỉ là động vật biết nói, khơng có đạo đức.
Platon chủ trương duy tri các hạng người trong xã hội, cũng có
nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà nước ra đời là để
đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platon hình thức cộng hồ là “Nhà nước
lý tưởng”. Trong đó quyền thống trị tuyệt đối về tầng lớp chủ nô quý tộc.
Nhà nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính đó là thơng thái, can đảm và
thận trọng. Trong “Nhà nước lý tưởng”, ông chia xã hội ra thành 3 đẳng
cấp dựa vào đặc trưng đạo đức. Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các
nhà thông thái, giữ vai trò lãnh đạo xã hội ; đẳng cấp thứ hai là quân nhân
có trách nhiệm bảo vệ “Nhà nước lý tưởng”; đẳng cấp thứ ba là dân lao
động tự do, thợ thủ công và những người tự do khác làm ra sản phẩm nuôi
sống Nhà nước.
Như vậy, chúng ta thấy ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại
đã xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Duy Tâm mà đại biểu tiêu biểu nhất là Đe mo-crít của phái và
Platon của phái duy tâm. Bên cạnh đó cịn có nhiều nhà triết học khác của

phái duy vật như Anatago. Am pê đốc lơ hay Ê pi crát .v.v...
Có thể thấy rằng ngay từ thời cổ đại nhận thức của con người tuy
còn nhiều hạn chế song giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
đã hình thành nên cuộc đấu tranh gay gắt khơng thể điều hồ được về mọi
mặt trong xã hội .

Trang6


Chương II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ.
******
2.1 Hoàn cảnh lịch sử :
Thời kỳ trung cổ là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và
đánh dấu sự ra đời của chế độ phong kiến. Những cuộc nổi dậy của giai
cấp nô lệ mà đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Xpắc Ta quýt rất lớn đã thu
hút rất nhiều người tham gia đã thay đổi hình thức bóc lột siêu kinh tế
sang phát canh thu địa tơ.
Trong xã hội đã diễn ra sự phân hố giai cấp rất sâu sắc, đã hình
thành hai giai cấp cơ bản củ phương thức sản xuất phong kiến đó là các
địa chủ phong kiến và giai cấp nông nô. Nhưng giai cấp nông nô lại bị cột
chặt vào ruộng đất của giai cấp phong kiến bởi những chính sách thuế
khố nặng nề. Nơng nơ khơng chỉ lệ thuộc vào thân thế và họ khơng có
quyền lợi gì. Lê nin đã từng nói đây là sự lệ thuộc nhục nhã về mặt có
nhân và tối tăm về mặt trí tuệ.
- Về kinh tế xã hội :
Thời kỳ này ở Tây Âu là thời kỳ tồn tại của nền kinh tế tự cung, tự
cấp. Mọi sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của các điền trang,
thái ấp mà khơng nhằm mục đích trao đổi. Mỗi điền trang thái ấp là một
khu biệt lập khép kín. Nền kinh tế thời kỳ này phát triển một cách ì ạch và
chậm chạp.

- Về tinh thần, đây là thời kỳ thống trị của thế giới quan nhà thờ và
tôn giáo. Nhà thờ và tu viện là những tên đại địa chủ chiếm nhiều ruộng
đất, có những tu viện chiếm hàng trăm ngàn hécta ruộng đất. Khơng
những thế nhà thờ cịn nắm trong tay quyền lực chính trị và luật pháp.
Cho nên thời kỳ này cả khoa học và triết học không phát triển được. Các
nhà khoa học và thần học khơng thốt ra khỏi sự giải thích và bình luận
của kinh thánh, nên xét về mặt phát triển thì đây là một bước thụt lùi so
với trước thời cổ đại.
2.2 Sự thống trị của thần quyền phong kiến khơng những kìm hãm sự
phát triển của khoa học kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến triết học.

Trang7


Triết học bị phụ thuộc vào thần học. Chủ Nghĩa Duy Vật gắn liền với
tư duy khoa học thời kỳ này khơng có điều kiện để phát triển.
Chủ nghĩa kinh viện ra đời đã trở thành nét đặc trưng của triết học
Tây Âu thời trung cổ. Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thức chiếm
độc quyền giảng dạy trong nhà trường. Triết học này khi ra đời là đã xác
định nhiệm vụ: “Đầy tớ của thần học và bảo vệ trật tự phong kiến”. Vấn
đề này được các nhà kinh viện quan tâm nhất đó là mối quan hệ giữa “cái
chung” và “cái riêng”, cái nào có trước cái nào có sau. Cuộc đấu tranh
giữa các quan điểm khác nhau kéo dài vào thế kỷ và phân chia thành hai
phái “phái duy danh” và “phái cuy thực”. Đây là cuộc đấu tranh xuyên
suốt toàn bộ lịch sử triết học Tây Âu thời trung cổ.
Phái duy thực cho rằng cái chung cái phổ biến các khái niệm chung
là tồn tại thực là cái có trước. Nó là một thực thể tinh thần không phụ
thuộc vào sự vật cụ thể. Phái duy thực lấy triết học Platon làm cơ sở lý
luận và phái này về sau họ còn dựa vào học thuyết “ hình thức của Đrít
xtốt. Chẳng hạn con người nói chung là sự tồn tại ý niệm về con người.

Từ đó, nó quyết định sự tồn tại của con người đơn nhất.
Phái duy danh quan niệm rằng cái chung, khái niệm cái chung cái
phổ biến không tồn tại thực, khơng độc lập với con người. Nó chỉ là
những tên gọi đơn giản mà con ngưới sáng tạo ra. Không có “con người”
hay “cái nhà” nói chung mà chỉ có con người hay cái nhà tồn tại thực.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái trên là sự thể hiện hai khuynh
hướng đối lập nhau trong lịch sử triết học : Chủ Nghĩa Duy Tâm và Chủ
Nghĩa Duy Vật. Ẩn dấu đằng sau cái vỏ thần học là sự tồn tại khách quan
mà con người có thể cảm nhận được, là biểu hiện của phái duy danh. Trái
lại, nhận thức, tư tưởng, khái niệm có trước sự vật là biểu hiện của phái
duy thực. Như vậy chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các nhà triết học
duy danh gần gũi với Chủ Nghĩa Duy Vật còn các nhà triết học duy thực
là biểu hiện của Chủ Nghĩa Duy Tâm. Như vậy cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy thực với chủ nghĩa duy danh ở triết học Tây Âu thời trung cổ
thực chất là cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy
Tâm. Mặc dù vậy trong thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Tâm thắng thế nhờ sự
ủng hộ của thiên chúa giáo và kinh viện .
Trong thời kỳ trung cổ triết học Tây Âu có rất nhiều những đại
biểu, đại diện cho cả hai phái duy danh và duy thực. Và sau đây là quan
điểm của một số đại biểu tiêu biểu nhất của cả hai phái.
- Tơ Mát Đa Canh: Ơng là đại biểu xuất sắc nhất của phái duy thực
trong thời kỳ triết học trung cổ Tây Âu. Học thuyết của ông được thiên
chúa giáo coi là triết học chính thức của giáo hội thiên chúa.
Tô Mát Đa Canh nghiên cứu nhiều lĩnh vực thần học, triết học,
pháp quyền... với 18 quyển sách trong tuyển tập của ông hợp thành bộ

Trang8


bách khoa tồn thư về hệ thơng tư tưởng thơng trị thời trung cổ hưng

thịnh. Tô Mát Đa Canh nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và thần
học, giữa lý trí và niềm tin. Ơng khẳng định rõ ràng nhưng lại không đối
lập nhau thần học và triết học. Ranh giới đó thể hiện ở chỗ nếu như đối
tượng nghiên cứu của triết học là chân lý của lý trí thì đối tượng nghiên
cứu của thần học là chân lý của niềm tin. Nhưng theo ông cả hai đều có
một đối tượng chung đó là thượng đế. Chúng khơng hề đối lập với nhau
nhưng cuối cùng Tô Mát Đa Canh lại hạ thấp triết học và ông nâng cao
vai trị và vị trí của thần học. Ơng quan niệm rằng triết học chỉ là tôi tớ
phục vụ cho thần học mà thơi. Ơng nói rằng “khơng phải mọi chân lý của
niềm tin tơn giáo đều có thể đạt được bằng sự chứng minh hợp lý”. Chân
lý tôn giáo không phải là điểm yếu mà triết học dễ thâm nhập vào được
bởi vì trí tuệ của con người là có hạn và thấp hơn sự anh minh của thượng
đế.
- Quan điểm duy tâm thần bí cịn được thể hiện trong nghiên cứư
giới tự nhiên. Ơng cịn cho rằng tồn bộ giới tự nhiên cùng trật tự của nó
đều được quyết định bởi sự thông minh của thượng đế đều trải qua sự hợp
lý hoá của thượng đế bởi thượng đế là mục đích tối cao và là quy luật vĩnh
viễn đứng trên mọi cái và quyết định mọi cái.
- Khi giải quyết vấn đề bản chất của cái chung thì Tơ Mát Đa Canh
theo chủ nghĩa duy thực ơn hồ (có sự dung hồ với chủ nghĩa duy danh).
Theo ơng cái chung tồn tại trên ba mặt:
+ Tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của thượng đế.
+ Tồn tại khách quan trong các sự vật riêng lẻ.
+ Tồn tại trong trí tuệ con người bằng con đường trừu tượng hoá
khỏi các sự vật riêng lẻ.
- Dựa trên quan điểm duy tâm thần bí ơng đã chứng minh sự tồn tại
của thượng đế dựa trên năm yếu tố sau đây:
 Thứ nhất thế giới không vận động vĩnh cửu mà cần phải có
lực tác động ban đầu.
 Thứ hai là mọi nguyên nhân không phải là vô tận mà cần

phải có nguyên nhân đầu tiên.
 Thứ ba mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên vì vậy cần tồn
tại cái tất nhiên tuyệt đối.
 Thứ tư mọi sự bộc lộ các các giai đoạn hoàn thiện khác nhau
cần phải có một thực thể hồn tồn tuyệt đối.
 Thứ năm tính hợp lý của thế giới tự nhiên khơng thể giải
thích bằng các nguyên nhân tự nhiên mà cần phải có tồn tại một thực
thể lý trí siêu tự nhiên để điều chỉnh thế giới.

Trang9


Vì vậy Tơ Mát Đa Canh cho rằng thượng đế chính là động lực ban
đầu, là nguyên nhân ban đầu, là cái tất nhiên tuyệt đối, là sự hoàn thiện
tuyệt đối và nguyên nhân hợp lý của thế giới tự nhiên.
Về lý luận nhận thức: ông chịu ảnh hưởng của học thuyết hình dạng
của Arit xtốt. Theo Tơ Mát Đa Canh mọi nhận thức đều diễn ra chủ thể
tiếp thu khách thể nhưng không phải mọi sự nhận thức của khách thể đều
được tiếp nhận mà chỉ tiếp nhận những hình ảnh của khách thể tức là hình
dạng của nó mà thôi bởi bản thân khách thể khi gia nhập vào tinh thần của
cái nhận thức (chủ thể) thì cái được nhận thức bị mất đi tính vật chất của
mình và chỉ tồn tại với tư cách là hình dạng tức là hình ảnh của nhận thức.
Ơng chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính.
Hình dạng lý tính cao hơn cảm tính, cho nên nhờ đó mà nhận thức được
cái chung, cái giống với đối tượng, cái mà trong đó chứa đựng nhiều thực
thể riêng biệt.
Sự tiếp nhận của Tô Mát Đa Canh về học thuyết hình dạng của Arit
xtốt chỉ là sự khơi phục về hình thức, chưa tiếp nhận được bản chất sống
động và tính chân lý trong học thuyết đó.(2)
- Về sự tiếp nhận xã hội Tô Mát Đa Canh ca ngợi chế độ bất bình

đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội. Ông cho rằng cuộc sống trần thế chỉ
là tạm thời, là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai vĩnh viễn ở thế giới
bên kia. Ông là người theo chủ nghĩa quân chủ cho nên ông cho rằng quốc
vương khơng chỉ là người điều khiển mà cịn là người sáng tạo ra thế giới.
Nhưng quốc vương cũng là người của đức chúa Giê-su, thực hiện mọi yêu
cầu của nhà thờ và trừng phạt một cách dã man những người tà đạo bởi vì
nhà thờ là tối cao. Đối lập với quan điểm duy thực của Tô Mát Đa Canh là
quan điểm duy danh luận của Đơn xcốt, đại biểu xuất sắc của phái duy
danh thời kỳ trung cổ.
Đơn xcốt sinh ra ở nước Anh. Ông là một nhà duy danh luận rất nổi
tiếng, ông sống ở thế kỷ XIII
Khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học ông
cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế còn đối tượng của triết học
là tồn tại khách quan. Ơng đề cao vai trị lịng tin tơn giáo hơn so với lý trí
bởi vì lý trí chỉ nhận thức được tồn tại cịn thượng đế là tối cao vơ tận, phi
vật chất, là lịng tin không thể nhận thức được.
Xuất phát từ thế giới quan của những nhà duy danh luận, ông cho
rằng cái chung khơng chỉ là sản phẩm của tư duy mà cịn là cơ sở trong
bản thân sự vật. Cái chung tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất
vừa tồn tại sau sự vật bởi tính cách là khái niệm trừu tượng hoá trong tư
duy tách khỏi bản chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức Đơn xcốt nhấn mạnh yếu tố tinh thần và cho
rằng, nó là hình thức của thân thể con người, gắn bó thân thể con người

Trang10


mới sinh ra. Yếu tố tinh thần tuy có sức mạnh to lớn nhưng phụ thuộc vào
đối tượng nhận thức. Xuất phát từ yếu tố tinh thần và đối tượng nhận thức
mà tri thức con người hình thành. Ơng cũng dề cập đến vai trị của lý trí

và ý chí. Ý chí cao hơn lý trí và thống trị mọi dạng hoạt động của con
người. Ở thượng đế ý chí trở thành tự do.
Khi giải quyết vấn đề cái chung thì Đơn xcốt cho rằng cái chung
khơng phải là sản phẩm của lý trí mà nó nằm ngay trong chính bản thân
các sự vật. Nó vừa tồn tại trong các sự vật như là bản chất của chúng lại
vừa tồn tại sau các sự vật. Với tư cách là những khái niệm được lý trí con
người trừu tượng hố, khái quát hoá khỏi các sự vật riêng lẻ.
Như vậy trong học thuyết của mình Đơn xcốt đứng về phía thần
học và cho rằng triết học không xuất phát từ ý chí của thượng đế nên triết
học khơng thể chứng minh được bản chất của thượng đế, sự sáng tạo ra
thế giới. Mặc dù vẫy những cống hiến của Đơn xcốt đã đưa ơng lên vị trí
là nhà duy danh luận nổi tiếng nhất thời trung cổ.
Tuy vậy cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm (dưới danh nghĩa là phái duy danh và duy thực) vẫn diễn ra khá
mạnh mẽ. Trong thời kỳ này mà đại diện của phái duy thực hay Chủ
Nghĩa Duy Tâm là Ô quýt xtanh, Giăng xi cốt Ơ ri gien nơ, Téc tu
Liêng... những đại diện của phái duy danh hay Chủ Nghĩa Duy Vật là Pie
Abơ la, Rô giê Bê cơn, Ốc cam...
Tóm lại thời kỳ này ở Châu Âu đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai
phái triết học là duy thực và duy danh, phản ánh cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Học
thuyết duy danh gắn liền với Chủ Nghĩa Duy Vật (2) trong việc thừa nhận
vật chất có trước khái niệm có sau. Học thuyết duy thực được xem là gắn
liền với Chủ Nghĩa Duy Tâm (2), coi cái chung tồn tại độc lập có trước và
sinh ra cái riêng tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong
cuộc đấu tranh dai dẳng đó các trào lưu triết học của phái duy danh đã
đem lại một luồng sinh khí mới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua
kinh nghiệm thực nghiệm, là sự giải phóng đề cao vai trị của khoa học tự
nhiên, dù mới ở bước đầu khỏi ách thống trị của thần học và sự tối tăm trì
trệ. Đây là mầm mống chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và

sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên trong thời kỳ phục hưng.
Có thể đánh giá một cách khái quát rằng sự phát triển trải qua hơn
10 thế kỷ của triết học Tây Âu thời trung cổ biểu hiện sự nghèo nàn đối
với triết học cũng như các khoa học khác. Đây có thể được đánh giá là
một bước “lùi” trong lịch sử triết học. Tuy vậy nhờ sự đấu tranh không
khoan nhượng của Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm nên nó
tạo ra tiền đề cho sự phát triển của khoa học thực nghiệm và triết học
phục hưng sau này.

Trang11


Chương III. CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ
CHỦ NGHĨA DUY TÂM THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI.
******
3.1Vài nét về xã hội và lịch sử Tây Âu thời phục hưng cận đại:
Đây là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến bắt đầu hình thành
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế thời kỳ này có bước chuyển
biến mạnh mẽ từ nền kinh tế tự túc, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất cơng
trường thủ cơng. Ở thời kỳ này có rất nhiều phát kiến địa lý cũng như
nhiều sáng chế về kỹ thuật. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, địa lý đã
tạo ra một mơi trường thuận lợi, góp phần thúc đẩy công thương nghiệp
phát triển.
Về xã hội diễn ra sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư
sản xuất hiện và kèm theo đó là sự ra đời của giai cấp vô sản. Các cuộc
cách mạng tư sản liên tiếp diễn ra đó là cuộc cách mạng tư sản Hà Lan,
cuộc cách mạng tư sản Anh (1642-1648), cuộc cách mạng tư sản
Pháp(1789-1794), ở Ý,ở Áo... Các cuộc cách mạng tư sản này nổ ra trên
toàn Châu Âu, nó đã đẩy nhanh q trình sụp đổ của chế độ phong kiến
phương Tây và đánh dấu sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới, xã hội tư

bản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và
phát triển mạnh mẽ. Nó trở thành một xu hướng tất yếu của thời đại lịch
sử và không thể ngăn cản được.
Về khoa học: khoa học tự nhiên thời kỳ này phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là cơ học. Bên cạnh đó cịn có các khoa học khác như: Toán, Vật
lý, Thiên văn... cũng đạt được những thành tựu mới, địi hỏi phải có

Trang12


những khái quát về mặt triết học. Trong khi đó thì Sinh vật học, Hố học
đang cịn trong thời kỳ sơ khai ấu trĩ. Nên bức tranh toàn cảnh về thế giới
ở giai đoạn này là bức tranh cơ học.
3.2 Về triết học :
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
thời lỳ này diễn ra gay gắt. Ở thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Vật là thế giới
quan của giai cấp tư sản, giai cấp tiến bộ đang trong quá trình đấu tranh
để hình thành phương thức sản xuất của mình. Cịn Chủ Nghĩa Duy Tâm
là thế giới quan của tôn giáo, giai cấp quý tộc, phong kiến, giai cấp lạc
hậu và phản động đang ra sức kéo dài cơn hấp hối của mình.
Để thấy rõ được sự đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này chúng ta có thể tìm hiểu thơng qua một số
triết gia tiêu biểu như Bru nô,Galiê, Bê cơn, Hôp pơ, Đê các tơ, Xpi nơ
đa, Lốc cơ, Béc cơ li, Hium....
Brunơ(1548-1600):
Ơng là một đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần: Engel
đánh giá ông là một người khổng lồ về hình thức, tinh thần và tính cách.
Giáo hội coi ơng là tà đạo và ông đã từng bị trục xuất đi nhiều nước Châu
Âu. Năm 1562 ông quay về Ý và ông bị giáo hội kết án 6 năm tù và ngày
17 tháng 02 năm 1600, ơng bị tồ án giáo hội thiêu sống ở “ Quảng

trường hoa” La Mã.
Phạm trù trung tâm của triết học Brunô là cái duy nhất(UNO) được
ông lấy từ phái Platon mới và diễn giải dưới ngơn ngữ tự nhiên thần luận
của mình. UNO chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên. Nó là một
thế giới độc lập không được tạo ra và cũng khơng bị tiêu diệt. Nó tồn tại
vĩnh viễn. Ơng đồng nhất thượng đế với tự nhiên nhưng ông chỉ thừa nhận
thượng đế trên danh nghĩa và điều đó được thể hiện rõ khi ông quan niệm
cái duy nhất là giới tự nhiên thượng đế chứ không phải người. Theo ông
mọi sinh vật chỉ là một dạng biểu hiện của cái duy nhất. Các sự vật biến
đổi không ngừng, tức là có sinh ra tồn tại và mất đi nhưng cái duy nhất lại
là bất biến.
Trong triết học của Brunô có chứa nhiều yếu tố biện chứng của thời
cổ đại. Ông cho rằng UNO là sự thống nhất giữa các mặt đối lập như cực
đại, cực tiểu cái tối thiểu và cái tối đa, tính thống nhất và tính nhiều vẻ,
khả năng và hiện thực, cái yêu đi liền với cái ghét, thuốc chữa bệnh đồng
thời là cái giết người. Cái duy nhất là tất cả đồng thời cũng không là gì cả,
nó tồn tại trong mọi cái đồng thời cũng không ở đâu cả.

Trang13


Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại. Vì ơng đã dựa trên thành tựu của toán học và cơ học của thời
đại mình. Theo ơng trong cái duy nhất vật chất và hình dạng khơng có “
vật chất đầu tiên” hay “hình dạng thuần túy” như quan niệm của Arit xtốt
được ông cho rằng vật chất phải là cái tích cực, cái cổ nhất là thực tế của
mọi vật cịn hình dạng phải là hình dạng của vật chất.
Ơng khẳng định tính thống nhất của thế giới và tính vơ cùng, vơ tận
của nó. Ơng quan niệm rằng mọi sinh vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ
nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong

chúng ta hay ơng cịn khẳng định vũ trụ là một thể bao gồm vô vàn các
hành trình trong đó trái đất hay mặt trời thì cũng chỉ là một trong những
hành tinh ấy vì vậy khơng có hành tinh nào là trung tâm của vũ trụ theo
nghĩa tuyệt đối của nó cả.
Nên theo ơng ngồi trái đất sự sống và con người rất có thể có
những hành tinh khác nữa. Đây là một quan điểm rất tiến bộ và mang tính
khoa học của Brunơ, thể hiện quan điểm của Chủ Nghĩa Duy Vật chống
lại quan điểm của giáo hội, nhà thờ cho rằng trái đất là trung tâm của vũ
trụ và thượng đế sinh ra trái đất.
Brunơ cịn xây dựng học thuyết đơn tử. Theo học thuyết này, tất cả
nói chung cả vũ trụ đều được cấu tạo từ các đơn tử.
Về nhận thức luận: Brunô cho rằng đối tượng của nhận thức là giới
tự nhiên và ơng đánh giá thấp vai trị của nhận thức cảm tính. Theo ơng
hạn chế lớn nhất của cảm tính là không thấy được cái vô cùng hay, vô
cùng không phải là đối tượng của cảm giác, ông đề cao vai trị của trí tuệ
con ngườivà chỉ thừa nhận một chân lý do triết học và khoa học đem lại.
Theo ông con đường nhận thức phải từ cảm giác đến lý trí và cuối cùng là
trí tuệ.
Qua những quan điểm của Brunô ta thấy rằng ông là một đại diện
tiêu biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời kỳ này chống lại Chủ Nghĩa Duy
Tâm. Ơng đã khơng ngừng tun truyền các tư tưởng khoa học và Chủ
Nghĩa Duy Vật triết học và do hoảng sợ toà án giáo hội đã thiêu sống ông.
Đây là bằng chứng cho thấy cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy
Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này.
Phran xi Bê cơn(1561-1627) :
Ông là người dáng lập ra triết học Duy Vật Anh Bê cơn thừa nhận
sự tồn tại khách quan của vật chất. Bê cơn là người phê phán gay gắt chủ
nghĩa kinh viện, coi chủ nghĩa kinh viện chỉ là vơ ích, chỉ là những lập
luận trừu tượng khơng có nội dung, khoa học mới sẽ đem lại sức mạnh
cho con người trong việc chinh phục thế giới tự nhiên. Để đạt được điều


Trang14


đó nhận thức khoa học phải dựa trên các sự kiện và từ đó khái quát thành
những lý luận, phương pháp quy nạp dựa trên các quan sát, phân tích, so
sánh thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để nhận thức chân lý. Song để
có được phương pháp trước hết phải loại bỏ những “nhầm lẫn” cản trở
côn đường nhận thức như “ nhầm lẫn của chúng tôi”, nhầm lẫn của hang
động.
Bê cơn là người đã đưa ra được các quan điểm duy vật. Ông quan
niệm rằng vật chất là tổng hợp của các hạt và cho rằng giới tự nhiên là
tổng hợp của các vật thể đa dạng về chất, cũng đa dạng và là thuộc tính
khơng tách rời của vật chất. Những tư tưởng Duy Vật của Bê cơn có ý
nghĩa chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo. Các Mác viết: “ ở Bê
cơn con người đầu tiên sáng tạo ra Chủ Nghĩa Duy Vật còn che dấu dưới
những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt.
Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người trong vẻ lộng lẫy của cái cảm
tính nên thơ của nó”.(4)
Song Chủ Nghĩa Duy Vật của Bê cơn là siêu hình và khơng triệt để.
Ơng là người quá nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân tích.
Tuy chống lại chủ nghĩa kinh viện nhưng ông lại thừa nhận tồn tại của
thượng đế, thừa nhận lý luận về chân lý hai mặt.
Ơng khơng giám cơng khai xung đột với tơn giáo. Đó chính là sự
thể hiện tính khơng triệt để của Chủ Nghĩa Duy Vật của ông. Mặc dù triết
học Duy Vật Bê cơn cũng giáng một địn rất mạnh vào uy tín của giáo hội
và tôn giáo, thể hiện sự đấu tranh mạnh mẽ của Duy Vật với Duy Tâm.
Tô Mát Hốpxơ(1588-1679):
Hốp xơ là người tiếp tục phát triển tư tưởng Duy Vật trong triết học
của Bê cơn. Ông là nhà triết học nổi tiếng, là đại biểu xuất sắc của Chủ

Nghĩa Duy Vật Anh thế kỷ XVII. Hốp xơ là người đã hệ thống hố Chủ
Nghĩa Duy Vật của Bê cơn và ơng đã tiếp tục cuộc đấu tranh của Bê cơn
cho thế giới quan khoa học và Duy Vật. Hốp xơ đã tiến hành cuộc đấu
tranh rất gay gắt chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và thần học. Ơng cho
rằng khơng có gì khác ngồi sợ hãi và ngu dốt sinh ra tơn giáo. Ơng chia
triết học ra thành “ Triết học tự nhiên” và “Triết học thông thường” ở mức
độ nào đó ơng đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của
khoa học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của Hốp xơ về đối tượng và
nhiệm vụ của triết học lại theo hướng tiến bộ nhằm chống lại Chủ Nghĩa
Duy Tâm. Hốp xơ kiên quyết chống lại chủ nghĩa kinh viện và tơn giáo.
Ơng bác bỏ “chân lý hai mặt” của Bê cơn, ông phê phán học thuyết đấu
tranh của Đề các tơ về “ý niệm bẩm sinh” và phát triển cảm giác luận Duy
Vật trong lý luận nhận thức. Ông cho rằng cảm giác kinh viện là ngu

Trang15


ngốc, của mọi tri thức song ông cũng không coi nhẹ vai trị của lý tính.
Hốp xơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng cơ sở của nhận thức là
tri giác, cảm tính nhưng do hạn chế về mặt lịch sử, Hốp xơ vẫn chưa hiểu
được mối quan hệ biện chứng giữa cảm tính và lý tính.
Khi nêu ra quan điểm về con người và Nhà nước Hốp xơ cho rằng
con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Tính tự
nhiên làm cho con người đều giống nhau về thể xác và tinh thần. Khi con
người còn nằm trong trạng thái tự nhiên thì tính ích kỷ hung ác chiếm vị
trí thống trị. Để khắc phục trạng thái tự nhiên, con người đi tới thoả thuận,
ký kết khế ước xã hội và “trạng thái tự nhiên” chuyển sang “trạng thái xã
hội”. Như vậy, Nhà nước là do nhân dân lập ra chứ khơng hề có nguồn
gốc thần thánh.
Hốp xơ là một nhà triết học vô thần mọi lĩnh vực siêu nhiên đều bị

loại ra khỏi triết học của ông. Nhưng ông không triệt để. Ông quan niệm
con người và Nhà nước đều cần tơn giáo. Con người cần tơn giáo vì con
người cần có lịng tin, mà tơn giáo thì đưa lại niềm tin. Cịn Nhà nước tơn
giáo làm cái “đầy trói buộc xã hội ”.
Tóm lại Hốp xơ là một nhà triết học Duy Vật . Ông đã nêu ra các
quan điểm duy vật đấu tranh chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Qua triết học
của ông chúng ta thấy rõ hơn cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy
Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thế kỷ XVII.
Rơ nê Đê Các tơ(1596-1660)
Nếu như Bê cơn và Hốp xơ chỉ ra phương pháp cơ bản của khoa
học là phương pháp thực nghiệm, kinh nghiệm về thế giới tự nhiên thì
ngược lại Đê các tơ lại đề cao vai trị của lý tính.
Triết học của Đê các tơ là triết học nhị nguyên luận điển hình vì
ơng cho rằng có hai thực thể đầu tiên tồn tại độc lập với nhau. Thực thể
vật chất có quảng tính hình thành nên thế giới vật chất cịn thực thể tinh
thần có tư duy tạo nên thế giới tinh thần. Như vậy học thuyết vật chất và
tinh thần của Đê các tơ cho thấy triết học của ông lẫn lộn giữa Chủ Nghĩa
Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Chủ Nghĩa Duy Vật của ông thể hiện qua học thuyết tự nhiên. Ông
coi vật chất là một thực thể duy nhất là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận
thức. Cũng như Bê cơn, Đê các tơ đề cao vai trò của tri thức trong việc
thống trị giới tự nhiên trong sự hoàn thiện bản thân con người. Để đạt
được điều đó theo ơng cần phải nghi ngờ tất cả mọi thứ. Ơng nói: “Tơi tư
duy vậy tơi tồn tại” và ơng cho đó là ngun lý bất di bất dịch. Ý nghĩa
của nguyên lý trên là ở chỗ nó rất tiến bộ, nó đề cao vai trị của lý trí. Nó
phủ nhận tất cả những gì mà ta mê tín. Nhưng ngun lý ấy lại biểu hiện

Trang16



tính chất duy tâm. Vì ơng đã khơng nhận thấy rằng khơng thể tìm thấy
tiền đề xuất phát của nhận thứ ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản
thân thực tiễn xã hội.
Đê các tơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý
của ông ở một mức độ khá lớn có quan hệ với Chủ Nghĩa Duy Tâm bởi vì
theo ơng lý trí của con người có “những tư tưởng bẩm sinh” độc lập với
kinh nghiệm.
Tuy nhiên qua học thuyết tự nhiên của ông cũng bộc lộ những tư
tưởng duy tâm: ông chưa nhận thấy được sự khác nhau về chất giữa thế
giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng sự
khác biệt giữa con người và động vật là ở chỗ. Con người không chỉ là
một cơ thể vật chất mà còn là một thực thể có lý trí. Nhưng lí trí theo ơng
khơng phụ thuộc vào q trình vật chất.
Nói tóm lại triết học của Đê các tơ là triết học mang tính chất nhị
nguyên luận. Mặc dù mang tính chất nhị nguyên nhưng công lao vĩ đại
của Đê các tơ là đã đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận đối với sự phát triển
của triết học và khoa học sau này. Và một trong những nhà tư tưởng lớn
chịu ảnh hưởng của ơng là Bê kê nít Xpi-nơ-za.
Bê-kê-nít Xpi-nơ-za (1632-1677):
Ơng là một nhà triết học duy vật xuất sắc người Hà Lan và là người
chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi Đê các tơ nhưng ông là người chống lại tư
tưởng nhị nguyên luận của Đê các tơ và ông lại là người phát triển Chủ
Nghĩa Duy Vật và chủ nghĩa duy lý của triết học Đê các tơ .
Xpi-nô-za coi giới tự nhiên như một thực thể sáng tạo duy nhất bao
gồm những đặc tính cơ bản đó là:
- Nó đang tồn tại trọn vẹn và đầy đủ.
- Nó là thực thể tồn tại hoàn toàn độc lập.
- Thực thể này là vô cùng vô tận về không gian và vĩnh hằng
về thời gian.
Ông quan niệm thực thể là nguyên nhân của mọi cái đang tồn tại vì

thực thể đồng nghĩa với bản chất vơ tận nên thuộc tính của nó cũng nhiều
vô tận. Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà cịn ở
tư duy. Nếu như Đê các tơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc
tính của hai thực thể khác nhau.
- Thực thể vật chất và thực thể tinh thần.
Xpi-nô-za quan niệm hai thuộc tính này là cùng một thực thể thống
nhất. Như vậy học thuyết nhị nguyên luận của Đê các tơ đồng thời chống
lại mọi quan điểm cổ truyền của tôn giáo, cho rằng thượng đế là đấng
sáng tạo ra tự nhiên và con người. Tuy nhiên học thuyết thực thể của Xpi-

Trang17


nơ-za cũng chưa thốt khỏi tính siêu hình. Ơng cho rằng thực thể là bất
động, bất biến, vận động không phải là một thuộc tính vốn có của thực thể
mà là một dạng thức của vận động vô tận tách rời thực thể, dùng để
chuyển thực thể bất vận động thành thế giới của dạng thức vận động. Xpinô-za là một nhà triết học Duy Vật vô thần trong hệ thống triết học của
ông, ông đã phê phán, nêu ra vai trị, bản chất và nguồn gốc của tơn giáo.
Tuy vậy, ơng vẫn có những hạn chế vì ơng chưa triệt để tức là vẫn thừa
nhận một mặt nào đó của mê tín.
Nhưng nói chung triết học của Xpi-nơ-za là triết học Duy Vật vô
thần, là đại biểu xuất sắc của Chủ Nghĩa Duy Vật đấu tranh chống lại
những quan điểm sai trái của Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Giơn-lốc-cơ(1632-1704)
Ơng là một đại biểu nổi tiếng của Chủ Nghĩa Duy Vật Anh. Giônlốc-cơ tiếp tục kế thừa và phát triển chủ nghĩa kinh viện của phái Bê-cơn.
Giôn-lốc-cơ đưa duy giác luận vào triết học. Bê-cơn là người đưa ra quan
điểm mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì Lốc-cơ phát triển
thêm, mọi kinh nghiệm đều bắt nguồn từ cảm giác. Lơc-cơ hồn tồn bác
bỏ : “tư tưởng bảm sinh” mà tư tưởng, khái niệm của con người trong quá
trình con người tiếp xúc với giới tự nhiên đó là căn cứ đầu tiên, có ý nghĩa

quyết định đối với tồn bộ sự nhận thức.
Lốc-cơ là một trong những người sáng tạo ra tự nhiên thần luận vào
thời bấy giờ. Tự nhiên thần luận có rất nhiều mặt tiến bộ nhưng đồng thời
nó cũng mang tính chất thoả hiệp. Lốc-cơ bác bỏ những lý thuyết tín
ngưỡng đương thời, phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội. Đồng
thời ông lại thừa nhận mọi thứ tôn giáo phi lý, “tự nhiên” gọi là tự nhiên
thần luận. Theo ông thần linh là một nguyên thể duy lý cao nhất sáng tạo
ra thế giới và những quy luật gắn liền với thế giới nhưng sau đó thần linh
khơng can thiệp vào thế giới mà mình sáng tạo ra.
Từ sự mâu thuẫn và thoả hiệp của Lôc-cơ đã tạo nên điểm xuất sắc
khác cho hai tư tưởng đối lập nhau ra đời. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ
XVIII đã đánh giá Lốc-cơ rất cao đã phát triển duy giác luận của ông làm
cho nó thốt khỏi những lớp duy tâm phủ bên ngồi. Còn các nhà duy tâm
chủ quan Anh mà tiêu biểu là Béc-cơ-li đã lợi dụng những hạn chế trong
duy giác luận của Lốc-cơ và đưa những yếu tố ấy đến chỗ hoàn toàn phi
lý. Duy giác luận của Lốc-cơ chưa thật là Duy Vật song những đóng góp
của duy giác luận của ông khá lớn trong cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa
Duy Vật với Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Gioóc Béc-cơ-li(1685-1753)

Trang18


Ông là người đã lợi dụng sự dao động của Giôn Lốc-cơ để bảo về
Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Ông là
đại biểu nổi bật của Chủ Nghĩa Duy Tâm chủ quan Anh.
Nhằm mục đích bảo vệ Chủ Nghĩa Duy Tâm, tơn giáo, tuyên truyền
cho Chủ Nghĩa Duy Tâm thần bí. Trước tiên Béc-cơ-li đã tấn công vào
Chủ Nghĩa Duy Vật. Theo ông “thực thể vật chất” là cơ sở của Chủ Nghĩa
Duy Vật, nếu lật đổ được tảng đá đó thì tồn bộ Chủ Nghĩa Duy Vật sẽ bị

lật đổ.
Dựa vào quan điểm duy danh Béc-cơ-li đã phê phán khái niệm vật
chất. Ông cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn nhất là tồn tại cịn
tất vả những gì phổ biến trước hết là thực thể vật chất đều bị xem là trừu
tượng, trống rỗng. Sau khi phê phán gay gắt khái niệm “vật chất” của Chủ
Nghĩa Duy Vật ông đã đưa ra học thuyết duy tâm chủ quan để thay thế
học thuyết của Chủ Nghĩa Duy Vật, phủ nhận sự tồn tại khách quan của
thế giới. Ông cho rằng sự vật là tổng hợp của các cảm giác; cảm giác
không phải là sự phản ánh sự vật mà là sự vật thực tế; xố bỏ cảm giác đi
thì sự vật biến mất. Như vậy sự vật không sinh ra cảm giác mà là cảm
giác sinh ra sự vật. Sự vật là tập hợp những cảm giác, những biểu tượng
mà biểu tượng chỉ tồn tại khi được tri giác. Ông cho rằng “tồn tại tức là
được tri giác”.
Không những đưa ra quan điểm duy tâm chủ quan mà ông cịn
chuyển sang lập trường duy tâm khách quan. Ơng ln tìm mọi cách để
bảo vệ Chúa. Ơng cho rằng sự vật tồn tại ngay cả khi không được con
người tri giác nhưng lại được chúa tri giác. Chúa là “tinh thần vũ trụ
thiêng liêng”, là tinh thần vĩnh viễn, phổ biến khắp nơi. Nhận thức bao
trùm tất cả mọi vật.
Từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất Béccơ-li đã phủ nhận chân lý khách quan. Ơng cho rằng: tìm khơng phải là
tìm trong sự phù hợp của ý thức với sự vật bên ngoài mà là sự so sánh các
quan niệm trong ý thức con người, là tính rõ ràng của các quan niệm, là sự
phù hợp với ý Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng với quan điểm duy tâm triệt để
Béc-cơ-li đã ra sức chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Ông được xem như
một điển hình cho cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật chống lại Chủ
Nghĩa Duy Tâm. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với các tư tưởng triết học
sau đó, nhất là đối với Đa-vít Hi-um
Đa-vít Hi-um(1711-1776)


Trang19


Ông là nhà triết học nổi tiếng người Anh là người đại diện cho Chủ
Nghĩa Duy Tâm chủ quan và hồi nghi luận.
Về thế giới quan của mình Hi-um phê phán quan điểm của Chủ
Nghĩa Duy Vật Về vật chất, ông quan niệm rằng: vật chất, thực thể.v.v...
không có cái gì khác ngồi các ý niệm đơn giản liên hệ với nhau bằng sự
tưởng tượng và được gọi bằng cái tên thơng qua đó chúng ta gọi tên tổng
thể đó trong trí nhớ của mình hay trí nhớ của những người khác.(2)
Về nhận thức luận Hi-um cho rằng mọi tri thức đều đi từ kinh
nghiệm cảm tính mà ra. Song ông coi kinh nghiệm không phải là phản
ánh khách quan mà nó sinh ra từ “ấn tượng”, cảm giác của chủ thể. Nhận
thức không phải là nhận thức của thế giới bên ngồi mà là nhận thức q
trình tâm lý xảy ra trong con người. “Ấn tượng”, “cảm giác”đó là nguồn
gốc tuyệt đối của nhận thức. Ông cho rằng “tất cả các ý niệm đều được
mô phỏng lại từ các ấn tượng”.(2)
Theo ơng con người hồn tồn khơng biết gì về thế giới khách quan
mà chỉ biết được cảm giác của mình mà thơi.
Ngay cả nguồn gốc của cảm giác là gì cũng khơng biết được và từ
đó ơng kết luận: “nhận thức đó là q trình nhận thức các hiện tượng tâm
lý diễn ra trong con người chứ không thể nhận thức được thế giới khách
quan”.(2)
Như vậy đứng trên lập trường duy tâm và bất khả tri luận Hi-um đã
chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật bảo về Chủ Nghĩa Duy Tâm và đưa vấn đề
này lên một bước phát triển mới. Có thể nói rằng cuộc đấu tranh giữa Chủ
Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm luôn luôn tiếp diễn. Nó xảy ra ở
mọi thời điểm trong lịch sử và triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
Cuộc đấu tranh này cũng diễn ra hết sức gay go và phức tạp. Các nhà triết
học Duy Vật Pháp mà những đại biểu xuất sắc là La Mettri (1709-1751),

Hô Bách (1729-1789), Đi-đơ-rơ (1713-1784), Hen-ve-ti-t (1715-1771)
đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của triết học Duy Vật vô thần
đấu tranh mạnh mẽ chống lại thần học, tôn giáo, duy tâm. Họ đã đấu tranh
kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu khoa học,
giới tự nhiên. Họ cho rằng không nắm được các quy luật tự nhiên thì con
người khơng thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải
nhận thức và chinh phục tự nhiên.
Tuy có nhiều tiến bộ vượt bậc về tư tưởng song trong việc giải
quyết các vấn đề cơ bản của triết học các nhà triết học Pháp thừa nhận vật
chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau do vật chất sinh ra.
Các nhà Duy Vật Pháp cho rằng vật chất là vĩnh cửu, là vô tận, không thể
biến đổi vật chất thành hư vô, cũng không thể từ hư vô trở thành vật chất
được. Vật chất không do ai sáng tạo ra và cũng không ai tiêu diệt được.
Không gian, thời gian là thuộc tính cơ bản của vật chất . Vận động theo

Trang20



×