Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tl cnxhkh đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa liên hệ thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.74 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
NỘI DUNG .............................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .............3
1.1.Quan niệm chung về dân chủ ..............................................................................3
1.2. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa ..................................................................5
1.3. Đặc trưng dân chủ xã hội chủ nghĩa ...................................................................6
1.4. Tính tất yêu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa .........................10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................12
2.1. Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ....................12
2.2. Thành tựu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ......................14
2.3. Những hạn chế, bất cập cần khắc phục ............................................................18
2.4. Những giải pháp lớn để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ...........................20
KẾT LUẬN ...........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................27


MỞ ĐẦU
Dân chủ là một trong những khuynh hướng lớn trong tư tưởng chính trị
có từ thời cổ đại. Ngày nay dân chủ vẫn đang là tiêu điểm trong đấu tranh tư
tưởng và chinh trong thực tiễn ở khắp nơi trên thế giới, là vấn đề phá ranh
giới giữa tiến bộ và phản động là nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh chính trị
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, là con bài tấn cơng chính trị của
các thế lực đế quốc chống lại các dân tộc và các quốc gia đi trái với lợi ích
của chủ nghĩa đế quốc.
Đảng ta luôn khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Trên
tinh thần đó, từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln quan tâm phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Những


thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp cách mạng trước ta từ khi có Đảng đến nay
đánh dấu sự sáng suốt của Đảng và Bác Hồ trong đường lối cách mạng trong
đó có nội dung cơ bản của việc xây dựng một nền dân chủ mới đã phát huy
được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động đối với vận mệnh của đất nước.
Trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, vấn đề dân chủ đã đạt được những thành tựu to lớn. Cùngvới
những thắng lợi to lớn của sự nghiệp cách mạng, nên dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng có những mầm mống phát triển, người dân từ kiếp nô lệ lầm
than đã trở thành người chủ của xã hội mới là nguồn gốc sức mạnh của xã hội
mới. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm, thành tựu vấn đề dân chủ xã hội chủ
nghĩa và việc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động của nước ta hiện
nay vẫn cồn khơng ít những hạn chế, cản trở sự phát triển sáng tạo của nhân
dân cản trở sự phát triển của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới trong
xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế. Tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ
hình thức, lợi dụng dân chủ,. đang làm cho nhiều vấn đề xã hội nhức nhối,
1


làm chậm bước tiến của dân tộc làm cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóabị thách thức, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trở thành nỗi lo lớn.
Chính vì vậy, xây dựng xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ, nội dung quá trình của cách mạng
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ có thể thực hiện
một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân chúng ta mới phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đấu tranh có hiệu quả
chống mọi hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, khơi dậy sức sáng tạo của mọi
tầng lớp nhấn dân, mọi thành phần kinh tế để xây dựng nước ta đạt được mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" tiến lên chủ
nghĩa xã hội.

Với nhận thức trên em chọn đề tài: “Đặc trưng cơ bản của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Liên hệ thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc môn học.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.Quan niệm chung về dân chủ
Khi diễn đạt hệ thống quyền lực của bộ phận dân cư trong các nước
cộng hòa Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, người ta đã dùng cụm từ
Demoskratos để chỉ hệ thống đó. Demokratos gồm hai từ ghép lại: Demos là
dân chúng, kratos là quyền lực. Như vậy, Demos Kratos có nghĩa là “quyền
lực thuộc về nhân dân” hay dân quyền và hiện nay chúng ta quen gọi là dân
chủ. Vậy, dân chủ là dân quyền, tức là quyền lực của cộng đồng người được
nhà nước công nhận là dân (nhân dân) - quyền lực thuộc về nhân dân (trong
các nước cộng hịa đó, nơ lệ khơng được cơng nhận là dân, khơng có quyền
lực nào mà chỉ là “cơng cụ biết nói” của chủ nơ). Thuật ngữ Demoskratos
(dân quyền, dân chủ) vẫn được loài người (các giai cấp, các cộng đồng) tiếp
tục sử dụng cho đến ngày nay nhưng với những quan điểm khác nhau.
Dân chủ là khái niệm được sử dụng để chỉ hình thức tổ chức thiết chế
chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc của bình đẳng và tự do. Với tính cách là
hình thức tổ chức thiết chế chính trị của nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với
sự xuất hiện nhà nước. So với các hình thức khác của thiết chế nhà nước,
trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi cơng dân,
tính tối cao của pháp luật nhà nước được thừa nhận; các cơ quan cơ bản của
nhà nước được lập ra thông qua bầu cử. Dân chủ được thực hiện thơng qua
hai hình thức cơ bản: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Quan niệm về dân chủ thực sự khoa học lần đầu tiên được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lê-nin nêu ra, làm sáng tỏ bản chất giai cấp của dân
chủ. Theo đó, các thiết chế dân chủ, quyền cơng dân của nền dân chủ tư sản
được thừa nhận là sự thể hiện, phản ánh lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp
3


tư sản, quyền lực chính trị cơ bản nằm trong tay giai cấp tư sản. Cũng cần
hiểu rằng một số nguyên tắc dân chủ, quyền dân chủ, thiết chế dân chủ có tính
chất tiến bộ... của dân chủ tư sản là kết quả của cuộc đấu tranh của các giai
cấp và tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội. Nhưng về cơ bản, một số
nguyên tắc dân chủ, quyền dân chủ, thiết chế dân chủ có tính chất tiến bộ..
được thừa nhận ấy hồn tồn khơng thể vượt q cái giới hạn có thể, cần duy
trì, bảo vệ những lợi ích chính trị và quyền lực chính trị cơ bản của giai cấp tư
sản.
Dưới góc độ tổ chức chính trị - xã hội, dân chủ là một hình thức tổ
chức nhà nước với hệ thống chính trị tương ứng mà đặc trưng cơ bản là thừa
nhận quyền lực chính trị của nhân dân, quyền tự do bình đẳng của công dân,
thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số nhằm phục vụ cho lợi ích của
giai cấp thống trị - giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội.
Trong mọi xã hội có giai cấp, trên thực tế, vai trị chủ thể quyền lực
chính trị thuộc về giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Trong
chế độ chiếm hữu nô lệ, nô lệ không được thừa nhận là một bộ phận nhân
dân, chủ nơ có tồn quyền quyết định số phận của họ. Trong chế độ phong
kiến địa chủ, quyền lực xã hội được tập trung cao độ vào một ông vua (quân
chủ) và được vua ban phát cho các đẳng cấp với những quyền lực rất khác
nhau (quân quyền, quan quyền và quyền của thần dân là rất ít ỏi). Trong chủ
nghĩa tư bản, mọi công dân đều được thừa nhận là có quyền ngang nhau
nhưng thực chất, quyền lực chính trị lại thuộc giai cấp tư sản - giai cấp nắm tư
liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, quyền lực của nhân dân lao động luôn bị

cắt xén, bị lừa gạt và khơng có cơ sở kinh tế để thực hiện một cách triệt để
trong thực tế. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, khi tư liệu sản xuất chủ yếu đã
thuộc về xã hội thì quyền lực của nhân dân lao động mới được thực hiện trên
thực tế ngày càng đầy đủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

4


Lịch sử phát triển dân chủ trong xã hội nhân loại chứng minh, mỗi một
quốc gia có quyền lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết mô
phỏng chế độ dân chủ của quốc gia khác. Chế độ dân chủ của một quốc gia
phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị, kinh tế... của từng
nước, đồng thời cần khơng ngừng hồn thiện và phát triển. Một nền dân chủ
ưu việt và đích thực chỉ khi nó do chính nhân dân lựa chọn và quyền làm chủ
của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo
vệ. Thực tiễn chứng minh, chế độ chính trị phương Tây cũng đầy rẫy những
bất cơng và tình trạng vi phạm dân chủ, khơng “hoàn hảo”, khác với nhiều
người vẫn ra sức tán dương, ca tụng. Trái lại, một số quốc gia đã phải trả giá
đắt cho việc bê ngun xi mơ hình dân chủ phương Tây, dẫn tới những bất ổn,
thậm chí rơi vào vịng xốy của khủng hoảng và nội chiến kéo dài.
1.2. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vơ sản) là hình thức tổ chức nhà
nước của giai cấp công nhân với hệ thống chính trị tương ứng mà đặc trưng
cơ bản là thừa nhận quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, của quảng
đại quần chúng nhân dân lao động. Trong tương quan với các hình thức tổ
chức nhà nước đã từng xuất hiện, đang tồn tại của xã hội loài người, dân chủ
xã hội chủ nghĩa được xác lập nhằm thực hiện quyền tự do bình đẳng của mọi
cơng dân chứ không phải là của thiểu số giai cấp thống trị trong xã hội, thực
hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số trên thực tế, ngày càng đầy đủ nhằm
đáp ứng cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tiến tới là

của toàn xã hội, tương ứng và phù hợp với một nền sản xuất phát triển ngày
càng hiện đại, tiên tiến, dựa trên nền tảng của một chế độ sở hữu xã hội ngày
càng hoàn toàn và đầy đủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tập hợp (hệ thống) các thiết chế
nhà nước, xã hội được xác lập, vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm đảm
bảo thực hiện trên thực tế, ngày càng đầy đủ các quyền lực chính trị của giai
5


cấp công nhân, của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác và của toàn
xã hội. Cũng như mọi nền dân chủ khác trong lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trải qua một quá trình phát triển lâu dài với các giai đoạn từ thấp lên
cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện. Sự khác biệt căn bản trong
tiến trình phát triển từ thấp lên cao ấy giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với
nền dân chủ tư sản là ở chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển, từng
bước hoàn thiện tương ứng với các giai đoạn phân kỳ trong quá trình phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, từng bước trở thành
dân chủ tự tiêu vong.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập, từng bước phát triển với tính cách là một
hình thức nhà nước, một chế độ chính trị (thể chế chính trị) mà trong đó các
phương tiện, công cụ cùng với một hệ thống các tổ chức thiết chế chính trị xã hội của nền dân chủ được xác lập nhằm đảm bảo quyền lực chính trị thuộc
về tất cả các cơng dân trong xã hội (không bao gồm những người mất quyền
công dân) của tất cả các giai cấp mà trước hết là của giai cấp công nhân, các
giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác có lợi ích căn bản thống nhất, phù hợp
với lợi ích của giai cấp cơng nhân; quyền lực đó được thiết lập, được thực
hiện trên thực tế ngày càng đầy đủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
thơng qua một hình thức nhà nước thích hợp nhằm quản lý một cách có hiệu
quả q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội
chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa cộng sản và nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân.
1.3. Đặc trưng dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính lịch sử
Mọi nền dân chủ đều mang tính lịch sử. Tính lịch sử của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa thể hiện trước hết ở chỗ, nền dân chủ ấy chỉ ra đời trong
những điều kiện và tiền đề chính trị xác định, tồn tại biến đổi trong mối quan
6


hệ biện chứng với những cơ sở kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội xác định.
Trong đó, những lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp cơng nhân giữ vai trị chi
phối, quyết định đến bản chất, các hình thức và phương thức thực thi quyền
lực chính trị chủ yếu của nền dân chủ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là
sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh dành chính quyền về tay giai cấp công
nhân, xác lập bộ máy nhà nước của giai cấp cơng nhân do đảng cộng sản lãnh
đạo, hình thành và xác lập hệ thống các thiết chế chính trị chủ yếu, bảo đảm
quyền lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại, từng bước phát triển... trong mối
quan hệ biện chứng với những điều kiện, tiền đề kinh tế - xã hội và chính trị xã hội xác định. Những điều kiện và tiền đề này lại luôn vận động và biến đổi
từng bước cùng với sự vận động, phát triển của cách mạng do tác động chủ
động, tự giác của quần chúng nhân dân do đảng cộng sản lãnh đạo. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tất yếu trải qua các giai đoạn cơ bản: thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, các điều kiện, tiền đề của chủ nghĩa cộng sản được từng bước xác lập và
củng cố, theo đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng từng bước tự phủ định
mình, từng bước tự tiêu vong.
Trong quá trình ra đời, phát triển của mình, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa nếu cần thiết, có thể kế thừa các giá trị của nền dân chủ tư sản về hình
thức, phương thức thực thi, vận hành dân chủ, phát triển và từng bước hoàn
thiện các giá trị ấy theo hướng đảm bảo để quyền lực chính trị ngày càng

thuộc về nhân dân, dân tộc với tính cách là chủ thể của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai
cấp của giai cấp công nhân, đồng thời là nền dân chủ đại chúng, dân chủ
cho đại đa số

7


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đại chúng, cho đại đa số
nhân dân lao động, nhưng trước hết và chủ yếu đó phải là nền dân chủ mang
bản chất giai cấp cơng nhân.
Với tính cách là giai cấp trung tâm của thời đại, có sứ mệnh lịch sử thủ
tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản..., sự nghiệp đấu tranh tự
giải phóng của giai cấp công nhân trở thành hạt nhân, nội dung cốt lõi và là
bộ phận hữu cơ của cuộc đấu tranh chung của nhân loại, của xã hội vì tiến bộ,
cơng bằng xã hội thực sự. Với tính cách là nền dân chủ phủ định biện chứng
và đối lập với nền dân chủ tư sản xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân, giai cấp có lợi
ích chính trị cơ bản đối lập với giai cấp tư sản. Bên cạnh đó, lợi ích chính trị
cơ bản của giai cấp công nhân lại thống nhất, ngày càng thống nhất với lợi ích
chính trị cơ bản của nhân dân lao động, bộ phận dân cư đông đảo nhất và
chiếm đại đa số trong xã hội. Với sự ra đời và phát triển của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phạm trù nhân dân, với tính cách là chủ thể quyền lực dân chủ
được biểu hiện, thể hiện trên thực tế rộng rãi nhất, đại đa số nhất... trong lịch
sử phát triển các chế độ dân chủ của nhân loại.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở phát huy, thể
hiện ngày càng đầy đủ, trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân mà nịng cốt
là của liên minh của giai cấp cơng nhân với quảng đại quần chúng nhân dân
lao động. Cùng với quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khối liên minh này ngày càng đông đảo,
ngày càng trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của đảng của giai cấp công nhân. Đó chính là động lực xã hội cơ bản của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và là chủ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ có tính chất dân tộc,
đồng thời lại mang tính nhân loại

8


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trước hết trong lòng từng
quốc gia dân tộc, trên cơ sở nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với nội dung tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với tính cách là một giá trị văn hóa, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa sẽ kế thừa, tiếp biến đối với các giá trị văn hóa truyền thống
liên quan đế xây dựng, quản lý đất nước của lịch sử dân tộc.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại không chỉ tồn tại trong mỗi quốc gia
dân tộc, mà nền dân chủ ấy còn cần trở thành phổ biến trong mọi quốc gia dân
tộc, trước khi nó cần thiết phát triển trở thành nền dân chủ tự tiêu vong.
Nhưng ngay từ khi ra đời trong từng quốc gia dân tộc, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa đã là nền dân chủ mang tính phổ biến, tính nhân loại.
Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được
xây dựng trên các lập trường, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin,
hệ thống lý luận cách mạng - khoa học, phản ánh một cách đúng đắn, chính
xác vai trị sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp công nhân. Giá trị phổ
biến, thống nhất ấy lại được biểu hiện sinh động thơng qua các hình thức đặc
thù và đa dạng của các kiểu tổ chức nhà nước, kiểu tổ chức nền dân chủ trong
mỗi giai đoạn cụ thể, trong mỗi quốc gia dân tộc cụ thể trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cuối cùng trong lịch
sử - là nền dân chủ tự tiêu vong

Với tính cách là chế độ nhà nước, các nền dân chủ trong lịch sử nhân
loại là sản phẩm của các cuộc cách mạng xã hội, được xác lập trên cơ sở kinh
tế là chế độ sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất. Những nền dân chủ
ấy, về bản chất là dân chủ cho thiểu số giai cấp thống trị, là những giai cấp đại
diện cho các chế độ sở hữu tư nhân, có lợi ích chính trị cơ bản đối lập với lợi
ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, với lợi ích chính trị cơ bản
chính đáng của tồn dân tộc và với toàn xã hội. Sự phát triển khách quan của

9


sản xuất, kinh tế kéo theo những phát triển tương ứng trong chính trị... tất yếu
dẫn đến sự bị diệt vong của những nền dân chủ ấy.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì trái lại, là sản phẩm tất yếu của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan trong phương thức sản xuất, giai cấp
công nhân là sản phẩm, là đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, cách mạng
của một phương thức sản xuất mới ra đời từ trong lịng chủ nghĩa tư bản.
Chính điểm khác biệt căn bản ấy đã quy định sự thống nhất về lợi ích chính trị
cơ bản của giai cấp cơng nhân với lợi ích chính trị của nhân dân lao động, với
dân tộc và tồn xã hội. Đến lượt nó, sự khách biệt căn bản này sẽ quy định,
tạo nên sự khác biệt căn bản chi phối quá trình vận động, biến đổi và phát
triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa so với các nền dân chủ trước đó trong
lịch sử. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân
dân tham gia ngày càng nhiều và càng có hiệu quả vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Đúng như V.I.Lê-nin đã từng khẳng định rằng, dân chủ xã hội
chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản. Kết
quả là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ tự tiêu vong, nền dân chủ
cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người kể từ khi phân chia thành giai cấp và
đối lập giai cấp.

1.4. Tính tất yêu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì động lực của quá
trình phát triển xã hội ,của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ.
Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của
nhân dân , để nhân dân tham gia vào cơng việc quản lí nhà nước, quản lí và
phát triển xã hội “ với việc phát triển dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là việc

10


làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự
rộng rãi vào mọi việc quả lí nhà nước”.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và
thực hành dân chủ , là quá trình vận động biến dân chủ thành hiện thực trong
lĩnh vực đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc
của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng ,phát triển và hoàn
thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. trước hết, nó trở thành điều
kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện
cần thiết, tất yếu để mọi công dân được sống trong bầu khơng khí thực sự dân
chủ.xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện dân chủ hóa
đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng
sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ
cực đoan, vơ chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỹ cương, pháp
luật.
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một q trình tất
yếu của cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến
dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ ngày càng tiến tới

cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được
xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”.

11


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước".
Sự khẳng định trên đây đã chỉ rõ: Nước ta đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa, vì vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng
xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta.
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương
lĩnh chính trị đầu tiên đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách
mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân
mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực
hiện quyền phổ thơng đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa nền dân chủ nhân
dân đã có, phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mà mục tiêu xuyên suốt là:”Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
So với các nước đi theo con đường dân chủ đầy sóng gió, sự phát triển
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Ngun nhân
chính là do Đảng và Nhà nước ta ln tuân thủ những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho

mọi hành động. Điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây:

12


Một là, tư tưởng chiến lược chỉ đạo phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là dựa trên lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nguyên tắc cơ bản.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trị độc tơn lãnh đạo cơng
cuộc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, cơ sở kinh tế cho việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hoàn thiện tiến lên kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước với chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu giữ vai trò chủ đạo.
Bốn là, phương thức thúc đẩy công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là lấy dân làm gốc.
Năm là, trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa là
thường xuyên củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong đảng
là “hạt nhân” của dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy dân chủ trong Đảng thúc
đẩy dân chủ trong tồn xã hội. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
ngày càng cao dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, quán triệt sâu sắc quan
điểm dân biết, dân bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy địi hỏi tất cả
quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi
mới là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội
chủ nghĩa. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội do đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII thơng qua năm 1991 đã
ghi: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
13


nhân dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp
luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội đòi
hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trải qua hơn 30 năm đổi mới và thực hiện cương lĩnh 1991
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng
và được thế giới thừa nhận.
Bản chất chính trị của giai cấp cơng nhân địi hỏi phải dùng phương
pháp dân chủ để quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là nhà nước kiểu mới trong tiến trình lịch sử, dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực
hiện quyền nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đây là bản chất tốt
đẹp của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thành tựu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn
tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới; đồng thời, nhận thức đầy đủ hơn về tính khách quan
thực hiện dân chủ, nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp trong tình hình mới.
Kết quả thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nêu lên bốn bài học lớn, trong đó
có bài học: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh “xóa bỏ nhận thức sai lầm coi công tác
quần chúng chỉ là biện pháp để tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các chủ
trương, chính sách. Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời

sống nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương phải trưng
cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết định”. Nội dung phát huy dân chủ tiếp

14


tục được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ khóa VII đến khóa X đề cập
rõ nét.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) chỉ rõ:
“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán
bộ, cơng chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tơn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện
trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp... Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm
công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân...”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng (tháng 1-2016), vấn đề phát huy dân chủ được khẳng định trong
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương
thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy
dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải
phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Về phát huy dân chủ trong Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định: Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ,
bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết
thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt

đảng.
Đảng ta và Bác Hồ ln xác định thực hành dân chủ trong Đảng có ý
nghĩa quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả
hệ thống chính trị gắn với dân chủ hóa tồn bộ đời sống xã hội, có dân chủ

15


mới có đồng thuận xã hội, có đồng thuận xã hội mới tạo ra sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc. Nội dung phát huy dân chủ được Đảng ta quy định rất rõ,
bảo đảm thật sự tự do tư tưởng trong sinh hoạt đảng, khuyến khích và tơn
trọng sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo, thảo luận, tranh luận dân chủ nhằm phát
huy trí tuệ của tồn Đảng, của từng cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết. Trong đại hội đảng các cấp, trong
các hội nghị của Đảng, mỗi đảng viên đều có quyền thảo luận, bàn bạc, tham
gia các cơng việc của Đảng, phê bình, chất vấn các cán bộ, đảng viên khác,
được trình bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý kiến hoặc đề xuất ý
kiến lên các cơ quan cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Các nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng được thảo luận tập thể và biểu
quyết theo đa số. Việc bầu cử trong Đảng đều được tiến hành dân chủ theo
nguyên tắc bỏ phiếu kín, khơng gị ép, áp đặt... Đặc biệt, trong các nhiệm kỳ
gần đây, việc thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được bổ sung bằng
những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như quy định Bộ Chính trị báo cáo
cơng việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung
ương, ban thường vụ báo cáo cơng việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ
họp cấp ủy, cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình; quy
định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức quần chúng phê bình
và bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ
sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển

biến, tiến bộ. Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc
hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn
chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước. Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao
chất lượng các văn bản pháp luật, Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý
kiến góp ý, như tổ chức hội thảo, tọa đàm, phát phiếu...

16


Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng
hợp, phân tích những kiến nghị xác đáng để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải
quyết theo thẩm quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân
chủ, phát huy được trách nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi
nhận. Định kỳ, Quốc hội, hội đồng nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối
với các chức danh do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu bằng hình thức bỏ
phiếu kín. Phát huy dân chủ của Chính phủ tiếp tục có những đổi mới trong
hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện. Ý
thức, trách nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của
Đảng thành các văn bản pháp luật được đề cao. Đặc biệt, chính quyền các cấp
đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân, đối thoại với công dân và giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đối với công tác tổ chức cán
bộ diện quản lý theo phân cấp của Đảng đều được tập thể ban cán sự đảng
thảo luận dân chủ, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số. Các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp đều tạo điều kiện và phát huy chức năng tuyên
truyền, định hướng dư luận của các phương tiện truyền thơng, như báo viết,
báo nói, báo hình, báo mạng...
Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều

tiến bộ rõ, thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được
xác lập và cụ thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm
chủ của các tầng lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Luật Cơng đồn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý
dân... Những bảo đảm dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của
các chủ thể trong xã hội được luật hóa cụ thể hơn và từng bước thực hiện có
kết quả; nhiều chủ trương, biện pháp đã phát huy vai trị tích cực, chủ động
của nhân dân, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội. Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/PT/UBTVQH, ngày 20-4-2007, “Về thực
17


hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP, ngày 24-12013, “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-CP, ngày 19-62013, “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc” đã góp phần tích cực vào quá trình
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội đang tích cực thực hiện chức năng giám sát,
phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh. Trước các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp khá đầy đủ các kiến nghị của các tổ chức
thành viên, ý kiến của cử tri cả nước để phản ánh đến Quốc hội; hội đồng
nhân dân các cấp đã thường xuyên giám sát chính quyền trong việc tiếp thu và
giải quyết các kiến nghị chính đáng của đoàn viên, hội viên, cử tri.
2.3. Những hạn chế, bất cập cần khắc phục
Bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn
nhiều hạn chế, bất cập. Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ
kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình
thức dân chủ trực tiếp. Hiện nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và

nhân dân nhận thức về dân chủ còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ
trong Đảng. Có người cho rằng dân chủ trong Đảng thì đảng viên được tự do
phát ngôn và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng quan điểm
riêng của mình. Cá biệt, có người còn muốn tổ chức đảng chỉ như “câu lạc
bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề gì, khơng tơn trọng ngun tắc tập
trung dân chủ. Ngược lại, có một bộ phận đảng viên lại hiểu dân chủ trong
Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương tiện để đạt đến sự tập
trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc lập suy nghĩ, tìm

18


tịi khoa học, đồng nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến nghiên cứu,
trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng. Một số người đối lập dân chủ với
tập trung, tách rời việc phát huy sáng kiến, sáng tạo của đảng viên với việc
thực hiện kỷ luật, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán
bộ, đảng viên cần có quy định về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường
xuyên cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được thông tin của đảng viên.
Là Đảng duy nhất cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy
đủ nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay,
độc đốn, gia trưởng, làm giảm sút lịng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng. Đã có nhiều hình thức, phương pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất
là ý kiến của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học khi xây dựng văn bản
pháp luật và một số đề án quan trọng khác, nhưng có một số đề án chưa làm
tốt việc đó dẫn đến chất lượng văn bản pháp luật không cao, chưa được Quốc
hội thông qua, như Đề án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, ba đặc khu
kinh tế... Một số văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý phát huy tốt hơn nữa
quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng kịp thời, như Luật Giám sát

và phản biện xã hội. Một số luật đã được ban hành, như Luật Trưng cầu ý dân
là văn bản pháp luật quan trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình
trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn
kết và đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày 1-7-2016, nhưng đến nay vẫn
chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính
nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa
tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài
nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Việc phát huy dân chủ ngồi xã hội cịn nhiều hạn chế, một bộ phận
nhân dân còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố

19



×