Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tl ttđc tác động của mạng xã hội đến sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay, vấn đề đặt ra và giải pháp (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.03 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Truyền thông là một trong những kĩ năng vô cùng quan trọng của con
người để có thể tồn tại và hoạt động trong bất kì một xã hội nào, đặc biệt là
trong xã hội hiện đại với hơn 7 tỷ người sinh sống như hiện nay. Cùng với sự
tiến bộ của con người, lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là truyền thông đại
chúng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng toàn cầu.
Từ nửa sau thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học, cơng nghệ,
trong đó có công nghệ thông tin đã tạo nên sự ra đời của nhiều phương tiện
truyền thông khác nhau như giấy in, radio, tivi, điện thoại, internet, telex,
fax… Công chúng ngày nay có khả năng trao đổi và tiếp nhận một luồng
thơng tin khổng lồ mỗi ngày. Quá trình trao đổi và tiếp nhận này có tác động
rất lớn tới tri thức, tình cảm và tư tưởng của họ. Trong số những phương tiện
truyền thông mới, không thể không kể tới sự xuất hiện của truyền thông xã
hội (social media). Trong một thời gian ngắn, loại hình truyền thơng này đã
phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng chủ đạo trong làng truyền thơng
tồn cầu. Dưới nền tảng của web 2.0, hàng loạt trang mạng xã hội (social
network) như Facebook, Twitter, Instargram, Myspace…đã ra đời với vơ vàn
tiện ích: Thơng tin nhanh, khối lượng thơng tin phong phú, có nhiều hỗ trợ về
giải trí, sự kết nối giữa những cá nhân, các nhóm, các quốc gia… Sự xuất hiện
của chúng đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng xã hội, định hướng thói
quen, tư duy, phong cách sống của con người trong thời đại mới. Theo thống
kê vào đầu năm 2014 của tạp chí Search Engine Journal, có tới 72% số người
sử dụng Internet hiện nay đang hoạt động trên các mạng xã hội, 71% người
dùng truy cập mạng xã hội từ thiết bị di động. Trong đó, tỷ lệ người sử dụng
mạng xã hội trong độ tuổi 18-29 đạt tới 89%, ở độ tuổi 30-49 là 72%. Một số
mạng chia sẻ hình ảnh đã có lượng người dùng hoạt động hàng tháng khá lớn
như Instagram là 150 triệu người, còn Pinterest đạt 20 triệu. Tại Việt Nam, tới


tới đầu năm 2014, nước ta đã có tới hơn 36 triệu người sử dụng Internet; Tỉ lệ


người đăng nhập mạng xã hội trên tổng dân số là 38%; 20 triệu tài khoản
được thiết lập trên 2 mạng xã hội Facebook (chiếm 22% dân số). Nước ta nằm
trong số những nước phát triển mạng xã hội nhanh nhất trên thế giới. Có thể
thấy, là một trong số những phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng
trong thời đại mới, mạng xã hội không chỉ đơn thuần là nơi để truyền đạt
thơng tin, mà cịn có vai trị quan trọng trong cơng cuộc xây dựng, duy trì và
phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Mạng xã hội vừa là cơng cụ
tích cực, hữu hiệu trong việc truyền bá các sản phẩm văn hóa, vừa là địa chỉ
hội tụ, kiểm nghiệm những giá trị văn hóa cũ, sáng tạo và phổ biến những giá
trị văn hóa mới.
Lịch sử nhân loại đã trải qua ba thời kỳ với nhiều thay đổi lớn lao: Thời
kì thứ nhất là truyền thơng con người (1500), thời kì thứ hai là truyền thơng
thứ cấp và ấn lốt (từ 1500-1900) – thời kì truyền thơng cá nhân chuyển sang
truyền thơng đại chúng, thời kì thứ ba (1900 – nay) – truyền thông điện tử, tin
học mà trong đó q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp. Sự
tiếp nhận và chuyển giao văn hóa này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách
sống, q trình sống của con người. Trong đó, truyền thơng đóng góp một vai
trị quan trọng. Trong khi đó, sự phát triển siêu tốc của mạng xã hội tại Việt
Nam trong một thời gian ngắn đã khiến văn hóa truyền thơng nước ta có
những thay đổi đáng kể và dần trở nên sâu sắc. Trong khi bản sắc văn hóa
Việt đề cao tính cộng đồng thì mạng xã hội lại tuyệt đối hóa sự phát triển của
“cái tơi” cá nhân. Công chúng truyền thông Việt Nam thường e dè với việc
phát ngôn, nêu ý kiến cá nhân nay lại thể hiện mình một cách mạnh mẽ thơng
qua các phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Việc thế giới ngày càng
“phẳng”, ranh giới giữa các nền văn hóa ngày càng mờ nhạt, sự giao lưu giữa
các quốc gia dễ dàng hơn cũng khiến họ thay đổi tư duy, quan niệm, phong
cách sống.

1



Trong thời đại được gọi là “Thế giới phẳng”, không ai có thể phủ nhận
lợi ích từ mạng xã hội. Có rất nhiều tiện ích mà mạng xã hội mang lại cho
người dùng: thông tin nhanh, khối lượng thông tin phong phú được cập nhật
liên tục, có nhiều tiện ích về giải trí…cịn có một khía cạnh khá quan trọng
làm thay đổi mạnh mẽ hình thức giao tiếp giữa những cá nhân, các nhóm, và
các quốc gia với nhau, đó chính là khả năng kết nối. Có thể nói, đây là một
không gian giao tiếp công cộng phi vật thể tạo liên kết dễ dàng, thuận tiện,
nhanh nhất giữa con người với nhau thơng qua nhiều hình thức, liên kết rộng
khắp chứ không bị giới hạn bởi chiều không gian. Vì vậy, lượng thơng tin
chia sẻ là hết sức lớn và vơ cùng phong phú, đa dạng. Chính vì vậy số lượng
người sử dụng mạng xã hội ngày càng đông đảo.
Tại Việt Nam, mạng xã hội chỉ mới du nhập trong vịng mấy năm gần
đây nhưng nó cũng đã khiến nhiều người chú ý và quan tâm, có nhiều nghiên
cứu cũng như những bài báo viết về sức manh của mạng xã hội trong thời đại
truyền thông đa phương tiện. Tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ dừng lại ở
mức độ khái quát và thường tập chung chủ yếu vào những tính năng cũng như
những cách thức truyền thơng thơng tin trên mạng xã hội, mối quan hệ tương
tác giữa mạng xã hội và truyền thơng đại chúng … vì vậy e xin chọn đề tài :
Tác động của mạng xã hội đến sự phát triển của các phương tiện truyền thông
đại chúng hiện nay, vấn đề đặt ra và giải pháp làm tiểu luận để kết thúc môn
học Truyền thơng đại chúng để tìm hiểu rõ hơn về những vấn đề mạng xã hội
gây ảnh hưởng đến truyền thông đại chúng.
2. Mục đích nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác động của mạng xã hội đến
truyền thông đại chúng trong việc thu thập, tiếp nhận, kết nối, chia sẻ và
truyền phát thông tin, mạng xã hội và báo chí truyền thống, để từ đó từ đó,
đưa ra những ý kiến, đề xuất đối với báo chí truyền thống .
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác động (tích cực và tiêu cực)

2


của mạng xã hội đến giới trẻ về nhu cầu, thói quen thu thập, tiếp nhận, kết
nối, trao đổi, chia sẻ và truyền phát thông tin cũng như quan điểm của họ về
mạng xã hội và báo chí truyền thống.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Về phương pháp luận, luận văn sử dụng khung lý thuyết là những lý
luận về truyền thông để làm cơ sở nền tảng vững chắc.

3


CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI, BÁO
CHÍ VÀ CƠNG CHÚNG BÁO CHÍ
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Mạng xã hội, truyền thông đại chúng, báo chí
1.1.1.1 Mạng xã hội
Nếu sử dụng từ khóa “mạng xã hội” và tìm kiếm từ khóa đó trong
Google, sẽ nhận được khoảng 253 triệu kết quả. Điều đó khẳng định rằng cụm
từ mạng xã hội là cụm từ rất quen thuộc trong thế giới của những người sử
dụng Internet tại Việt Nam hiện nay. Nhưng để định nghĩa mạng xã hội là gì,
tính năng và những ưu điểm của mạng xã hội thì hiện nay có rất nhiều quan
điểm khác nhau, bản thân cụm từ “social network” cũng có rất nhiều tranh cãi
trong cách chuyển ngữ chính xác. Từ điển Bách khoa Wikipedia định nghĩa
về mạng xã hội như sau: “Mạng xã hội hay gọi là mạng xã hội ảo (tiếng Anh:
social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet
lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau khơng phân biệt khơng gian và
thời gian”.
Như vậy mạng xã hội có thể ngầm hiểu là một thế giới ảo (xã hội ảo)

với các thành viên là các cư dân mạng. Cách để các cư dân mạng liên kết với
nhau có thể dựa trên các nhóm (group), dựa trên các thông tin cá nhân, dựa
trên sở thích cá nhân hoặc lĩnh vực quan tâm. Khái niệm này gây ra rất nhiều
tranh luận vì khái niệm tập trung vào vấn đề coi mạng xã hội là sự kết nối
những người có chung sở thích, mục tiêu và họ là những kiến tạo nội dung
của mạng xã hội. Quan điểm đó khiến có ý kiến cho rằng nên đổi thành thuật
ngữ là “mạng giao lưu” cho đúng với ý nghĩa và mục đích của social network.
Theo nhà xã hội học Laura Garton, nhà nghiên cứu chiến lược trường đại học
Toronto thì “khi một mạng máy tính kết nối mọi người hoặc các cá nhân tổ
chức lại với nhau thì đó chính là mạng xã hội” .
Theo cách định nghĩa đơn giản này, mạng xã hội là một tập hợp người
hoặc các tổ chức hoặc các thực thể xã hội khác được kết nối với nhau thông
4


qua 17 mạng máy tính. Như vậy trái với cách hiểu của nhiều người mạng xã
hội là mạng máy tính lớn, nhiều thành viên, mạng xã hội đơn giản là hệ thống
của những mối quan hệ con người với con người, trên bình diện đó, bản thân
Facebook, Youtube hay Twitter không phải là mạng xã hội mà chỉ là những
dịch vụ trực tuyến được tạo lập để xây dựng và phản ánh mạng xã hội Một
định nghĩa khác về mạng xã hội cũng nhận được nhiều sự quan tâm và đồng
tình đó là định nghĩa của PGS.TS Vũ Duy Thơng: “Mạng xã hội là dịch vụ
kết nối các thực thể truyền thông trên Internet với nhau thành những cụm
mạng nhỏ hơn theo sự liên kết tự nguyện không phân biệt thời gian, khơng
gian” . Mơ tả dễ hiểu hơn, đó là một bộ phận của Internet được hình thành từ
sự kết hợp tự nguyện những blog, website của các cá nhân hoặc nhóm cá nhân
có cùng sở thích, mục đích. Trong chương 1 Nghị định 97/2008/NĐ – CP,
điều 3 – khoản 14 định nghĩa về mạng xã hội như sau: “Dịch vụ mạng xã hội
trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi, người sử dụng khả
năng, tương tác chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường

Internet, bao gồm dịch vụ tạo nhật ký (blog), diễn đàn (forum), trò chuyện
trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác” . Tổng hợp, xâu chuỗi lại
các cách hiểu trên về mạng xã hội, có thể đưa ra một định nghĩ chung về
mạng xã hội như sau: Mạng xã hội là một xã hội ảo với hai thành tố chính tạo
nên đó là các thành viên và liên kết giữa các thành viên đó. Mạng xã hội là
dịch vụ Internet cho phép kết nối các thành viên cùng sở thích khơng phân
biệt khơng gian và thời gian qua những tính năng như kết bạn, chat, email,
phim ảnh…nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng mạng và mang những giá
trị xã hội nhất định. . Với những tính năng của mình, mạng xã hội đã đổi mới
hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu
của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này
có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo
group (ví dụ như tên trường hoặc 18 tên thành phố), dựa trên thông tin cá
nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân
5


(như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh
doanh, mua bán...
1.1.1.2 Truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội (Social Media) là một thuật ngữ để chỉ một cách
thức truyền thông kiểu mới, trên nền tảng là các dịch vụ trực tuyến, với mục
đích tập trung các thơng tin có giá trị của những người tham gia.
Những thể hiện của Social Media có thể là dưới hình thức của các
mạng giao lưu chia sẻ thơng tin cá nhân (MySpace, Facebook, Yahoo 360)
hay các mạng chia sẻ những tài nguyên cụ thể (tài liệu – Scribd, ảnh – Flickr,
video – YouTube)
Truyền thông xã hội ra đời với mục đích dân chủ hố, xã hội hố thơng
tin, tăng cường sự tương tác giữa người đăng tải và người tiếp nhận thông tin.
Cho phép các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng cùng chia sẽ, cùng sáng tạo,

cùng trao đổi và cùng chỉnh sữa các nội dung thông tin được đăng tải bởi
người dùng (user-generated contents). Mỗi người sử dụng sẽ vừa là người
viết, người nói, người nghe và người đọc.
Truyền thông xã hội được phát triển chủ yếu trên nền tảng web và gần
đây là trên các thiết bị di động thông minh. Với cách hiểu là cơng cụ trao đổi,
chia sẽ thơng tin giữa một nhóm người thì thực tế chúng đã ra đời từ rất lâu từ
cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Đánh dấu bởi sự
xuất hiện của mạng forum đầu tiên (usenet) và nền tảng xuất bản blog đầu
tiên (weblog). Truyền thông mạng xã hội bước vào giai đoạn phát triển mạnh
mẽ của mình vào đầu những năm 2000, với sự ra đời của các mạng xã hội đầu
tiên (khác xa những gì bạn thấy hiện nay). Truyền thông xã hội vẫn đang phát
triển liên tục và ngày càng phong phú, phức tạp hơn. 1.1.1.3 Báo chí
Báo chí là hiện tượng xã hội phổ biến, phát triển từng ngày và tác động,
chi phối đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. “Báo chí là thiết chế xã hội đặc
thù, là tiểu hệ thống gồm các loại hình đa dạng, phong phú (báo, tạp chí, đài
phát 19 thanh, truyền hình, các hãng thơng tấn và dịch vụ thơng tin…). Báo
6


chí gồm chỉnh thể các hình thức hoạt động đồng bộ tạo nên hiệu quả của sự
vận hành. Đó là hoạt động chính sách thơng tin; quan hệ với các tổ chức xã
hội; nghiên cứu khoa học, đào tạo; là hoạt động thu thập và xử lý thông tin,
sáng tạo tác phẩm đơn lẻ và sản phẩm hoàn chỉnh”
Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, các loại hình báo chí lần
lượt ra đời nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu thông tin của công chúng, từ báo
in, phát thanh đến truyền hình và gần đây nhất là sự ra đời, phát triển mạnh
mẽ của báo mạng điện tử.
1.2 Truyền thông xã hội và công chúng của truyền thơng đại chúng
1.2.1 Sự hình thành và triển của mạng xã hội và truyền thông xã
hội:

Theo các nhà nghiên cứu, mặc dù mới ra mắt gần đây khi đã hội tụ đầy
đủ các điều kiện nền tảng cơ sở nhưng thực chất “tổ tiên” của mạng xã hội đã
20 xuất hiện từ khá lâu. Khởi điểm cho thời đại kết nối không giới hạn như
ngày nay diễn ra từ những năm 70 của thế kỉ trước. Năm 1971, thư điện tử
đầu tiên được gửi đi giữa hai chiếc máy tính nằm cạnh nhau với thông điệp
ngắn gọn gồm dãy ký tự hàng đầu từ phía trái trên bàn phím chuẩn hiện nay
“QWERTYUIOP”.
Tiếp đến, cùng năm 1978 diễn ra 2 sự kiện quan trọng. Hệ thống trao
đổi thông tin dữ liệu BBS điện thoại đường dài hoạt động. Ngồi ra, những
trình duyệt sơ khai thời kì đầu cũng bắt đầu “lây lan” khắp nơi thông qua
USENET, một trong số những nền tảng BBS đầu tiên. Tuy nhiên cũng phải
đến 20 năm sau, trên Internet mới hình thành những mạng xã hội đầu tiên. Mở
đầu cho kỷ nguyên mạng xã hội là vào năm 1995 với sự ra đời của trang
Classmate.com. Tại thời điểm năm 1995 mạng xã hội này đã có tới 50 triệu
người dung. Đây là một con số kỉ lục khi mà trong thời kì đó Internet vẫn cịn
rất sơ khai.
Hai năm sau là sự ra đời của 2 trang Care2.com và Opendiary.com
nhằm đối trọng với Classmate. Nhưng tới năm 1999 mới đánh dấu sự bùng nổ
7


về mạng xã hội với 5 trang mạng xã hội được ra đời: Xanga.com,
Kiwwibox.com, LiveJournal.com, BalckPlanet.com và Vampirefreaks.com.
Năm 2002, trang mạng xã hội nổi tiếng Friendster xuất hiện. Đây được
coi là tên tuổi tiên phong hỗ trợ kết nối và chia sẻ trực tuyến giữa những
người thân sống ở đời thực. Friendster hoạt động dựa vào chính người dùng
và có tới 3 triệu người tham gia sau 3 tháng đầu ra mắt. Trung bình cứ 126
người dùng Internet có một người có mặt ở đây.
Tuy nhiên, chỉ sau một năm - năm 2004, MySpace ra đời với các tính
năng như phim ảnh (embedded video) và nhanh chóng thu hút hàng chục

ngàn thành viên mới mỗi ngày, các thành viên cũ của Friendster cũng lũ lượt
chuyển qua MySpace và trong vòng một năm, MySpace trở thành mạng xã
hội đầu tiên có nhiều lượt xem hơn cả Google và được tập đoàn News
Corporation mua lại với giá 580 triệu USD. Phiên bản đầu tiên của MySpace
chỉ được thiết kế trong vòng đúng 10 ngày.
Tiếp ngay sau đó , là sự ra mắt của các mạng xã hội khác như
Tribe .net, LinkEdin, Classmate.com, Jaiku, NetLog…
Vào tháng 2 năm 2004, sự ra đời của Facebook đánh dấu bước ngoặt
mới cho hệ thống mạng xã hội trực tuyến với nền tảng lập trình "Facebook
Platform" cho phép thành viên tạo ra những công cụ (apps) mới cho cá nhân
mình cũng như các thành viên khác dùng. Facebook Platform nhanh chóng
gặt hái được thành cơng vược bậc, mang lại hàng trăm tính năng mới cho
Facebook và đóng góp khơng nhỏ cho con số trung bình 19 phút mà các thành
viên bỏ ra trên trang này mỗi ngày.
Hai năm sau, “tiểu” blog Twitter cũng kịp thời ra đời, ghi dấu mốc
quan trọng trong quá trình phát triển của mạng xã hội. Được xem như cách
thức đơn giản nhất để người dùng có thể dễ dàng chia sẻ trạng thái của mình
với bạn bè và những ai quan tâm. Kỷ lục của Twitter đạt đươc̣ khi trâṇ bóng
đá giữa Nhâṭ Bản và Đan Mạch tại vòng chung kết World Cup 2010, đã có
trung bình 3282 tweet đươc̣ đăng tải trong 1 giây. Twitter xuất hiện vào tháng
8


3-2006 trong một dự án nghiên cứu và phát triển của trang web tìm kiếm
Odeo, cơng ty có trụ sở tại San Francisco. Tháng 2-2009, Twitter được xếp là
mạng xã hội lớn thứ ba thế giới, sau Facebook và MySpace, với số thành viên
lên đến 6 triệu và số người truy cập hằng tháng tới 55 triệu.
Tại thời điểm năm 2008, mỗi giây người dùng Twitter đăng lên 3.283
thông điệp. Đây cũng là năm Facebook vượt mặt MySpace để trở thành mạng
xã hội số một thế giới. Cả hai đều trở nên phổ biến hơn hẳn vượt mặt người

tiền nhiệm Friendster.
Thống kê cho thấy, hiện nay Facebook có tốc độ phát triển chóng mặt,
với số lượng người dùng đơng nhất, vào khoảng 600 triệu, trong khi cả
Friendster và Myspace đều có dấu hiệu chững lại. Twitter đang yếu thế trước
Facebook, nhưng cũng đã đã vượt qua Friendster từ lâu và vẫn đang tiếp tục
chinh phục Myspace.
Tới thời điểm hiện tại các trang web xã hội vẫn tiếp tục tăng. Đã có
hàng trăm các mạng xã hội khác nhau như Facebook, Cramster, Internship
Ratings, 22 Twitter, Remember the Milk, Gradefun…Tuy nhiên người dùng
hầu như chỉ sử dụng các trang nổi tiếng như Facebook, Youtube, Twitter,
Myspace.
Ở Việt Nam, Mạng xã hội được đề cập nhiều và trở thành một trào lưu
thực sự là khi Yahoo! Đóng cửa dịch vụ blog 360 vào tháng 7-2009. Sau khi
Yahoo cho ngừng sử dụng dịch vụ Blog 360, mạng xã hội Facebook trở thành
ơng hồng ở thị trường mạng xã hội Việt Nam. Theo thống kê của Facebook,
Việt Nam là nước có số lượng người sử dụng dịch vụ mạng xã hội này tăng
nhanh nhất trên thế giới tới tỉ lệ tăng 26,5% mỗi tháng. Cũng trong thời gian
này, Facebook lần đầu tiên đã lọt vào top 10 trang web được truy cập nhiều
nhất Việt Nam (theo bảng đánh giá của Alexa) và vẫn tiếp tục nằm trong top
10 cho tới tận thời điểm này.
Trước sự xâm chiếm và thống lĩnh của Facebook ở Việt Nam thì các
nhà mạng Việt Nam cũng có những chiến lược để thích nghi mới. Cuối năm
9


2009 mạng xã hội ZingMe của Công ty VinaGame ra mắt và thu hút được sự
chú ý của cộng đồng mạng. Lượng thành viên gia tăng chóng mặt và gắn bó
chặt chẽ với những tính năng giải trí của Zing: âm nhạc, video clip, game trực
tuyến, bên cạnh chia sẻ ảnh và blog, lập nhóm và chat trực tuyến.
Ngồi hai trang mạng xã hội lớn là Facebook và Zing Me thì ở Việt

Nam cịn một số trang mạng xã hội cũng nhận được sự quan tâm lớn của
những người sử dụng mạng xã hội là Yume (www.yume.vn) và Tầm Tay
(www.tamtay.vn ).
Ngày 19-5-2010, một mạng xã hội đầu tiên tại Việt Nam và ASEAN có
thể hội tụ số trên cả ba thiết bị đầu cuối là máy tính, tivi và điện thoại di động
xuất hiện. Đó là Mạng Việt Nam - Go.vn (www.goOnline.vn) do Tổng Công
ty Truyền thông đa phương tiện VTC phát triển đã chính thức ra mắt phiên
bản thử nghiệm. Phiên bản thử nghiệm Go.vn đã xây dựng 34 phân hệ cho
người dùng, tập trung vào các nhóm phân hệ giao tiếp, giải trí, giáo dục,
game, kinh doanh, thanh toán...
Đến nay, Zing Me thu hút khoảng 6,8 triệu thành viên và Go.vn có
khoảng 2 triệu thành viên. Tuy nhiên, vượt qua nhiều tên tuổi khác, Facebook
và Zing Me vẫn là hai mạng xã hội thu hút được nhiều người Việt tham gia
nhất.
ComScore - một trong những công ty dẫn đầu thế giới về đo lường và
đánh giá hiệu quả các giải pháp Marketing trực tuyến vừa công bố báo cáo về
thị trường trực tuyến tại Việt Nam và Châu Á. Theo số liệu của ComScore,
mười trang mạng xã hội thu hút nhiều người sử dụng nhất tại Việt Nam là
Zing Me, Facebook, Yahoo! Pulse, Tamtay.vn, banbe.net, KST.vn,
Yeulaptop.com, Cyworld, Yo88.com và Twitter.com. Trong 30 triệu người sử
dụng Internet tại Việt Nam hiện có 87,5% đã và đang sử dụng các mạng xã
hội. Đa số người sử dụng mạng xã hội là những người trẻ, nằm trong độ tuổi
15-34 (chiếm 71%). Cũng theo một thống kê tồn cầu của Google cơng bố
tháng 8/2010, tại Việt Nam Zing Me có 6,1 triệu người sử dụng, chiếm xấp xỉ
10


20% tổng số người dùng Internet Việt Nam; Yume.Vn có 2,9 triệu người
dùng; Facebook.com có 2,6 triệu người dùng và ngày càng thu hút đông đảo
cộng đồng mạng sử dụng từ học sinh, sinh viên, doanh nhân, doanh nghiệp…

1.2.2 Cơ chế tác động của truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội tác động dựa trên cơ chế lan truyền (copy và phát
tán), từ người này sang người khác có cùng nhóm sở thích, hiệu quả được tích
lũy theo thời gian (được lưu trên các web). Truyền thông xã hội được xây
dựng dựa trên nền tảng của sự kết nối (Friends, Like, Share…) Ở đó diễn ra
một q trình đối thoại từ nhiều phía, khơng phải độc thoại từ nhà sản xuất.
Facebook, Youtube, Twitter, Google+... đã trở nên quá quen thuộc với
người dân trên khắp thế giới, thu hút hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người
sử dụng, tạo ra một cộng đồng cực kỳ lớn, với tốc độ lan tỏa thông tin khủng
khiếp. Ngay cả những trang thông tin điện tử, một loại hình báo chí mới, đơi
khi cũng thua kém mạng xã hội trong việc lan tỏa thông tin, ít nhất dưới góc
độ thời gian. Chỉ cần một vài thiết bị cá nhân phổ biến như điện thoại thông
minh hay máy tính bảng, thơng tin và hình ảnh về một sự kiện hay nhân vật
nào đó sẽ nhanh chóng và dễ dàng được đưa lên Internet. Trong một cộng
đồng có số lượng người dùng lớn, kết nối dễ dàng với nhau, thơng tin này lan
truyền với tốc độ chóng mặt, đến khắp nơi trên thế giới. 24 Truyền thông xã
hội không phải là truyền thông đại chúng nên cơ chế tác động của chúng cũng
khác nhau.
Truyền thông xã hội hoạt động dựa trên ba yếu tố: sự tham gia, kết nối
và mối quan hệ, nó là kênh truyền thơng hai chiều, có tính tương tác và chọn
lọc rất cao. Nhờ vào lượng thành viên khổng lồ, có sự kết nối và đối thoại mà
những thông tin được đăng tải và chia sẻ trên mạng xã hội có sức tác động
nhanh và mạnh mẽ đến công chúng.
1.2.3 Thực trạng quản lý của nhà nước với truyền thông xã hội
Về mặt pháp lý, có thể nói truyền thơng xã hội khơng phải là báo chí.
Blogger hay các thành viên của mạng xã hội không phải là nhà báo. Mặc dù
11


khơng phải là báo chí, nhưng trong thực tế, mang xã hội tương đồng với các

hệ thống phương tiện truyền thơng từ bản chất truyền thơng của nó. Với
những ảnh hưởng mà truyền thông xã hội đem đến, nhà nước đã có những
biện pháp quản lý cần thiết, cụ thể như sau:
Theo Nghị định 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các trang thơng tin
điện tử hoạt động khơng có giấy phép hoặc giấy phép hết hạn sẽ bị phạt tiền
từ 10 20triệu đến 30 triệu đồng. Các mạng xã hội hoạt động khơng có giấy
phép hoặc giấy phép hết hạn sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đến 30 triệu đồng.
Điều 64 và 65 của Nghị định này cịn có quy định trang thông tin điện
tử, trang thông tin điện tử tổng hợp và mạng xã hội khơng có hệ thống máy
chủ đặt ở Việt Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, cung cấp thông tin theo
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc giải quyết khiếu nại của
khách hàng đối với việc cung cấp dịch vụ theo quy định của Bộ Thông tin và
Truyền thông sẽ bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng.
Ngoài ra, trên mạng xã hội, các hành vi tuyên truyền phá hoại chống
phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn
kết các dân tộc; tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược gây hận thù
giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng
phản động; xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu của cách mạng; xúc
phạm dân tộc, danh nhân anh hùng dân tộc mà chưa đến mức bị truy cứu trách
nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 70 đến 100 triệu đồng.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng vừa ban hành Nghị định số 72/2013/NĐCP ngày 15/7/2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin trên mạng , thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 về
quản lý, cung cấp, sử dụng Internet và thông tin điện tử trên Internet. Đây là
một Nghị định rất quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, động lực thúc
đẩy phát triển Internet, cung cấp dịch vụ trên Internet và trên các trang mạng
xã hội.

12



Mặc dù đã có những biện pháp quản lý mạnh mẽ và cụ thể, tuy nhiên
công tác quản lý truyền thơng xã hội của nước ta vẫn gặp nhiều khó khăn và
hạn chế. Truyền thông xã hội là lĩnh vực đặc thù có sự phát triển nhanh,
mạnh, gắn liền với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung,
điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý.
Ðến nay hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung
cấp, sử dụng thông tin trên mạng xã hội đã được bổ sung, hoàn thiện đáng kể.
Tuy nhiên hệ thống các văn bản về quản lý nội dung thông tin điện tử trên
mạng xã hội vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ
ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Việc xây dựng quy định, chính
sách chưa theo kịp sự phát triển.
Vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách pháp luật là do tính
chất khơng biên giới của mạng xã hội. Một hành vi trên mạng xã hội có thể vi
phạm pháp luật của một nước, nhưng lại là được phép ở một quốc gia khác, vì
vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ thông tin sai trái trên môi trường mạng
cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi
phạm xảy ra ở quốc gia đó.
Hiện nay, việc xác định và xử lý công khai nội dung sai phạm vẫn do
Bộ Thông tin và Truyền thơng chủ trì, chủ yếu dựa vào các quy định định
tính, chưa cụ thể về hành vi sai phạm, của văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan. Vì vậy,
việc đưa ra quyết định của cơ quan chức năng hay bị cho là có tính áp đặt chủ
quan, khơng khách quan. Nhiều trường hợp bị lợi dụng kích động, gây khó
khăn cho việc tạo sự đồng thuận của dư luận xã hội; tạo ra áp lực lớn cho cơ
quan chức năng, nhất là đối với những thơng tin nhạy cảm về chính trị, đối
ngoại... mà dư luận quốc tế đang quan tâm.
Vì vậy trong nhiều trường hợp, các đơn vị thực thi cịn khó khăn khi
quyết định hình thức xử lý, nhiều trường hợp không dám công khai biện pháp
13



xử lý do có yếu tố nhạy cảm, nên chưa đề cao tính răn đe. Cơng tác thanh tra,
kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực bộ máy
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn hạn chế, rất thiếu về số lượng thanh tra
chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các
máy chủ đặt tại nước ngồi cịn nhiều bất cập. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh,
chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết.
1.3 Tác động của mạng xã hội đối với báo chí truyền thống
Sự bùng nổ của truyền thơng xã hội trong môi trường truyền thông Việt
Nam đã tạo ra những ảnh hưởng rất đáng kể đến báo chí Việt Nam, thậm chí
cịn làm đảo lộn cảnh quan báo chí và làm biến dạng diện mạo báo chí Việt
Nam.
1.2.4 Diện mạo của mạng xã hội hiện nay.
Diện mạo của mạng xã hội hiện nay
Hiện nay thế giới có hàng trăm mạng mạng xã hội khác nhau, với
MySpace và Facebook nổi tiếng nhất trong thị trường Bắc Mỹ và Tây Âu;
Orkut 32 và Hi5 tại Nam Mỹ; Friendster tại Châu Á và các đảo quốc Thái
Bình Dương. Mạng xã hội khác gặt hái được thành công đáng kể theo vùng
miền như Bebo tại Anh Quốc, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản và
tại Việt Nam xuất hiện rất nhiều các mạng xã hội như: Zing Me, YuMe,
Tamtay...
Cuối năm 2011, theo thống kê hơn 1 tỉ người sử dùng Internet trên toàn
cầu đăng ký ít nhất một mạng xã hội.
Trong đó :
 Facebook : 800 triệu người dùng, cứ 20 phút thì có 6 triệu post được
gửi đi, 3 triệu bức ảnh và 11 triệu bình luận (comment) được đăng tải, mỗi
người dùng trung bình có 120 bạn.
 Twitter : 200 triệu người dùng, 250 triệu tweet được đăng tải mỗi
ngày

 Google+ : 50 triệu người dung
14


 Tumblr : 30 triệu blogs
 LinkedIn : 130 triệu người dung
 Flickr : 3500 bức ảnh được tải lên mỗi phút
 Youtube : cứ 4 phút có 100 giờ video được tải lên
Theo nghiên cứu của eMarketer, lượng người sử dụng mạng xã hội
trên toàn cầu hiện nay chiếm khoảng 22% tổng dân số toàn cầu. Số người này
đăng nhập vào các trang mạng xã hội ít nhất 1 lần/tháng trong năm 2013.
Cũng theo nghiên cứu này, con số người dùng mạng xã hội trong năm nay đã
tăng 14.2% so với cùng thời điểm này năm ngoái.

15


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
2.1. Tác động của báo chí Việt Nam.
2.1.1. Tác động tích cực
Truyền thông xã hội là nơi cung cấp thông tin, đề tài cho báo chí
Bên cạnh những thơng tin sai hoặc ít giá trị, truyền thơng xã hội có
nhiều thơng tin hữu ích có thể trở thành thơng tin cho báo chí. Nếu nhà báo sử
dụng truyền thơng xã hội như một nguồn tin nghiêm túc (có kiểm chứng trước
khi khai thác) thì đây thực sự là mơi trường lý tưởng cung cấp thông tin, gợi ý
đề tài và nguồn dữ liệu để người làm báo có thể nhận diện, thu thập, tiếp cận
và phát hiện thêm nhiều đề tài mới, nóng. Thực tế, nhiều người hoạt động báo
chí thường xun sử dụng truyền thông xã hội để phục vụ công việc, cập nhật
tin tức.

Từ mạng xã hội, với những thao tác, kỹ năng nghiệp vụ, các nhà báo
nhận diện được những tin tức nào, vấn đề nào tạo ra được sự gắn bó với người
đọc có thời gian tồn tại lâu hơn để tiếp tục cung cấp các tin tức khác liên quan
cho độc giả. Mới đây, một chuyên gia nước ngồi thống kê, có tới 75% phóng
viên thấy blog hữu ích để phát triển ý tưởng, giúp họ nhìn nhận đa chiều và
sâu sắc hơn, 21% trong số họ bỏ ra mỗi ngày 1 tiếng để đọc blog và 16%
trong số họ có trang blog riêng.
Khơng chỉ đề tài, nội dung của nhiều bài viết cũng dựa trên những
thông tin từ mạng xã hội khi có nhiều bài viết chứa các cụm từ như: “cư dân
mạng chia sẻ”, “blogger X cho biết”, Facebooker Y bày tỏ”… xuất hiện ngày
càng nhiều trên báo chí truyền thống.
Truyền thơng xã hội góp phần quảng bá thơng tin báo chí
Truyền thơng xã hội là một cơng cụ giúp báo chí nối dài cánh tay. Rất
nhiều cơng chúng có thói quen là sau khi tiếp nhận thơng tin từ báo chí , nếu
thấy thơng tin hay, hấp dẫn sẽ nhanh chóng chia sẻ những thông tin ấy trên
16


mạng xã hội. Với lượng người dùng khổng lồ, mạng xã hội là kênh hiệu quả
để lan truyền, phổ biến thơng tin báo chí, quảng bá hình ảnh tịa soạn đến
cơng chúng.
Rất nhiều cơ quan báo chí đặc biệt là các tờ báo điện tử đang thực hiện
những chiến lược nhằm khai thác truyền thông mạng xã hội để thu hút, gia
tăng lượng người truy cập. Các tờ báo như Vietnamnet, VnExpress, Tuổi trẻ
Online, 40 Dân Trí…đã tích hợp thêm các công cụ (nút) hỗ trợ độc giả các
hoạt động thích (like), chia sẻ bài báo mình vừa đọc lên mạng xã hội dễ dàng,
tối giản các thao tác. Bên cạnh đó, các tờ báo cịn xây dựng trang giới thiệu
(fanpage) trên mạng xã hội nhằm thu hút, đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh,
cập nhật của cộng đồng mạng xã hội. Dưới mỗi bài viết của các trang báo
điện tử như VnExpress hay Vietnamnet đều sử dụng các công cụ chia sẻ lên

các trang mạng xã hội Facebook, Twitter, Google+…Điều này đã giúp cho
tên tuổi của các trang báo này trở nên phổ biến đối với cư dân của truyền
thông xã hội.
Truyền thông xã hội là kênh tương tác giữa báo chí với cơng chúng
Thực tế hiện nay cho thấy, mạng xã hội là môi trường cung cấp, truyền
bá và tương tác thơng tin. Phóng viên báo chí và cư dân mạng xã hội sẽ có
điều kiện nắm bắt, cập nhật thơng tin; tịa soạn tương tác, thiết lập những mối
quan hệ và lắng nghe ý kiến của công chúng. Rất nhiều nhà báo đồng thời là
thành viên của các mạng xã hội có điều kiện theo dõi, cập nhật phản hồi của
độc giả, tham khảo ý kiến cộng đồng mạng, nắm bắt chiều hướng dư luận về
những nội dung mà báo chí đề cập. Sự tương tác giữa báo chí và cơng chúng
trên truyền thơng xã hội diễn ra nhanh chóng và phổ biến.
Một số báo mạng điện tử ở Việt Nam lập fanpage (trang dành cho
người hâm mộ) trên Facebook để tiện giao lưu với độc giả như: VnExpress,
VnEconomy, Vietnamnet, Thể thao & Văn hóa…
Trên mạng xã hội cũng xuất hiện các hội, nhóm của những người làm
báo, nhà báo vừa chia sẻ, trao đổi, thảo luận dưới góc độ đồng nghiệp vừa
17


phản hội dưới góc độ là độc giả của nhau. Nhiều nhà báo nổi tiếng có mạng
lưới “bạn bè”, “người theo dõi” (subscribers, followers) khá rộng, điều này
giúp họ và tịa soạn tiếp nhận ý kiến, bình luận của độc giả nhanh, nhiều, đa
dạng và công khai hơn. Rõ ràng, nhờ truyền thơng xã hội mà báo chí đã gần
gũi hơn với cơng chúng, có nhiều cơ hội hiểu và tham khảo ý kiến từ công
chúng.
Truyền thông xã hội “bù đắp” khơng gian cơng cộng cho báo chí
truyền thống
Truyền thơng xã hội với sự tương tác thông tin khá tự do của các cá
nhân đã tạo nên một không gian cơng cộng của cơng chúng có thể tự do bàn

luận, trao 41 đổi, thể hiện quan điểm và ý kiến trước các vấn đề của xã hội.
Đây cũng là điều mà báo chí truyền thống hiện nay đang bị hạn chế. Sự “bù
đắp” này của truyền thông xã hội với báo chí truyền thống biểu hiện cụ thể ở
các dạng như:
- Bài báo chính thức có thể được viết với quan điểm rất chính thống và
chịu nhiều áp lực kiểm soát nội dung, nhưng các nội dung phản hồi của cơng
chúng trực tiếp lên bài viết đó thì có thể tự do hơn, vì được phát biểu dưới
dạng ý kiến cơng chúng, nhất là những ý kiến đó là ẩn danh, nặc danh.
- Ngay trong trường hợp tòa soạn hạn chế, việc đăng tải các phản hồi
của bạn đọc kèm bài viết để phản ánh quan điểm đa chiều thì các phản hồi ấy
sẽ chuyển sang môi trường truyền thông xã hội thông qua các hoạt động đánh
dấu (tag) trên mạng xã hội hoặc đăng lại trên các diễn đàn trực tuyến. Khi đó
các ý kiến người đọc và dư luận sẽ tự do và thoát khỏi sàng lọc của hàng rào
biên tập ở tịa soạn báo chí. Thực tế này hiện nay đã phổ biến.
Đây là một sự tương tác tích cực giữa truyền thơng xã hội và báo chí
truyền thống, giúp giữ cho báo chí truyền thống khơng khí sơi nổi cần thiết để
cơng chúng tiếp nhận thơng tin đa chiều và các thành viên xã hội có cơ hội
đồng tham gia vào các quyết định chung của xã hội.

18


2.1.2. Tác động tiêu cực
“Tin xã hội” (Social news) và sự biến đổi của báo chí truyền thống
Báo chí truyền thống trong bối cảnh gần như giữ vai trò độc tơn trong
việc cung cấp tin tức có quyền lựa chọn tin tức để đăng tải và làm chủ cuộc
chơi truyền thơng. Báo chí truyền thống tạo ra sự khác biệt về giá trị tin tức
bằng cách tập trung vào những vấn đề thời sự có tác động kinh tế - xã hội
quan trọng và ít sa quá nhiều vào việc đưa tin về người nổi tiếng, giải trí, bạo
lực, sinh hoạt cá nhân, địa phương hay còn được coi là “phi tin tức” (nonnews). Nhưng sự tham gia của truyền thơng xã hội vào cảnh quan báo chí

hiện đại đã làm thay đổi đáng kể cục diện này. Công chúng, với sự hậu thuẫn
của trào lưu truyền thông xã hội đã có thêm những lựa chọn mới. Trên mơi
trường truyền thơng xã hội, những loại mà báo chí gọi là “phi tin” đang trở
thành một làn sóng mới về nhu cầu tin tức, chi phối sự lựa chọn biên tập và
xuất bản của các tịa soạn.
Thơng qua kết nối và phát tán thông tin trên diện rộng qua Internet,
cộng với tăng cường khả năng theo dõi và giám sát mọi hoạt động xã hội trê
phạm vi toàn cầu nhờ các thiết bị di động, truyền thơng xã hội cịn tạo ra khối
lượng các tin tức khổng lồ được chia sẻ mà phần lớn trong số đó là những tin
tức kiểu “phi tin” mà giờ đây được gọi với tên là tin tức xã hội (social news).
Các tin tức xã hội có một số đặc tính cơ bản như:
- Được phát hiện ngẫu nhiên bởi các cá nhân
- Được đăng tải tự do trong môi trường truyền thông xã hội
- Thường tập trung vào những chủ đề mang tính giải trí, sinh hoạt cá
nhân của giới ngôi sao, các tai nạn, sự cố, vụ án nhỏ lẻ trong đời sống thường
ngày…
- Thường đính kèm các thơng tin cảm xúc và đánh giá chủ quan của
người đăng.
- Thường được viết bằng văn phong sinh hoạt, ngẫu hứng, lệch chuẩn.
Các tin tức xã hội có hai lợi thế mà tin tức báo chí truyền thống khơng
thể và cũng khơng muốn có đó là: đăng ngay tức thời và biên tập hậu kiểm.
19



×