Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NỘI DUNG QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÁC DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ CÁC VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.87 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------    ---------

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: NỘI DUNG QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÁC DÂN TỘC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ LIÊN
HỆ THỰC TẾ CÁC VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

HỌ VÀ TÊN: LÊ NGUYÊN MINH

Lớp: IBL63ĐH

; MSV: 95823

Viện: ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
Giảng viên HD: VŨ PHÚ DƯỠNG
Khóa năm: 2022 – 2026

Hải Phịng – 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................3
CHƯƠNG I. DÂN TỘC VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHÁCH QUAN CỦA
DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN................................3
1. Dân tộc và đặc trưng của nó....................................................................................3
2. Xu hướng phát triển khách quan của dân tộc..........................................................3
3. Những biểu hiện của hai xu hướng khách quan......................................................4


CHƯƠNG II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN...............6
1. Các dân tộc hồn tồn bình đẳng:...........................................................................6
2. Các dân tộc có quyền tự quyết :..............................................................................7
3. Liên hiệp cơng nhân các dân tộc lại:.......................................................................8
CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DÂN
TỘC TRONG MỘT QUỐC GIA ĐA DÂN TỘC.....................................................10
CHƯƠNG IV. SỰ VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN
TIẾP TỤC, BỔ SUNG VỀ THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC TRONG BỐI
CẢNH MỚI HIỆN NAY..............................................................................................14
1. Những tư tưởng tiến bộ của nước ta trong sự vận dụng theo quan điểm của........14
2. Một số quan điểm phù hợp với thực tiễn nước ta..................................................16
3. Liên hệ thực tiễn vấn đề dân tộc nước ta hiện nay................................................17
KẾT LUẬN..................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................22
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................23

1


LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề bình đẳng dân tộc là vấn đề hết sức nhạy cảm
của tất cả các dân tộc và mỗi đất nước trong thời đại hiện nay. Ở Việt Nam, vấn đề
bình đẳng dân tộc và giải quyết vấn đề bình đẳng dân tộc được Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định là vấn đề đặc biệt hệ trọng trong xây dựng, bảo vệ và phát triển Tổ
Quốc với phương châm: Độc lập, đồn kết , bình đẳng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
giữa các dân tộc, góp phần tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Vấn đề bình
đẳng dân tộc và giải quyếtbình đẳng dân tộc ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu đề
cập, với nhiều nội dung khác nhau trong thời gian vừa qua. Các cơng trình nghiên cứu
được nêu trên đã chỉ ra vấn đề bình đẳng dân tộc ở Việt Nam theo quyền bình đẳng của

các dân tộc theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Dựa trên lý luận của C.Mác
và Ph.Ăngghen về mối liên hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; phân tích hai xu
hướng khách quan về phong trào dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản.
Căn cứ trên thực tiễn của phong trào cách mạng quốc tế và thực tiễn cách mạng
nước Nga về xử lý vấn đề dân tộc nhằm tập hợp và đoàn kết các lực lượng cách mạngở
nước Nga những năm đầu thế kỉ XX, V.I.Lênin đã viết “ Cương lĩnh dân tộc”. Đây là
cơ sở khoa học cho việc hoạch định những đường lối, chính sách cách mạng của giai
cấp công nhân về những vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cộng đồng
dân tộc với tính cách là quốc gia dân tộc xuất hiện khi xã hội có sự phân chia giai cấp.
Mối quan hệ giữa dân và giai cấp trở thành một trong những mối quan hệ chính trị cơ
bản trong xã hội và tác động, chi phối đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì
đây là một lĩnh vực rộng liên quan bao gồm tất cả các lĩnh vực trong kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội đối với Việt Nam nên trong phạm vi đề án môn học nàyem xin được
tìm hiểu một cách có hệ thống hơn khái qt về nội dung quyền bình đẳng của các dân
tộc theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và sự thực tiễn vấn đề dân tộc ở nước
ta hiện nay.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. DÂN TỘC VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHÁCH QUAN
CỦA DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN.
1. Dân tộc và đặc trưng của nó.
Dân tộc là cả một cộng đồng người có mối quan hệ gắn bị và đồn kết, có đời
sống kinh tế thống nhất, có tiếng nói riêng và các nét văn hóa riêng hay là một cộng
đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia và nền kinh tế
đồng nhất, đồn kết gắn bó cũng như có ý thức bảo vệ sự ổn định quốc gia của dân tộc,
gắn kết với nhau bằng lợi ích dân tộc, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống
đấu tranh cách mạng xuyên suốt trong lịch sử dài dựng nước và giữ nước.

Dân tộc chủ yếu được nhận diện qua những đặc điểm cơ bản sau:
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong các biểu trưng cơ
bản nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là nền tảng gắn kết các dân tộc và
những thành viên của dân tộc, tạo thành cơ sở bền vững cho các dân tộc.
+ Có thể tập trung sinh sống trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc cư trú
xen kẽ với nhiều dân tộc khác. Vận mệnh dân tộc một phần đặc biệt quan trọng gắn
với quá trình xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
+ Có chữ viết riêng hoặc có thể có chữ viết riêng ( trên nền tảng chữ viết chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên nhiều phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa,...
+ Có nét tâm lí riêng (nét tâm lí dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân
tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả
cộng đồng các dân tộc.
2. Xu hướng phát triển khách quan của dân tộc.
Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc, ý thức
quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng
dân cư độc lập. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy
tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Thể hiện rõ nét phong trào đấu tranh giành độc lập dân
tộc.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động trong giai đoạn
3


đế quốc chủ nghĩ. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công
nghệ, của giáo lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ
hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn
giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. Nổi lên trong giai đoạn Chủ
nghĩa tư bản phát triển thành chủnghĩa đế quốc bóc lột thuộc địa. Đồng thời do sự phát

triển của lực lượng sản xuất, KHCN và văn hóa.
3. Những biểu hiện của hai xu hướng khách quan
Trong phạm vi quốc gia,
-

Xu hướng thứ nhất: Thể hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự do,

bình
đẳng và phồn vinh của dân tộc mình.
Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của lịch sử
nước nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã đoàn kết, anh dũng đứng
lên đấu tranh đánh đổ hoàn toàn chế độ đơ hộ, áp bức, bóc lột hàng trăm năm của bọn
thực dân, phát xít, phong kiến đế lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mang lại
nền độc lập tự do nước nhà, xây dựng đất nước vững bước đi lên CNXH.
Xu hướng thứ hai: thể hiện ở sự xuất hiện những động lực thúc đẩy các dân tộc trong
một cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn
trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ví dụ: Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu nông
thôn bền chặt sớm xuất hiện để tạo ra một nền nơng nghiệp, từ đó cùng nhau thúc đẩy
và phát triển nền kinh tế và đến nay được xem là nền kinh tế chủ yếu của Việt Nam.
Tóm lại, ở các nước XHCN, hai xu hướng phát huy, tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra ở từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất
cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các
dân tộc đi nhanh đến sự tự chủ và phồn vinh.
Trong phạm vi quốc tế,
- Xu hướng thứ nhất: thể hiện trong phong trào giải phóng dân tộc nhằm chống lại
chủ nghĩa đế quốc và chống chính sách thực dân đơ hộ dưới mọi hình thức, phá bỏ mọi
áp bức bóc lột của CN đế quốc, giành lấy sự tự quyết vận mệnh của dân tộc mình bao
gồm quyền được tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc,

4


quyền bình đẳng như các dân tộc khác. Trong đó, mục tiêu chính trị chủ yếu của thời
đại: giành độc lập dân tộc. Độc lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách quan,
chân lý thời đại, sức mạnh hiện
thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi dân tộc.
Ví dụ: ta có thể thấy rõ xu hướng này được thể hiện trong các cuộc đấu tranh
của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kì thị, phân biệt chủng tộc đang bị coi
là đối tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
- Xu hướng thứ hai: thể hiện ở xu thế các dân tộc muốn xích lại gần nhau, hợp tác
với nhau đề hình thành liên minh dân tộc ở phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Tạo điều
kiện để các dân tộc tận dụng tối đa những cơ hội, thuận lợi từ bên ngoài để phát triển
phồn vinh dân tộc mình. Tạo nên sức hút các dân tộc và các liên minh được hình thành
trên những cơ sở lợi ích chung nhất định, hợp tác cùng phát triển.
Ví dụ: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập với mục tiêu
đảm bảo hịa bình, ổn định, an ninh khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế đã được
nhiều
thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của một tổ chức vững mạnh, liên kết sâu rộng và là
đối tác quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế. Sự tác động của hai xu hướng khách
quan thể hiện rất nổi bật.
Tóm lại, hai xu hướng có sự thống nhất biện chứng với nhau trong sự phát triển
của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Hai xu hướng ln có sự tác động qua lại, hỗ trợ
cho nhau nhưng sẽ để lại hậu quả tiêu cực, khó lường nếu vi phạm mối quan hệ biện
chứng này.

5


CHƯƠNG II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG GIẢI QUYẾT

VẤN ĐỀ DÂN TỘC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN.
1. Các dân tộc hồn tồn bình đẳng:
Bình đẳng dân tộc có nghĩa là mọi người đều có quyền được hưởng những điều
kiện và cơ hội như nhau để tự do phát huy năng lực và đáp ứng nhu cầu của mình,
đồng thời cóđịa vị bình đẳng trong quan hệ với những người khác, tất cả các nước.
Theo V.I.Lê-nin, bình đẳng dân tộc về bản chất có nghĩa là loại trừ tình trạng người
bóc lột người, theo đó nhà nước này có đặc quyền, đặc lợi so với dân tộc khác, và nhà
nước này có nghĩa là xóa bỏ tìnhtrạng nhà nước áp bức. Vì lí do này, Lênin VI coi bình
đẳng dân tộc là một nguyên tắc quan trọng và việc thực hiện nó là một phần khơng thể
thiếu trong kế hoạch cách mạng nhằm đạt được bình đẳng xã hội.
Quyền bình đẳng của mọi người bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đây là cơ sở pháp lý chung để giải quyết các mối quan
hệ dân tộc toàn cầu, khu vực và quốc gia. Điều này được luật pháp quốc tế và trong
nước thừa nhận. Bình đẳng giữa các dân tộc còn là kết quả của các cuộc đấu tranh của
nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bình đẳng dân tộc phải được thể hiện ở nội dung
kinh tế hay bình đẳng kinh tế. Trong chừng mực đó, bình đẳng dân tộc phụ thuộc vào
sự bình đẳng về trình độ phát triển kinh tế của các dân tộc, mà cốt lõi của sự bình đẳng
đó là lực lượng sản xuất phát triển đồng đều. Theo V.I.Lênin, lợi ích kinh tế gắn liền
với lợi ích giai cấp, dân tộc và quốc gia. Hợp tác, trao đổi và liên kết cưỡng bức, cũng
như các đặc quyền kinh tế dành cho các nhóm dân tộc, làm suy yếu lợi ích của họ và
dẫn đến bất bình đẳng Quốc gia.
Bình đẳng chính trị cũng là quyền của các dân tộc. Bình đẳng chính trị là tiền đề,
điều kiện tiên quyết và cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng trong các lĩnh vực khác
trong quan hệ giữa các quốc gia. Đối với các nước bị áp bức, lệ thuộc, đấu tranh địi
bình đẳng dân tộc là điều kiện tiên quyết để có bình đẳng về các mặt khác của đời sống
xã hội. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bài ngoại, kỳ thị, phân biệt đối xử giữa các dân
tộc, mọi biểu hiện giữa các dân tộc. Mọi phát biểu nhằm can thiệp vào công việc nội
bộ của Nhà nước, của nhân dân đều vi phạm quyền chính trị bình đẳng của Nhà nước,
của nhân dân. Do đó, bình đẳng chính trị là quyền của mỗi quốc gia tự quyết định vận
mệnh của mình, bao gồm quyền lựa chọn chế độ và con đường phát triển của mình,

quyền quyết định chính sách của mình trong mối quan hệ với các quốc gia khác.
6


Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt và liên quan đến
nhiều yếu tố dân tộc – tộc người. Chính trên lĩnh vực văn hóa, các yếu tố tộc người –
những yếu tố mà nhờ đó phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác – được biểu hiện
đầy đủ nhất. Văn hóa của mỗi dân tộc tạo nên sức sống bền vững của mỗi dân tộc.
Trong quan hệ dân tộc, văn hóa là một nhân tố có ý nghĩa quyết định địa vị bình đẳng
của một dân tộc này với dân tộc khác. V.I.Lênin khẳng định “Đối với những người
mác xít, vấn đề khẩu hiệu “văn hóa dân tộc” có một ý nghĩa to lớn, chẳng những vì nó
xác định nội dung tư tưởng của tồn bộ cơng tác tun truyền và cổ động của chúng ta
về vấn đề dân tộc, là công tác khác với công tác tuyên truyền tư sản, mà cịn vì tồn bộ
cái cương lĩnh về tự trị dân tộc về văn hóa trứ danh đều dựa trên khẩu hiệu đó”1. Vấn
đề bình đẳng trong văn hóa phải ln ln gắn liền với bình đẳng về kinh tế, chính trị.
Đây là quyền thiêng liêng của con người trong quan hệ giữa các quốc gia. Các
dân tộc hồn tồn bình đẳng. Điều này có nghĩa là bất kể trình độ phát triển của bạn
cao hay thấp, dù bạn là một nhóm dân tộc lớn hay nhỏ, bạn đều có ý nghĩa và quyền
lợi, lợi ích giống nhau. Trước pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, không một quốc
gia nào được giữ những đặc quyền, đặc lợi của mình mà áp bức, bóc lột các dân tộc
khác. Pháp luật bảo vệ và thể hiện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó đấu
tranh để khắc phục những bất bình đẳng về kinh tế, văn hóa, trình độ phát triển mà lịch
sử để lại có tầm quan trọng cơ bản.
Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và
xây dựng quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Các dân tộc có quyền tự quyết :
Quyền dân tộc tự quyết là quyền của các dân tộc tự mình định đoạt cơng việc và
vận mệnh của mình. Quyền dân tộc tự quyết có thể biểu hiện ở những mức độ khác
nhau, từ tự trị nội bộ đến tách ra thành các quốc gia dân tộc độc lập. Theo V.I Lênin : “
Quyền dân tộctự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính

trị, có quyền tự do phân lập, về mặt chính trị khỏi dân tộc áp bực họ”. Tuy nhiên, các
dân tộc có quyền tự quyết khơng phải là các dân tộc tách ra mà chính là để các dân tộc
xích lại với nhau trong quốc gia xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của khẩu hiệu đó là ở
chỗ, nó gạt bỏ tất cả mọi sự nghi ngờ về mưu đồ xâm lăng của dân tộc này đối với dân
tộc khác và nhằm chuẩn bị cho các dân tộc tiến đến sự liên minh tự nguyện vào một
quốc gia xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều dân tộc. “Chủ nghĩa xã hội có mục đích
7


khơng những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ và xóa bỏ
mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi
nhau mà cũng cần nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại... Nhân loại chỉ có trải
qua thời kì q độ của chun chính của giai cấp bị áp bức, mới có thể xóa bỏ được
giai cấp, cũng giống như vậy, nhân loiaj chỉ có trải qua thời kì q độ hồn tồn giải
phóng tất cả các dân tộc bị áp bức, nghĩa là thời kì các dân tộc được tự do phân
lập, thì mới có thể đạt tới sự hợp nhất tất nhiên giữa các dân tộc”.
Quyền các dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình, quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển
của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra
thành lập ra một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm
quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng lợi ích để có đủ
sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc. Như vậy, quyền
tự quyết dân tộc không phải là một tộc người trong một quốc gia trong điều kiện bình
thường ổn định địi thành lập quốc gia riêng. Hơn nữa, ở Việt Nam khơng có áp bức
giữa tộc người này với tộc người khác. Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện
chính sách bình đẳng dân tộc, các tộc người ở Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ, thậm chí chúng ta có nhiều chính sách ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Các dân tộc ở Việt Nam bình đẳng, đồn kết cùng phát triển nên khơng có cơ sở để nói
đến quyền tự quyết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Cần khẳng định rằng việc một tộc

người nào đó địi tách ra thành quốc gia riêng sẽ khơng có lợi cho dân tộc thiểu số đó
cũng như cho cả nhân dân Việt Nam. Đó chỉ là âm mưu kéo lùi sự phát triển của Việt
Nam, cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, chúng ta cần hiểu
đúng đắn, sâu sắc, đầy đủ tư tưởng của V.I.Lênin để đấu tranh chống lại âm mưu lợi
dụng, cái gọi là quyền dân tộc tự quyết của các thế lực thù địch để chống phá Việt
Nam.
3. Liên hiệp công nhân các dân tộc lại:
Liên minh công nhân các dân tộc là đơn vị đồn kết giai cấp cơng nhân các dân
tộc trên cơ sở cùng địa vị kinh tế - xã hội, thống nhất về lợi ích giai cấp, cùng lịch
sử...; là liên minh quốc tế trong đấu tranh chống áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, giải
phóng dân tộc và xã hội. V.I.Lênin cho rằng: Giải phóng khỏi ách tư bản chủ nghĩa,
8


xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là nhiệm vụ quốc tế cúa tất cả những
người vô sản, của tất cả những người lao động ở các nước. Sự đồn kết của giai cấp
cơng nhân các dân tộc là điều kiện để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ dân tộc,
thực hiện quyền bình đẳng và quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc trên thực tế.
Liên đồn cơng nhân các nước là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh quốc gia của
các Đảng cộng sản: Nó phản ảnh tính chất quốc tế của phong trào cơng nhân, sự đồn
kết trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong
trao dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Hội liên hiệp công nhân các dân tộc đề
ra mục tiêu, quy định đường lối, phương pháp kiểm tra việc giải quyết quyền dân tộc
tự quyết và quyền bìnhđẳng dân tộc. Đồng thời là yếu tố lực lượng bảo đảm thắng lợi
của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trước kẻ thù của họ. Sự đồn kết,
thống nhất của cơng nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết rộng rãi giai cấp
công nhân các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên minh cơng nhân các dân tộc có vai trị
liên kết ba nội dung của chương trình thành một chỉnh thể lực lượng. Nội dung này
phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính là kêu gọi các dân tộc, các quốc gia xích lại

gần nhau.

9


CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC
DÂN TỘC TRONG MỘT QUỐC GIA ĐA DÂN TỘC
V.I.Lênin luôn tuyên bố và khẳng định dứt khoát việc đảm bảo nguyên tắc bình
đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia trong mọi điều kiện, hồn cảnh. Bình đẳng
dân tộc là bình đẳng về mặt quyền lợi và nghĩa vụ, trong đó, V.I.Lênin nhấn mạnh việc
đảm bảo bình đẳng về quyền lợi cho các dân tộc, đặc biệt là những dân tộc ít người: “
Chúng ta địi hỏi một sự bình đẳng tuyệt đối về mặt quyền lợi cho tất cả các dân tộc
trong quốc gia và sự bảo vệ vô điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người”. Như
vậy, bình đẳng dân tộc gắn với việc bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số trong một
quốc gia. Để đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho các dân tộc, đặc biệt là dân tộc ít
người, V.I.Lênin phản đối bất cứ một đặc quyền dành cho một dân tộc: “ Khơng có
một đặc quyền nào cho bất cứ dân tộc nào, mà là quyền bình đẳng hoàn toàn của các
dân tộc” ; “ Tất cả các dân tộc trong nước đều tuyệt đối bình đẳng và mọi đặc quyền
của bất cứ dân tộc nào hoặc ngôn ngữ nào đều bị coi là không thể dung thứ và trái với
hiến pháp”. Về nội dung của bình đẳng giữa các dân tộc, theo V.I.Lênin phải bảo đảm
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: “ Một Nhà nước dân chủ khơng thể dung
thứ một tình trạng áp bức, kiềm chế của một dân tộc này đối với bất cứ dân tộc nào
khác trong bất cứ lĩnh vực nào, trong bất cứ nghành hoạt động xã hội nào”.
Bình đẳng dân tộc gắn liền với việc đảm bảo quyền lợi của dân tộc thiểu số phải
được thể hiện trong mọi lĩnh vực. Bình đẳng trong kinh tế là bảo đảm quyền lợi, lợi ích
kinh tế, quyền của các dân tộc trong tham gia vào đời sống chính trị, hệ thống chính
của đất nước.
Bình đẳng trong văn hóa, xã hội là bảo đảm quyền hưởng các thành quả phát
triển văn hóa, xã hội của đất nước, quyền được bảo vệ bản sắc văn hóa riêng của mỗi
dân tộc. Trong khi khẳng định sự toàn diện, đầy đủ trong thực hiện bình đẳng giữa các

dân tộc, V.I.Lênin nhấnmạnh đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc trong lĩnh vực văn
hóa: “ Một Nhà nước dân chủphải thừa nhận vơ điều kiện quyền tự do hồn tồn của
các ngơn ngữ dân tộc khác nhau và gạt bỏ bất cứ đặc quyền nào của một trong những
ngơn ngữ đó”. Văn hóa của một dân tộc tộc người thể hiện ở phong tục, tập quán, tín
ngưỡng và các sinh hoạt hằng ngày, trong đó thể hiện rõ nét ở ngơn ngữ riêng của dân
tộc đó. Ngơn ngữ là một thành tố của văn hóa, đồng thời là phương tiện truyền tải các
giá trị, sinh hoạt văn hóa của dân tộc người đó. V.I.Lênin khẳng định quyền tự do sử
10


dụng ngơn ngữ riêng của các tộc người chính là quyền bình đẳng về văn hóa giữa các
dân tộc. Quyền này thể hiện ở chỗ khơng có ngơn ngữ quốc gia nào có tính chất bắt
buộc, các dân tộc được học ngơn ngữ của mình trong trường học, được sử dụng ngơn
ngữ của mình trong mọi trường hợp ví dụ như tịa án… “Đảm bảo sự bình đẳng hồn
tồn giữa các dân tộc và khơng có một ngơn ngữ quốc gia có tính chất bắt buộc, đảm
bảo cho dân cư có các trường học dạy bằng tất cả các ngơn ngữ địa phương”.
Theo V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc về mặt văn hóa khơng chỉ là việc các dân tộc
được tự do sử dụng ngơn ngữ của mình, được bảo vệ bản sắc văn hóa riêng của mình
mà cịn là được hưởng công bằng các giá trị, thành tựu phát triển văn hóa chung của
đất nước: “Tỷ lệ kinh phí chi tiêu cho nhu cầu văn hóa- giáo dục của các dân tộc ít
người của một địa phương khơng thể thấp hơn tỷ lệ mà dân tộc ít người đó chiếm so
với tồn bộ dân số của địa phương khơng thể thấp hơn tỷ lệ mà dân tộc ít người đó
chiếm so với toàn bộ dân số của địa phương”.
Theo V.I.Lênin, để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết phải ban
hànhvà hoàn thiện trật tự pháp luật quốc gia, trong đó thừa nhận đầy đủ quyền bình
đẳng, trước hết là về lợi ích giữa các dân tộc. Dân tộc thiểu số chỉ có thể được giải
quyết bằng việc ban hành một bộ luật chung của nhà nước, trong một quốc gia dân chủ
sâu sắc, không xa rời nguyên tắc bình quyền. Pháp luật là cơ sở chắc chắn và hiệu quả
nhất để bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số. Vì vậy, hồn thiện hệ thống pháp luật
quốc gia, thừa nhận quyền và nghĩa vụ bình đẳng giữa các dân tộc thiểu số. Vì vậy,

hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, thừa nhận quyền và nghĩa vụ bình đẳng giữa
các dân tộc trên mọi lĩnh vực là điều kiện đầu tiên để đảm bảo bình đẳng giữa các dân
tộc. Theo V.I.Lênin, không những pháp luật trong mọi lĩnh vực phải thừa nhận sự bình
đẳng giữa các dân tộc mà cịn phải có luật riêng về vấn đề dân tộc, thừa nhận sự bình
đẳng giữa các dân tộc. Pháp luật đó cũng phải đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của
nó, và quy định các chế tài để loại bỏ sự bất bình đẳng về lợi ích giữa các nhóm dân
tộc. Theo V.I.Lenin, khơng chỉ pháp luật trên mọi lĩnh vực đều phải thừa nhận sự bình
đẳng giữa các dân tộc mà cần phải có một đạo luật riêng về vấn đề dân tộc, thừa nhận
sự bình đẳng giữa các dân tộc. Pháp luật đó cịn phải đảm bảo tính hiệu lựcvà hiệu quả
cao, có chế tài loại bỏ những bất bình đẳng quyền lợi giữa các dân tộc. “Đảng dân chủ
- xã hội đòi ban bố một đạo luật chung cho cả nước để bảo vệ các quyền lợi của mọi
dân tộc ít người ở bất cứ nơi nào trong nước. Theo đạo luật đó, mọi biện pháp mà
11


thơng qua giảm bớt quyền của dân tộc ít người ( trong lĩnh vực giáo dục, sử dụng một
tiếng nói nào, trong ngân sách) đều phải được tuyên bố là khơng có hiệu lực, và kẻ nào
thi hành biệnpháp ấy sẽ bị trừng trị”. Sau cách Mạng tháng Mười Nga, nguyên tắc bình
đẳng dân tộc được nêu lên trong tuyên ngơn dân quyền của nước Nga, sau đó được ghi
vào Hiến pháp Liên Xơ, quy định bình đẳng của cơng dân Xô Viết, không phụ thuộc
dân tộc, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.
Theo V.I.Lênin, việc xây dựng vùng tự trị dân tộc ở một số nơi trong quốc gia
cũng là để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc: “Hiển nhiên là người ta không
thể quan niệmđược một quốc gia hiện đại thực sự dân chủ mà lại khơng có một quyền
tự trị cho mọi vùng có những đặc điểm quan trọng đơi chút về kinh tế hoặc về lối sinh
sống và có một thành phần dân tộc riêng trong dân cư”. Thực hiện quyền tự trị ở một
số vùng là để bảo đảm cho những chính sách phù hợp với dân tộc đó, song khơng phải
chỗ nào cũng có thể thiết lập quyền tự trị dân tộc mà V.I.Lênin đã đưa ra điều kiện để
thành lập quyền tự trị là những vùng phải có những đặc thù riêng biệt về kinh tế, văn
hóa hoặc một vùng rộng lớn chỉ có một thành phần dân tộc: “ Một vùng gồm nhiều địa

phương có những điều kiện địa lý, sinh hoạt hay kinh tế riêng hoặc có thành phần dân
tộc đặc biệt, có quyền thành lập một khu tự trị với một nghị viện tự trị của khu”. Như
vậy, không nhất thiết phải thành lập những vùng tự trị ở những nơi khơng có điều kiện
trên. Thí dụ như ở Việt Nam, các dân tộc cư trú phân tán và xen kẽ, số xã chỉ có một
dân tộc sinh sống là rất ít, khơng có một vùng rộng lớn nào mà chỉ có một dân tộc sinh
sống, do đó khơng có điều kiện để thành lập các vùng tự trị như V.I.Lênin khẳng định.
Việc thực hiện vùng tự trị cũng phải diễn ra một cách hòa bình và theo ý kiến của nhân
dân vùng đó: “Chỉ có dân cư địa phương mới có thể có ý kiến một cách hồn tồn
chính xác về tất cả những điều kiện ấy, và chính dựa vào ý kiến đó mà nghịviện trung
ưng của Nhà nước sẽ quy định biên giới của những khu tự trị và quyền hạn của các
xây mơ tự trị”. Theo Lênin, quyền tự trị này khơng mâu thuẩn và phá hoại tính thống
nhất quốc gia: “ Một nhà nước dân chủ phải thừa nhận quyền tự trị của các vùng khác
nhau,nhất là những vùng và những khu có thành phần dân tộc khác nhau. Quyền tự trị
đó khơng hề mâu thuẫn với chế độ tập trung dân chủ; trái lại, chỉ có nhờ quyền tự trị
của các vùng mới có thể thực hiện được chế độ tập trung dân chủ thực sự ở một quốc
gia lớn có nhiều thành phần dân tộc khác nhau”. Trên cở sở luật pháp chung thống

12


nhất, các vùng tự trị có thể xây dựng những biện pháp phù hợp với đặc thù dân tộc
mình để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của
họ, thực hiện bình đẳng dân tộc.
V.I.Lênin cịn đưa ra một vấn đề có tính nhân văn trong việc thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc tộc người, đó là việc thực hiện chính sách ưu tiên, ưu ái hơn đối
với một dân tộc nhỏ hơn, kém phát triển. Bình đẳng dân tộc khơng có nghĩa là bình
qn chủ nghĩa, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các dân tộc, nhất là khi các
dân tộc đang có sự chênh lệch lớn trên trên thực tế. Khi các dân tộc có trình độ phát
triển khơng đều nhau, địi hỏi chia đều về nghĩa vụ sẽ ngày càng làm gia tăng khoảng
cách giữa các dân tộc. V.I.Lênin chỉ rõ cần có sự ưu tiên đối với các dân tộc kém phát

triển hơn trong thực hiện một số nghĩa vụ hoặc trong phân bố quyền lợi: “ Không chỉ
là ở chỗ tôn trọng quyền bình đẳng về hình thức của các dân tộc đi áp bức, dân tộc lớn
phải chịu, để bù lại cho sự khơng bình đẳng đang hình thành thực tế trong cuộc sống.
Người nào khơng hiểu điều đó, thì người đó không hiểu không hiểu thái độ vô sản
thực sự đối với vấn đề dân tộc, người đó về thực chất vẫn đứng trên quan điểm tiểu tư
sản và do đó không thể không từng giờ từng phút trượt xuống quan điểm tư sản”.
V.I.Lênin chỉ rõ, khi sự bất bình đẳng đang tồn tại trên thực tế, khi giữa các dân tộc,
tộc người có sự phát triển khơng đồng đều thì việc ưu tiên cho dân tộc kém phát triển
hơn ( là sự khơng bình đẳng đối với dân tộc phát triển hơn) cũng chính là thực hiện
bình đẳng dân tộc. Đây là một giá trị mà các Đảng Cộng sản cần nhận thức rõ ràng
trong hoạch định chính sách dân tộc trong một quốc gia dân tộc.

13


CHƯƠNG IV. SỰ VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CẦN TIẾP TỤC, BỔ SUNG VỀ THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
TRONG BỐI CẢNH MỚI HIỆN NAY.
1. Những tư tưởng tiến bộ của nước ta trong sự vận dụng theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin
Quán triệt tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, về bình đẳng dân tộc, Đảng ta
đặc biệt quan tâm việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam. Địa bàn cư trú của
đồng bào dân thiểu số chủ yếu là ở miền núi, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và
sinh hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc ở nước ta. Vì
vậy, trước hết, Đảng ta khẳng định vấn đề then chốt và quan trọng nhất trong thực hiện
bình đẳng dân tộc ở Việt Nam chính là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân
tộc hiện nay. “ Chính sách dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự
chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đơng
người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả
các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết

giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Trên cơ sở thừa kế quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã chủ trương: “ Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác, phải có chính sách và
tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế,
văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thân của nhân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc, tôn trọng và phát huy những
phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc”. Đảng ta khẳng
định xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ghi nhận đầy đủ quyền của đồng bào
dân tộc thiểu số là giải pháp quan trọng để thúc đẩy bình đẳng dân tộc. Bên cạnh đó,
việc quan tâm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số cũng
là giải pháp để thực hiện bình đẳng dân tộc: “ Vấn đề xây dựng kinh tế miền núi là một
bộ phận khăng khít của chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới của cách
mạng. Nó bảo đảm cho miền núi dần dần tiến kịp miền xuôi, cho các dân tộc thiểu số
tiến kịp dân tộc Kinh, thực hiện đầy đủ sự bình
đẳng và tăng cường đồn kết giữa các dân tộc. Nó phù hợp với lợi ích thiết thân của
các dân tộc miền núi, đồng thời cũng phù hợp với lợi ích thiết thân của tồn thể nhân
14


dân lao động miền Bắc”. Khi miền núi còn kém phát triển thì chỉ có sự ưu tiên, quan
tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số mới tạo ra
sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc để đuổi kịp đồng bào dân tộc đa số, thực hiện mục
tiêu tất cả các dân tộc đều được ấm no, hạnh phúc. Tập trung, ưu tiên mọi nguồn lực
để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện bình
đẳng dân tộc, điều này tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong văn kiện Đại hội XII:
“tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đơng đồng bào
dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải
miền Trung”.
Đảng ta cũng nhận thấy việc thực hiện bình đẳng dân tộc phải tồn diện trên mọi

lĩnh vực và đã xác định những thách thức lớn trên từng lĩnh vực. Bình đẳng về chính
trị bao gồm việc tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số tham gia và có đại diện trong
chính phủ và các cơ quan quyền lực nhà nước. Để thực hiện đầy đủ nguyên tắc các dân
tộc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, chính quyền cộng đồng phải có đại diện của đủ số
lượng các dân tộc trong cộng đồng. ít nhiều được quyết định bởi số lượng các nhóm
dân tộc trong khu vực (mặc dù có thể có một số nhóm dân tộc nhất định trong khu vực
rất ít vậy nên để đảm bảo tính thống nhất và thực thi cơng bằng các chính sách, cũng
cần phải có đại diện trong chính phủ). Tuy nhiên, việc quy định nghĩa vụ đóng góp của
các dân tộc mặc nhiên được quy định như nhau, không nên và nên áp dụng cho các
dân tộc có mức sống và trình độ học vấn cịn quá thấp.Đảng ta cũng chỉ ra những nội
dung của bình đẳng dân tộc về mặt kinh tế được xác định là “Mở mang kinh tế các
vùng thiểu số, cải thiện đời sống cho họ, chú trọng tiếp tế những thứ cần thiết cho đời
sống hàng ngày của họ”. Bảo đảm những lợi ích kinh tế và nâng cao đời sống vật chất
cho đồng bào dân tộc thiểu số là nội dung cốt lõi của bình đẳng dân tộc về mặt kinh tế.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc về mặt văn hóa là các dân tộc được tự do bảo tồn và
phát triển văn hóa truyền thống, chữ viết của mình, được hưởng các thành quả phát
triển văn hóa chung của đất nước “Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển,
tồn tại, tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển tồn tại và được bảo đảm” ;
“Phát triển bình dân học vụ và phát triển văn nghệ dân tộc ở các vùng thiểu số, phổ
biến việc là tinh hoa tiếng nói của các dân tộc chưa có chữ và bảo đảm việc dạy học
bằng các thứ tiếng đó trong các trường của dân tộc thiểu số (nhất là ở các lớp dưới)”.

15


Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thực hiện tự trị dân tộc, Đảng
ta cũng đã chủ trương thực hiện tự trị dân tộc: “Cần quan niệm cho đúng vấn đề thành
lập khu tự trị là để làm cho các dân tộc được bình đẳng trong một quốc gia thống
nhất”. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng minh những khu tự trị này không tạo sự thống
nhất quốc gia và việc thành lập các khu tự trị là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin

một cách vội vàng, chưa xem xét kỹ các điều kiện để thành lập. Vì vậy, hiện nay,
chúng ta khơng tiếp tục thực hiện khu tự trị dân tộc nữa.
2. Một số quan điểm phù hợp với thực tiễn nước ta
Cấp ủy các cấp quan tâm đến quyền lợi trong công tác quy hoạch, đào tạo, bổ
nhiệm cán bộ là người dân tộc thiểu số. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ người
DTTS tham gia hệ thống chính trị các cấp ngày càng tăng. Việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở ở miền núi đi vào thực chất hơn. Điều này bảo đảm quyền bình đẳng về
chính trị cho các dân tộc. Chúng tôi cũng tạo điều kiện, hỗ trợ vật chất, nguồn lực để
người dân bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Tuy
nhiên, vẫn có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển của các dân tộc. Đời sống vật
chất của một số đồng bào dân tộc thiểu số còn dưới mức chuẩn chung, phần lớn người
nghèo là người dân tộc thiểu số, cứ hai người nghèo thì có một người là người dân tộc
thiểu số. Trình độ học vấn của người dân tộc thiểu số cũng thấp hơn nhiều so với
người Kinh. Vì vậy, để thực hiện thành cơng bình đẳng dân tộc, chúng ta phải vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, bổ sung những quan điểm phù hợp với thực tiễn
nước ta:
Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Chúng ta
cần hết sức tránh tư tưởng “dân tộc lớn” trong xây dựng, hoạch định các chính sách
liên quan đến vấn đề dân tộc. Bởi lẽ, áp đặt tư tưởng, quan điểm của người dân tộc đa
số cho dân tộc thiểu số dù với mong muốn tốt đẹp cũng là bất bình đẳng dân tộc.
Thứ hai, tăng viện trợ từ các nước phát triển hơn cho các nước kém phát triển
hơn. Để đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển
hơn nữa, cần có sự giúp đỡ và hỗ trợ từ các nhóm dân tộc khác, bao gồm cả người
Kinh. Nó đã được Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển và thực tiễn đã khẳng định tính
đúng đắn của nó.
Thứ ba, phát huy vai trị của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ lực,
cố
16



gắng phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ti, ỷ lại trơng chờ trong thực hiện bình đẳng dân
tộc.
Thực tiễn thời gian qua đã chứng minh đây là nội dung rất quan trọng để đồng bào
thiểu số tiến kịp đồng bào đa số, thực hiện bình đẳng dân tộc, tất cả các dân tộc đều no
ấm, hạnh phúc. Đảng và Nhà nước cần có những chính sách tránh cho khơng mà có
điều kiện để động viên họ, đồng thời cần giáo dục, vận động, tuyên truyền để nâng cao
ý thức vươn lên của đồng bào.
Thứ tư, cần làm rõ vai trị của nhà nước, chính quyền địa phương và cán bộ cơng
chức trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc. Nhà nước cần xây dựng chính sách, cơ
chế phát triển mạnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó thu hẹp khoảng cách bất
bình đẳng, đạt được bình đẳng giữa các dân tộc. Khi thực hiện các chính sách, chính
quyền địa phương và các quan chức phải làm việc với cơng chúng để đưa ra các kế
hoạch và chính sách hiệu quả cũng như khả thi để đầu tư nguồn lực vào phát triển kinh
tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
3. Liên hệ thực tiễn vấn đề dân tộc nước ta hiện nay
Nước ta có 54 dân tộc. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm
13% dân số và sống rải rác khắp cả nước. Có 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến
dưới 100.000 người và 20 dân tộc có số dân dưới 100.000 người. 16 dân tộc có số dân
từ dưới 10.000 người đến dưới 1.000 người. Sáu dân tộc có dân số dưới 1.000 người.
Nét đặc sắc trong quan hệ dân tộc của nước ta là truyền thống, sức mạnh và sự
đoàn kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã được thử thách
trong đấu tranh chống kẻ thù. Tổ quốc đã được đánh, bảo vệ và xây dựng qua hàng
ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Những yếu tố đặc biệt của nền kinh tế lúa gạo đã
sớm tạo ra một cơ cấu nông thôn mạnh mẽ. Trải qua lịch sử đấu tranh chống ngoại
xâm, đất nước ta hình thành từ rất sớm và trở thành một quốc gia thống nhất dưới chế
độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan nhằm đoàn kết các dân tộc trên cơ sở
vì lợi ích chung, chung vận mệnh lịch sử và tương lai chung. Tuy nhiên, cùng với
những mặt tích cực, trong quan hệ dân tộc đơi khi cịn có những hiện tượng tiêu cực.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn dùng mọi thủ đoạn hịng chia rẽ đất
nước, can thiệp vào cơng việc nội bộ của đất nước. Vì vậy, phát huy truyền thống đồn

kết, xóa bỏ thành kiến, ngờ vực đối với nhà nước, kiên quyết đập tan âm mưu chia cắt

17


nhà nước của kẻ thù là nhiệm vụ quan trọng của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ
nhà nước Tổ quốc của chủ nghĩa xã hội ngày nay.
Hình thức cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy ở một số vùng có sự
tập trung tương đối của các dân tộc nhưng không phải là vùng riêng biệt. Vì vậy, các
dân tộc nước ta khơng có lãnh thổ riêng, khơng có kinh tế riêng, sự thống nhất hữu cơ
giữa các dân tộc, các quốc gia về mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng
cố. Tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa... giữa các dân tộc,
giữa các vùng dân cư là đặc điểm cần được quan tâm khắc phục từng bước, tiến tới
bình đẳng, đồn kết. Nhiều dân tộc ở nước ta, các nhóm rất phổ thơng, chủ yếu dựa
vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc còn thiếu thốn, đói
nghèo kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, tình trạng mù chữ và tái mù chữ còn xuất
hiện ở nhiều nơi, đường sá, phương tiện đi lại cịn khó khăn, điện, nước phục vụ đời
sống cịn rất khan hiếm, thơng tin và bưu điện nhiều nơi chưa đáp ứng được nhu cầu
của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa. Do điều kiện tự nhiên, xã hội, hậu quả của
các chế độ áp bức, bóc lột trong lịch sử, các dân tộc mới có trình độ và sự phát triển
khác nhau về văn hóa....
Cùng với bản sắc văn hố chung, từng dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Việt
Nam cịn có nền văn hố với bản sắc riêng và phong phú. Bởi vì bất cứ dân tộc nào dù
đơng người hay ít người, đều có truyền thống văn hố riêng, thể hiện truyền thống lịch
sử, cuộc sống văn hoá và lòng tự hào dân tộc với các bản sắc văn hoá riêng. Đặc trưng
của bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm chữ viết, tiếng nói, văn hố, lễ hội, nhạc cụ dân
tộc, trang phục, phong tục tập quán và quan hệ gia đình dịng họ mỗi một dân tộc có
bản sắc riêng: Thái, Chăm, Mơng, Giarai, . .. Một số dân tộc thiểu số gắn với các tôn
giáo khác như: đạo Phật, Hồi giáo, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa. .. Vì vậy Đảng và
Nhà nước Việt Nam ln tơn trọng bản sắc văn hố riêng và quyền tự do tôn giáo của

các dân tộc. Sự hội nhập đa dạng mang bản sắc văn hoá của các dân tộc càng làm
phong phú hơn bản sắc văn hoá của đất nước. Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13%
dân số cả nước nhưng đều sinh sống trên những vùng có vị trí chiến lược quan trọng
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát triển kinh tế, đó là các vùng nơng thơn,
những vùng núi cao và hải đảo. .. nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là
căn cứ địa cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ huyết thống với các
dân tộc ở những nước lân cận và khu vực.
18


Trong đó, quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau về quyền lợi và
nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tăng cường khối đại đồn
kết
tồn dân tộc:
Bình đẳng trên lĩnh vực chính trị: Quyền bình đẳng về chính trị của các dân tộc
không chỉ được thừa nhận trong Hiến pháp và pháp luật, mà quan trọng hơn là phải
được
thừa nhận trong thực tế, đó là quyền làm chủ đất nước. Các dân tộc đều có quyền tham
gia chính quyền, quản lý xã hội.
Bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế: Là sự đảm bảo bình đẳng trong quan hệ lợi ích
kinh tế của các dân tộc, từng bước rút ngắn khoảng cách và tạo ra sự phát triển đồng
đều về kinh tế giữa các dân tộc, các vùng, miền. Thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế
giữa các dân tộc phụ thuộc vào sự nỗ lực vươn lên của từng dân tộc, đồng thời cần có
sự giúp đỡ của các dân tộc khác, nhất là dân tộc đã đạt được sự phát triển kinh tế ở
trình độ cao hơn.
Bình đẳng trên lĩnh vực văn hoá: Thể hiện ở sự trân trọng các giá trị, bản sắc văn
hoá, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, tạo điều kiện để văn hoá mỗi dân tộc phát
triển hài hoà trong sự phát triển chung của quốc gia đa dân tộc. Bình đẳng trên lĩnh
vực văn hố hiện nay khơng chỉ thể hiện ở sự bảo đảm tất cả các dân tộc có quyền sử
dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc Việt Nam mà cịn có quyền tiếp thu khơng chỉ các

giá trị văn hố của dân tộc khác mà cịn được hưởng thụ giá trị văn hố của dân tộc
Việt Nam thơng qua sự kết hợp hài hoà các bản sắc văn hố của cộng đồng các dân tộc
ở nước mình, đồng thời tiếp thu các giá trị văn hoá của thế giới. Không ngừng nâng
cao đời sống cho các dân tộc thiểu số.
Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực xã hội: Thể hiện qua thái độ ứng xử bình đẳng
trong quan hệ các vấn đề xã hội giữa các dân tộc, không phân biệt dân tộc đa số hay
thiểu số, nhằm phát triển lành mạnh các quan hệ xã hội, tộc người, đảm bảo an sinh xã
hội cho tất cả các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc. Kết hợp hài hòa giữa các thiết chế
xã hội truyền thống của các dân tộc thiểu số với các thiết chế xã hội hiện đại của quốc
gia để quản lý, tổ chức đời sống xã hội ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, vừa
đảm bảo lợi ích của dân tộc, vừa đảm bảo lợi ích của quốc gia. Bình đẳng xã hội giữa

19



×