PHẦN I: MỞ ĐẦU
Kinh tế và chính trị là hai mặt trọng yếu nhất của đời sống xã hội; đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá
trình đối mới, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam đang trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền nơng nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, phức
tạp với nhiệm vụ quan trọng là xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, điều kiện tiên quyết là phải có một nền kinh tế vững chắc, ổn định dựa trên
một thể chế chính trị tiến bộ, phù hợp.
Đổi mới đồng bộ kinh tế với chính trị ở Việt Nam hiện nay là vấn đề lớn cần
tổng kết, tiếp tục nghiên cứu, và có cách thức phù hợp. Việc nghiên cứu vấn đề đổi
mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị nhằm giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về vai
trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1. Cơ sở lý luận về đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị
1.1. Khái niệm “kinh tế" và "chính trị"
"Kinh tế" là một phạm trù dùng để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ kinh tế (quan
hệ giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất) của một xã hội ở thời điểm lịch sử
xác định, để chỉ cơ sở kinh tế của xã hội. Trong tổ hợp tất cả các quan hệ ấy thì
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định, chi phối các quan
hệ kinh tế khác, như quan hệ tổ chức sản xuất xã hội, quan hệ phân phối sản phẩm.
Kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là nguồn
gốc của mỗi biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị. Đổi mới kinh tế ở nước ta
hiện nay là đổi mới về tư duy lý luận về kinh tế, đổi mới quan điểm, chủ trương,
chính sách, pháp luật kinh tế và hoạt động chuyển đổi nền kinh tế.
"Chính trị" theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên quan đến
mối quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giữa các giai cấp, xét rộng hơn
1
nữa là quan hệ giữa các dân tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Xét về thực chất,
chính trị là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân
tộc, trong đó trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế trong việc giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước. Chính trị là tồn bộ những hoạt động có liên quan đến mối
quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia, các lực lượng xã hội xoay quanh vấn
đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước.
1.2. Chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
Sự phát triển, bổ sung của V.I.Lênin vào quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về vai trị của chính trị đối với kinh tế được thể hiện đặc biệt rõ nét ở
hai luận điểm kinh điển của Người: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"
và "Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế".
Về luận điểm thứ nhất: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Luận
điểm này cần được hiểu như sau: Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là
trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của thực trạng kinh
tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế căn bản của các giai cấp, tầng lớp khác nhau
trong nền kinh tế. Chẳng hạn, phong trào cơng nhân, cơng đồn, các đảng cộng
sản... như là sự phản ánh trực tiếp vị trí, những lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân công nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp.
Về phương diện nhận thức, việc khẳng định sự ưu tiên của chính trị so với
kinh tế là đúng, hợp lý. Bởi vì, ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho những vấn đề căn
bản, quyết định đối với sự phát triển của bản thân kinh tế.
Về phương diện thực tiễn, giành, nắm quyền lực chính trị là điều kiện cần, có
ý nghĩa quyết định để giai cấp cách mạng triển khai xây dựng một chế độ kinh tế xã hội vì lợi ích của bản thân và những giai cấp, lực lượng xã hội đồng minh với
mình. Hơn thế, trong thực tế nếu khơng có một đường lối chính trị đúng đắn thì một
giai cấp nhất định không thể giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình và do
vậy cũng khơng thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. Như Lênin đã khẳng định:
"Khơng có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, khơng
2
thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó, cũng khơng thể hồn thành
được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất".
Vai trị quy định của kinh tế được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, với tư cách nền tảng vật chất, cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội,
kinh tế sản sinh ra một kết cấu, thể chế chính trị tương ứng.
Thứ hai, xét đến cùng sự biến đổi căn bản trong kinh tế dẫn đến sự biến đổi
căn bản trong chính trị. Với sự biến đổi căn bản của kinh tế, thì trong chính trị trước
sau cũng diễn ra những biến đổi tương ứng. Khi trong kinh tế chưa diễn ra những
thay đổi căn bản thì trong lĩnh vực chính trị cũng khó xảy ra biến động gì đáng kể.
Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị cịn là sự tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa duy vật mác xít chỉ ra rằng, chính trị nảy sinh
trên nền tảng kinh tế, chịu sự quy định của kinh tế, song nó lại mang tính độc lập
tương đối. Chính trị khơng phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà nó tác động
trở lại rất mạnh đối với kinh tế. Trong hệ thống chính trị của xã hội thì Nhà nước có
vai trị đặc biệt quan trọng, quyết định sự hiện thực hóa các tất yếu kinh tế, vì như
Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một tiềm lực
kinh tế".
1.3. Tính tất yếu và bản chất của quá trình đổi mới
Sự nghiệp đổi mới đất nước là một tất yếu khách quan của cách mạng, là vấn
đề mang tầm chiến lược đối với cách mạng Việt Nam, Đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ VII (1991) đã thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001) tiếp tục khẳng
định cơng cuộc đổi mới, khẳng định tính nhất qn của “Con đường đi lên của Việt
Nam là sự Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Để tăng cường sức chiến đấu
và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới nhiều mặt; đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác” [8, tr.124], Đại hội VII chỉ rõ: “Quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng
3
những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện
quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi
mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị” [9, tr.54].
Đại hội VIII chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý báu: “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời đổi mới chính trị”
[10, tr.71]
. Đại hội IX khẳng định tiếp tục quyết tâm thực
hiện đường lối đổi mới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, coi đổi mới kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm. Những thành tựu của đổi mới kinh tế là điều kiện cơ bản để
đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ
X nhấn mạnh: Đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ
kinh tế, chính trị đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát triển quan điểm
đổi mới từ Đại hội VI đến Đại hội XII đã nhấn mạnh: “Những thành tự to lớn, có ý
nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo” [11,tr16].
2. Nội dung đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị
Về bản chất, kinh tế thị trường là hệ quả tất yếu của quá trình xã hội hóa các
lực lượng sản xuất; là hệ thống các quan hệ kinh tế do nền sản xuất hàng hóa tạo ra,
có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực rất quan trọng; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị
chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai
trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
4
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Năng suất lao động xã hội bình quân tăng đổi mới hệ thống chính trị đã và
đang được triển khai trên các nội dung chủ yếu:
Một là đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội
nói chung và các thành tố trong hệ thống chính trị nói riêng.
Hai là đổi mới hoạt động lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội.
Ba là đổi mới tổ chức, bộ máy và phương thức điều hành của Chính phủ, gắn
với cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia.
Bốn là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Năm là đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị.
Bước vào giai đoạn phát triển mới, đổi mới hệ thống chính trị cần thực hiện
theo những nội dung: Phải tạo điều kiện chuyển biến nhận thức và thống nhất nhận
thức trong toàn Đảng, trong các cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị, nắm
vững cơ sở khoa học của đổi mới từ đổi mới nhận thức phải chuyển thành đổi mới
trong tổ chức và hành động. Thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là dân chủ
hóa đời sống của Đảng, của Nhà nước và của xã hội. Điều đó phải gắn liền với thể
chế hóa bằng pháp luật, dựa vào pháp luật. Đảm bảo cho việc đổi mới luôn xuất
phát với tinh thần trọng dân và trọng pháp.
Trong các thành tố đó, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo về đường lối, chủ
trương chính sách ở tầm chiến lược, Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể tham gia phối hợp giám sát, kiểm tra, tư vấn, phản
biện chính trị xã hội, tạo ra được hệ thống dân chủ năng động, hợp tác cộng đồng
trách nhiệm, đồng thuận, phát triển nhằm mục đích ổn định chính trị, phát triển văn
hóa, xây dựng mơi trường xã hội lành mạnh, cộng đồng đồn kết, tăng cường pháp
luật, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, tạo bước chuyển biến tích cực trong
cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
5
Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta đã khởi đầu bằng đổi
mới toàn diện và sớm chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị. Phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xem đây là một điều kiện quan
trọng để tiến hành đổi mới chính trị. Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng
tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
3. Thực trạng và giải pháp đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở
Việt Nam hiện nay
3.1. Thực trạng
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị, từ khi đổi mới (năm 1986)
đến nay, trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung và quan điểm
của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng, Đảng ta đã chủ
trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Thành cơng nổi bật là Đảng ta đã xác định đúng đắn
trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong đổi mới. Cụ thể, bắt đầu từ đổi mới tư duy;
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Cùng với đổi mới tư duy, Đảng chủ
trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là sự vận
dụng đúng đắn quan điểm của C. Mác về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị. Thời kỳ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính
trị. Kết quả là, chúng ta đã đổi mới một cách cơ bản về cơ sở hạ tầng, tức là từ nền
kinh tế một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần; từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối
bình quân theo chế độ hiện vật sang phân phối theo hiệu quả lao động, theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội.
6
Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991) đến nay, tình hình đã cho
phép và địi hỏi phải đổi mới căn bản về chính trị. Tuy nhiên, trong đổi mới chính
trị, Đảng ta khẳng định có những vấn đề thuộc về nguyên tắc là: Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động; kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực
hiện chế độ chính trị nhất nguyên, một đảng lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;
các khâu khác của hệ thống đó được tiến hành đổi mới thận trọng và từng bước.
Đặc biệt, chính trị là lĩnh vực tác động trực tiếp đến các mối quan hệ phức tạp và
nhạy cảm trong xã hội, bởi vậy, Đảng đã chủ động chỉ đạo: “Việc đổi mới trong hệ
thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc,
không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn”. Đây là một chủ
trương đúng và trúng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - một tiền đề tiên quyết
cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra, q trình đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết, đó là: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng,
yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mơ
có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
cịn thấp. “Tổ chức bộ máy của Đảng và tồn hệ thống chính trị cịn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, cơng chức kết quả cịn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những
không giảm mà lại tăng...”. Vì thế, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu và
nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và
đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”.
7
3.2. Giải pháp đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Nhận thức đầy đủ về tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị
- Tính đồng bộ trước hết là tư duy, nhận thức cả đổi mới toàn diện tư duy
kinh tế lẫn đổi mới toàn diện tư duy chính trị. Chúng ta xác định trọng điểm, điểm
nhấn đột phá giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là đổi mới chính trị trong khi vẫn tiếp tục phát triển kinh tế, tăng trưởng
kinh tế, đổi mới kinh tế để tạo ra tiềm lực vật chất cho xã hội.
- Đồng bộ về thể chế. Thể chế ở đây là hệ thống luật pháp của Nhà nước và
những hệ thống quy định luật lệ trong Đảng. Điều lệ Đảng phải được coi như bộ
luật của Đảng. Nó quan trọng như Hiến pháp của Nhà nước, khi đó đảng viên vừa
phải tuân theo Hiến pháp với tư cách là công dân, vừa tuân thủ Điều lệ Đảng với tư
cách là đảng viên.
- Tính đồng bộ thể hiện ở chính sách, cơ chế và chế tài. Trong chính sách là
cả một hệ thống lớn: chính sách kinh tế, chính sách chính trị, chính sách xã hội,
chính sách văn hóa; chế tài khơng chỉ tồn tại ở đường lối chiến lược, chế tài biểu
hiện như một chính sách: chính sách chính trị, chính sách cơng. Có cơ chế chính
sách đúng, nhưng khơng đủ điều kiện thì khó có thể giải quyết tốt được mối quan hệ
đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Điều kiện đó bao gồm cả điều kiện vật chất và
điều kiện tinh thần, nhất là điều kiện vật chất. Đã là điều kiện vật chất, phải tính đến
phương thức phân bổ các nguồn lực tài chính. Từ đó, làm cho các giải pháp khả
năng thành giải pháp hiện thực, làm cho tinh thần đổi mới, quyết sách chiến lược
đổi mới đến hiện thực đổi mới.
3.2.2. Giải quyết hiệu quả mối quan hệ đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và
chính trị
- Về kinh tế, trên cơ sở tiếp tục đổi mới tồn diện về kinh tế để có một cơ sở
đúng đắn cho việc hoạch định chính sách, đường lối kinh tế phát triển: Trước hết,
củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Chủ đạo trên cơ sở có thực lực, tự
phát triển để có thực lực, để đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thương trường; Tổ
8
chức, sắp xếp lại kinh tế hợp tác, trong đó vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn theo hướng kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất lớn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa XII, về hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân, thực hiện liên kết kinh tế nhà nước với
kinh tế tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư tập trung trọng điểm, đồng thời khắc phục
tình trạng manh mún, dàn trải, chia cắt, lãng phí. Kinh tế tư nhân liên kết với kinh tế
nhà nước sẽ tạo thành thế và lực của nền kinh tế để giải quyết các vấn đề về việc
làm, đời sống, an sinh, phúc lợi xã hội,... mở ra điều kiện và tạo động lực để thu hút
các nhà đầu tư nước ngồi.
- Về chính trị, đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, trước
hết là “Tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận về Đảng
cầm quyền”. Đây là vấn đề quan trọng nhất về chính trị hiện nay ở Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền. Vấn đề đặt ra là cơ chế giám sát và
kiểm soát quyền lực cần được bắt đầu từ trong Đảng và đi liền với nó là dân chủ
trong Đảng nhằm tạo ra một thói quen, một nhu cầu biết lắng nghe ý kiến của dân từ
cơ sở, tiếng nói của người dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, quan chức, công
chức bắt đầu từ cơ sở. Giải quyết tốt các vấn đề về thực hành dân chủ, nghiên cứu lý
luận về Đảng cầm quyền và kiểm soát quyền lực. Tháo gỡ được những vấn đề này
sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển chứ không cản trở, thậm chí khơng làm tổn hại đến
kinh tế và như thế nhân dân được lợi từ đổi mới chính trị.
3.2.3. Đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế chính là vấn đề
xây dựng Đảng về văn hóa
Nhất là văn hóa của người lãnh đạo quản lý, văn hóa của người đứng đầu, văn
hóa của cấp ủy các cấp và khơng có cái văn hóa nào quan trọng hơn là văn hóa ứng
xử với dân, văn hóa chịu trách nhiệm trước dân, cả xin lỗi, từ chức và tự xấu hổ.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng tiếp tục triển khai quyết liệt hơn,
cụ thể hơn, rõ ràng hơn trong nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
9
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với 27 biểu hiện cụ thể để cán bộ, đảng
viên và các tổ chức đảng tự soi chiếu, rèn luyện phấn đấu phòng, chống và khắc
phục. Đây là bước tiến rất quan trọng về tính hợp pháp, hợp lý và tính chính đáng
của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đến lúc phải nhấn mạnh xây dựng Đảng về văn
hóa chứ khơng chỉ dừng lại ở đạo đức, mặc dù đạo đức là cái cốt lõi của xã hội,
nhưng trong văn hóa cịn có khoa học, nghệ thuật. Trong văn kiện Đại hội XII cũng
đã tiếp cận đến vấn đề văn hóa khi chỉ ra: “Xây dựng văn hóa vào trong chính trị và
kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà
nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh”.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nhìn lại 30 năm qua, những điều chỉnh, đổi mới thể chế kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội,… đặc biệt là thể chế kinh tế ở Việt Nam, đã có những bước tiến
đáng kể và có những tác động quyết định đến thành công của công cuộc đổi mới đất
nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc tiếp tục
được phát huy; cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú
trọng và đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả được
nâng cao, v.v.
Thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đồng bộ là bảo đảm sự hài
hịa giữa kinh tế với chính trị làm sao kinh tế đóng vai trị thúc đẩy, tạo ra cơ sở vật
chất cho chính trị và chính trị đóng vai trò dẫn đường cho kinh tế, thúc đẩy kinh tế
phát triển, sự tương tác hài hòa. Đổi mới tư duy kinh tế và tư duy chính trị đều cùng
mục tiêu là tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ mơi trường, mà mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
10
11