Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

[Tiểu luận] Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.72 KB, 11 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội mang tính bền
vững, nhân tố con người có vai trị quan trọng, quyết định nhất. Con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển. Quá trình phát triển sẽ
bị hạn chế nếu như một nửa nhân loại là phụ nữ vẫn bị phân biệt, đối xử và
kìm hãm sự phát triển. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, bình đẳng giới là một trong những tiêu
chí đánh giá sự phát triển của một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì
thế, bình đẳng giới là một yêu cầu khách quan, một mục tiêu quan trọng cần
hướng đến khơng chỉ của Việt Nam, mà của tồn nhân loại. Việc nghiên cứu
“Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
Sản Việt Nam về bình đẳng giới. Giá trị, ý nghĩa trong việc thúc đẩy vì sự tiến
bộ phụ nữ cơ quan, đơn vị” nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của
hoạt động bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
PHẦN II: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ BÌNH ĐẰNG GIỚI
1. Khái niệm về bình đẳng giới
Bình đẳng giới là tình trạng khơng có sự phân biệt đối xử trên cơ sở
giới tính (về quyền, trách nhiệm và cơ hội). Nhờ vậy, nữ giới và nam giới
được tôn trọng ngang nhau, được tiếp cận các nguồn lực như nhau, được thụ
hưởng thành quả như nhau, có cơ hội và điều kiện như nhau để nhận biết
được các quyền con người của mình và khả năng đóng góp của bản thân vào
sự phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội của đất nước.
Có ba kiểu quan niệm về bình đẳng giới là bình đẳng giới kiểu hình
thức, bình đẳng giới kiểu bảo vệ và bình đẳng giới kiểu thực chất.
- Bình đẳng giới kiểu hình thức xuất phát từ quan niệm coi nam và nữ
là giống như nhau, không để ý đến sự khác biệt về sinh học cũng như sự khác
biệt do xã hội quy định.

1




- Bình đẳng giới kiểu bảo vệ nhận diện được sự khác biệt giữa nam và
nữ, nhưng cho rằng cần tập trung xem xét các điểm yếu của phụ nữ để tạo ra
những sự đối xử khác biệt.
- Bình đẳng giới kiểu thực chất nhận rõ sự khác biệt giữa nam và nữ về
sinh học và sự khác biệt xã hội do lịch sử để lại. Do vậy, quan niệm này chú ý
đến bình đẳng trong pháp luật và bình đẳng trong thực tế, tập trung điều chỉnh
các môi trường có ảnh hưởng tiêu cực đối với cả nam giới và phụ nữ, đồng
thời chú ý tạo sự bình đẳng cho cả nam và nữ về cơ hội, tiếp cận cơ hội và
hưởng thụ cơ hội.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bình đẳng giới
Một là, về nguồn gốc dẫn tới sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nguồn gốc thấp kém của phụ nữ so với
nam giới ở trong gia đình và ngồi xã hội là do sự bất bình đẳng về kinh tế đã
dẫn tới sự thống trị của đàn ông đối với đàn bà và bất bình đẳng giới nảy sinh.
PH.Ăngghen viết: “Tình trạng khơng bình quyền giữa đơi bên, do những
quan hệ xã hội trước kia để lại cho chúng ta, tuy nhiên không phải là nguyên
nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế”. Cùng với
nguyên nhân kinh tế, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ, truyền thống văn
hóa và xã hội (phong tục, tập quán lạc hậu) được sự cổ vũ mạnh mẽ của tôn
giáo và sự bảo vệ vững chắc của pháp luật tư sản cũng là nguồn gốc rất cơ
bản dẫn tới bất bình đẳng nam nữ, làm tăng thêm gánh nặng áp bức đối với
phụ nữ.
Hai là, về điều kiện giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam
nữ
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con đường và những điều kiện để giải
phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên thực tế - đó là con đường cách

mạng xã hội nhằm xóa bỏ nguồn gốc kinh tế mà từ đó đẻ ra mọi sự bất bình
đẳng trong xã hội, bao gồm cả bất bình đẳng giữa nam và nữ, trong đó chế độ
sở hữu tư nhân phải được thay thế bằng sử hữu xã hội; phải đưa phụ nữ tham

2


gia ngày càng nhiều vào công việc xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Một sự bình
đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới chỉ có thể trở thành hiện thực khi đã
thủ tiêu được chế độ bóc lột của tư bản đối với cả hai giới và khi công việc
nội trợ riêng trong gia đình đã trở thành một nền cơng nghiệp xã hội”.
Cũng như C.Mác và Ăng ghen, V.I.Lênin xem xét tình trạng phụ nữ bị
áp bức, bóc lột, tình trạng bất bình đẳng giới từ những nguyên nhân kinh tế, xã
hội, văn hóa…sâu xa của chúng. Cải tạo tồn xã hội nhằm giải phóng tất cả
những người lao động bị áp bức, bóc lột cũng là con đường giải phóng phụ nữ.
V.I.Lênin rất quan tâm đến địa vị, vai trị của người phụ nữ. Ơng
khẳng định một quan điểm chung rằng “ Địa vị của phụ nữ về mặt pháp lý là
cái tiêu biểu nhất cho trình độ văn minh”. Theo V.I.Lênin biện pháp hữu hiệu
và mau chóng xóa bỏ khoảng cách giữa “bình đẳng về mặt pháp luật” và
“bình đẳng trong thực tế đời sống” cũng đã được V.I.Lênin chỉ ra và quyết
tâm thực hiện khi ơng cịn sống và còn cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Xơ viết. Biện pháp đó là: “…làm cho nữ cơng nhân ngày càng tham gia nhiều
hơn vào việc quản lý các xí nghiệp cơng cộng, vào việc quản lý Nhà nước”.
Với việc thực hiện biện pháp này VI.Lênin hoàn toàn tin tưởng rằng: “…Phụ
nữ sẽ học tập nhanh chóng và đuổi kịp được nam giới”. Toàn bộ hệ thống
quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về phụ nữ, giải phóng phụ
nữ và thực hiện quyền bình đẳng nam nữ được xây dựng trên cơ sở của triết
học mácxít. Đây là phương pháp tiếp cận khoa học, đồng thời là cơ sở lý luận
để phát triển khoa học về giới, hướng tới mục tiêu bình đẳng giới trong xã hội
hiện nay.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền và giải phóng
phụ nữ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi việc giải phóng phụ nữ là
một trong những mục tiêu đấu tranh cơ bản của sự nghiệp cách mạng.
Những tư tưởng cốt lõi về bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh
thể hiện ở một số luận điểm sau:
Thứ nhất, phụ nữ là một nửa xã hội, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải giải phóng phụ nữ.

3


Chủ tịch Hồ Chi Minh ln khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ đối với
lịch sử dân tộc: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già,
ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Người có những luận điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn đề
giải phỏng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong tương quan phát
triển của xã hội mới, của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền là nhiệm vụ
của Đảng, Nhà nước và bản thân chị em phụ nữ.
Để thực hiện nam nữ bình quyền, Hồ Chí Minh nhắc nhở chị em: “Phải
nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư
tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập”.
Người chỉ rõ cho các cấp ủy đảng và chính quyền “Phải có phương
pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”. Người cịn
nói, nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít, đấy là một thiếu sót của Đảng. Người
khẳng định, giải phóng phụ nữ phải bằng pháp luật, chính sách, biện pháp cụ
thể: “Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phương khi giao cơng tác cho
phụ nữ, phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ
phụ nữ nhiều hơn nữa”, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực

để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn
lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Nam nữ
bình quyền” là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Điều
này được ghi nhận trong Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1930. Cương
lĩnh cũng nêu rõ giải phóng phụ nữ phải gắn với giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp.
Sau khi đất nước hồn tồn giải phóng, bước vào thời kỳ mới, việc phát
huy hơn nữa vị trí, vai trị của các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của nhân dân là yêu cầu, đòi hỏi lớn. Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 76-1984 của Ban Bí thư về “một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”

4


chỉ rõ: “Nhiều cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo
thực hiện cảc nghị quyết cùa Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nữ...; còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với
chị em...”.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã cụ thể hóa quan điểm bình đẳng giới
bằng những nghị quyết và chỉ thị về công tác phụ nữ. Cụ thể là:
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12-7-1993 của Bộ Chính trị về “đổi
mới và tăng cường cơng tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, mục tiêu
nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của phụ nữ trong công cuộc đổi mới đất
nước, tạo điều kiện cho phong trào phụ nữ có những bước tiến mới và tăng số
lượng, chất lượng cán bộ nữ trong hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể và các tổ chức kinh tế, xã hội.
Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về “Một số vấn đề cơng tác cán bộ nữ trong tình hình mới”, trong đó

Đảng ta xác định rõ: “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước,
tham gia quản lý kinh tế xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình
đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng
cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ
nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là Nghị
quyết được ban hành sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW về công
tác cán bộ nữ và trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
thế giới.
Quan điểm chỉ đạo về cơng tác bình đẳng giới được thể hiện xun suốt
từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cho đến các kỳ Đại hội Đảng sau
này. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Tiếp
tục đổi mới, hồn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai
sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược
dân sổ, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em..., đầu tư nâng cao chất

5


lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế,
giảm dần sự mẩt cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh.. .”.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã thông qua
Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Nghị quyết số 21-NQ/TW về
cơng tác dân số trong tình hình mới, trong đó có những quan điểm chỉ đạo và
mục tiêu cụ thể để đạt được các mục tiêu liên quan đến bình đẳng giới.
PHẦN III: THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI

Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, Huyện
Củ Chi đã ban hành và triển khai thực hiện hiệu quả các kế hoạch, đề án, nghị
quyết, chương trình hành động về cơng tác cán bộ nữ và hoạt động bình đẳng
giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Cơng tác tun truyền, phổ biến các chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ được triển khai
rộng khắp với nhiều nội dung và hình thức đa dạng.
Thông qua việc thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế và chính sách
đảm bảo an sinh xã hội, công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm nhất là đối
với lao động nữ được các ngành, các cấp đặc biệt quan tâm. Thực hiện các
quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm. Trong thời gian qua, các
cấp hội phụ nữ trên địa bàn huyện đã phối hợp mở các lớp dạy nghề và giới
thiệu việc làm lao động nữ, tạo hàng trăm việc làm cho lao động nữ nông
thôn. Gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi vật nuôi và cây trồng,
huyện tiếp tục thúc đẩy các giải pháp tạo việc làm ở nhiều lĩnh vực phù hợp
như cho vay vốn chăn nuôi, trồng trọt. Đặc biệt, Hội phụ nữ rất quan tâm đến
chương trình hỗ trợ vốn cho các hộ phụ nữ nghèo làm chủ hộ, giúp nhiều hộ
về vốn, kiến thức, xây dựng nhà tình thương... Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ có
trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị và chun mơn nghiệp vụ được
quan tâm bổ sung vào nguồn cán bộ quy hoạch dài hạn. Công tác phát triển
Đảng trong cán bộ nữ được quan tâm chú trọng.
Các quyền bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe được huyện thực
hiện thơng qua các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, gia đình và

6


trẻ em hàng năm. Trong năm qua, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ phối hợp với các
ban, ngành, đoàn thể, Trung tâm y tế huyện tuyên truyền đến tận cơ sở nâng
cao nhận thức chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, sức khỏe sinh sản, tuyên truyền
về kiến thức phịng bệnh, vệ sinh an tồn thực phẩm. ..

Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong các
cấp lãnh đạo là một trong những mục tiêu được huyện quan tâm. Do đó, trong
những năm gần đây, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương rất quan tâm
đến đội ngũ cán bộ nữ, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và đề bạt cán bộ nữ
vào các cương vị chủ chốt lãnh đạo của các cấp cơ sở và cấp huyện, quan tâm
đề bạt cán bộ nữ vào cương vị lãnh đạo quản lý. Trong đó, tỷ lệ cán bộ nữ
tham gia các cấp ủy Đảng, tham gia Ban Thường vụ cấp xã, huyện, được bổ
nhiệm vào các chức danh lãnh đạo quản lý và là đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp với tỷ lệ cao.
Thực hiện mục tiêu tăng cường năng lực hoạt động vì sự tiến bộ phụ
nữ, huyện đã tập trung chỉ đạo các ngành thường xuyên phối hợp tổ chức
nhiều hoạt động thiết thực nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, chăm
lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Hàng năm vào dịp Quốc tế
phụ nữ 8/3, Ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ ở cơ sở tổ
chức nói chuyện chun đề về vai trị phụ nữ trong gia đình, tuyền truyền
Luật phịng chống bạo lực gia đình, về bình đẳng giới, các chủ trương chính
sách pháp luật của Nhà nước đối với phụ nữ. Bên cạnh việc chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ, các ban, ngành, đoàn thể, địa phương,
đơn vị cũng triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ gắn với thực hiện các
phong trào thi đua, các cuộc vận động như: “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3
sạch”; thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Có thể khẳng định, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và tồn xã
hội, trong đó vai trị nịng cốt là tổ chức Hội Phụ nữ, hoạt động bình đẳng
giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả

7



đáng khích lệ. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh của địa phương.
PHẦN IV: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI
Trước hết phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.
Hiện nay, tình trạng "trọng nam, khinh nữ" vẫn đang là một hệ luỵ tư
tưởng lớn, không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của nữ giới mà còn hạn chế sự
phát triển của xã hội. Chỉ khi thay đổi được nhận thức, xóa bỏ định kiến về
giới thì mới thay đổi được cách hành xử. Chính vì vậy, cả nam và nữ đều phải
thay đổi nhận thức, xóa bỏ định kiến phân biệt giới và để nâng cao nhận thức
về bình đẳng giới cần thực hiện các biện pháp cụ thể như: Đẩy mạnh công tác
tun truyền về bình đẳng giới. Tiến đến xóa bỏ dần những phong tục, tập
quán lạc hậu, lỗi thời có mang định kiến về giới; Thường xuyên tổ chức các
buổi tọa đàm, sinh hoạt, nói chuyện về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn
vị, trong các khu dân cư.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của
pháp luật, các chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới.
Cần thay đổi các quy định hiện hành cịn chưa phù hợp, hạn chế bình
đẳng giới. Cụ thể Luật Hơn nhân và Gia đình 2014, tại Khoản1, Điều 71 quy
định rõ là: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc,
ni dưỡng con chưa thành niên”. Nhưng Khoản 4 Điều 2 về nguyên tắc cơ
bản trong việc thực hiện chế độ hôn nhân gia đình vẫn tiếp tục duy trì khn
mẫu giới bởi quy định: “giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý
của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Quy định này khơng khác
nào khẳng định trách nhiệm nuôi dạy con cái vẫn thuộc về người mẹ, kế
hoạch hóa gia đình chủ yếu vẫn là trách nhiệm của người vợ. Nói như vậy để
thấy rằng cần điều chỉnh những quy định chưa phù hợp và cần xố bỏ khn
mẫu giới ngay tại các văn bản quy phạm pháp luật.
Lồng ghép cơng tác bình đẳng giới vào nhiệm vụ chính trị của các cơ

quan, đơn vị và chương trình phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương.
Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, phân biệt giới để răn đe trong

8


xã hội. Các trường hợp này cần phổ biến rộng rãi bằng nhiều hình thức như:
tổ chức các phiên tịa lưu động; tuyên truyền miệng tại tổ dân phố, tổ nhân
dân, các khu dân cư; lồng ghép vào các chương trình phát thanh, truyền hình
địa phương để tạo hiệu ứng lan tỏa tốt nhất đủ sức cảnh báo, răn đe để người
dân biết và khơng vi phạm.
Thứ ba, tích cực thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc.
Tuy pháp luật đã có quy định cụ thể về nghiêm cấm các hành vi phân
biệt đối xử dựa trên giới tính, nhưng trên thực tế cần bảo đảm cơ chế triển
khai thực hiện các quy định này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của
người lao động và người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế và xã hội của
bình đẳng giới và nhất là thay đổi tư duy của người sử dụng lao động nhằm
xóa bỏ những định kiến và rào cản đối với cả nam và nữ.
Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có cơ chế giám sát các
cơ sở lao động trong việc thực hiện chế độ thai sản, cung cấp và xã hội hóa các
dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện tốt nhất cho cả lao động nam và
nữ; đảm bảo phụ nữ và nam giới được tạo cơ hội bình đẳng trong các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tay
nghề; trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen thưởng…
Thứ tư, tập trung nhân rộng các mơ hình tốt thực hiện bình đẳng giới.
Các địa phương đã triển khai mơ hình tun truyền về bình đẳng giới
như "Câu lạc bộ bình đẳng giới", tổ công tác "tư vấn, hỗ trợ bạo lực giới", xây
dựng "Nhà tạm lánh" hỗ trợ người bị bạo hành về giới… đã phát huy tác dụng
trên thực tế. Tùy vào điều kiện từng địa phương mà cần duy trì, nhân rộng các
mơ hình này.

PHẦN V: KẾT LUẬN
Có thể nói, bình đẳng giới khơng chỉ có ý nghĩa đối với phụ nữ mà còn
đem lại ý nghĩa lớn lao đối với phát triển của xã hội. Đối với phụ nữ, bình
đẳng giới làm thay đổi vị thế của họ, tạo ra cơ hội để họ thoát khỏi những cản
trở, đem hết khả năng của mình cống hiến cho sự phát triển của gia đình và xã
hội. Đối với xã hội, bình đẳng giới góp phần thực hiện sự phát triển tiến bộ
của xã hội, bởi con người (cả nam và nữ) thực sự được xem là mục tiêu và

9


động lực của sự phát triển. Bình đẳng giới khơng đơn thuần là quyền lợi của
chị em, mà chính là quyền lợi chung của một đất nước muốn phát triển bền
vững. Bởi, nếu một đất nước chỉ sử dụng một nửa dân số, không phát huy
được đầy đủ và tối đa năng lực của mọi người, của mọi công dân bất kể nam
hay nữ thì thật là điều đáng tiếc. Quan điểm này cũng như của Đảng và Nhà
nước Việt Nam cũng chính là việc thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Nói phụ nữ là phân nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì
khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị: Giới trong lãnh đạo, quản lý Nxb.Lý luận chính trị, h.2018

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đặng Ánh Tuyết (2015), Bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Cộng sản.

11



×