Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận gltbvh ảnh hưởng của đạo phật đối với văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.2 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại ngày nay, gần như hằng ngày, hằng giờ, thế giới phải chứng
kiến những xung đột, những bất ổn mà nguyên nhân thường có liên quan đến
vấn đề tơn giáo. Ở Việt Nam, Phật giáo vẫn tồn tại và gắn bó khăng khít, hòa
quyện vào đời sống xã hội, như đã diễn ra trong quá khứ hai ngàn năm tồn tại.
Khác chăng, trong hồn cảnh mới, thời đại mới, nó sẽ có biểu hiện và sự phát
triển mới. Điều đó càng thúc bách việc tìm hiểu nghiên cứu về Phật giáo Việt
Nam nói chung và Phật giáo địa phương nói riêng một cách đầy đủ, sâu sắc
không chỉ ở hiện tại, mà cả trong quá khứ để ứng xử trong tương lai
Mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc là mong muốn từ muôn đời
nay không của riêng ai.Đạo Phật chứa một triết lí nhân sinh cao cả với ước
muốn là cứu con người khỏi nỗi khổ muôn đời, không phải bằng sự ban bố
nhân đức mà ở chỗ con người có hạnh phúc hay khơng là chính ở cuộc sống
đức độ của con người. Ta thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ
những kỉ nguyên tây lịch,rồi tồn tại phát triển và chan hòa với dân tộc cho đến
tận hơm nay.Rõ ràng việc tìm hiểu Đạo Phật là một sự cần thiết có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn. Nó giúp cho chúng ta nhận thức được những vấn đề
căn nguyên nhất của Phật, để từ đó có được những ứng xử hợp lẽ, đúng quy
luật với một hình thái ý thức xã hội quan trọng này của người Việt.Ngay khi
được truyền vào, từ thế kỷ đầu, Đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối
sơng của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển trên đất
nước này, Đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc hòa nhập vào
mọi giai tầng của xã hội Việt Nam. Đạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt
Nam tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào đất. Đạo Phật đã lan tỏa khắp
hang cùng ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất
định từ cung đình cho đến làng xã Việt Nam. Đạo lý của Phật giáo Việt
Nam cũng đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở
1



thành những giá trị tinh thần vô giá cho người dân trên xứ sở này. Trong
suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Đạo Phật đã chứng minh sự hiện
hữu của mình trong hầu hết các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực vào các mặt nói trên. Chính
vì vậy, nghiên cứu chỉnh thể Phật giáo, nhất là nghiên cứu tác động của nó là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Với ý nghĩa đó em chọn đề tài
“Ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn hóa Việt Nam” làm đề tài cho bài
tiểu luận này.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tư tưởng cơ bản của Đạo Phật và ảnh hưởng của Đạo Phật đối với văn
hóa Việt Nam
3.Kết cấu tiểu luận
Ngồi mở đầu, kết luận tiểu luận gồm có 2 chương

2


CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO PHẬT
1.Sự ra đời của Đạo Phật:
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ rất phức tạp,địa hình đa dạng,khắc
nghiệt của tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống
và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm,khoảng thế kỉ thứ XXV
trước công nguyên đã xuất hiện nền văn minh đầu tiên là nền văn minh sông
Ấn đến thế kỉ thứ XV trước cơng ngun,có sự xâm nhập của người Arva vào
khu vực của người bản địa hình thành nên quốc gia Ấn Độ tạo nên nền văn
hóa mới gọi là nền văn hóa Védan
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất sớm và kéo
dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “cơng xã nơng thơn”,đặc trưng
của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các Đế

Vương,mà gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong cơng xã.Xã
hội thời kì này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là:tăng lữ,quý tộc,bình
dân tự do và nơ lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó là cho xã hội xuất
hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng
cấp trong xã hội.
2.Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Cơng ngun. Theo lý giải
của Phật Giáo Nam Tơng thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
Theo Phật Giáo Bắc Tông, Đức Phật sanh ngày mồng Tám tháng Tư. Ngài ra
đời tại ven rừng ở Lâm-Tỳ-Ni, một địa danh nằm giữa hai tiểu quốc Sakyã và
Koliya thuở bấy giờ. Đây là khu vực nằm giữa dãy Hi-mã-lạp-sơn và sơng
Hằng. Ngài tên Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa), họ Cồ Đàm (Gautama/Gotama),
thuộc dịng tộc Thích Ca (Sakya). Gốc dân da trắng Árya. Ngài là Thái
tử nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ. Phụ hoàng là Tịnh
3


Phạn Vương-Đầu-Đà-Na (Suddhodana), Mẫu hồng là Maya. Lúc nhỏ Ngài
có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường.
Thái tử lớn lên học thông suốt các môn và tài giỏi mọi mặt, đặc biệt là
Thái tử rất thương người và lồi vật. Khi cịn nhỏ, thái tử thường hay thích
ngồi tĩnh lặng một mình. Khi trưởng thành lúc 16 tuổi năm 608 trước tây lịch,
thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara). Hai vợ chồng sanh
ra một người con trai tên là La Hầu La (Rahura).
Vào năm 29 tuổi, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta quyết định rời cung điện bắt đầu
cuộc sống lang thang khất sĩ, du phương cầu đạo để giải quyết bốn vấn đề lớn
là sanh, già, bệnh, chết.Sau 6 năm tu hành,năm 35 tuổi Tất Đạt Đa đã giác
ngộ tìm ra chân lí “Tứ diệu đế” và ‘Thập nhị nhân dun”,tìm ra con đường
giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh.Từ đó người đã đi khắp nơi để truyền bá tư
tưởng của mình. Về sau ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác

nhau :Đức Phật,Thích Ca Mâu Ni…Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền
đạt giáo lí năm ơng 80 tuổi thì qua đời.
3.Sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam
Theo như nhiều sách sử để lại, đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang nước ta
bằng hai con đường thủy và đường bộ, thời gian này Ấn Độ có sự giao thương
sang Á châu theo gió mùa Tây-Nam mang theo tư tưởng Phật giáo đến Việt
Nam; các thương nhân cùng Tăng sĩ theo đoàn để cầu nguyện trong những
chuyến vượt biển đầy nguy hiểm, họ đến dù khơng phải là mục đích truyền
đạo, nhưng sự có mặt của họ thơng qua hoạt động tín ngưỡng của người Phật
tử hàng ngày như cầu siêu, cầu an khi gặp nạn v.v... đã ảnh hưởng đến đời
sống văn hóa tinh thần của dân tộc ta.

4


CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT VỚI VĂN HÓA VIỆT
NAM
1.Ảnh hưởng của Đạo Phật qua sự dung hòa với các tín ngưỡng
truyền thống
Khi được truyền vào Việt Nam, Đạo Phật đã tiếp xúc ngay với các tín
ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này.Biểu
tượng chùa Tứ. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu Thần
cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành hồng thổ
địa và vị anh hùng dân tộc. Chính vì tinh thần khai phóng này mà về sau phát
sinh những hậu quả vùng thì khơng có .Có nên gạt bỏ loại hình tín
ngưỡng truyền thống này ra khỏi Phật Giáo không? Vẫn là một vấn đề rất tế
nhị, tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng tinh thần dung hịa và khai phóng
của Đạo Phật Việt Nam là một trong những nét đặc trưng đáng chú ý. Mấy
chục năm qua, từ quan điểm coi tín ngưỡng - tơn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận quần chúng nhân dân, với quan niệm nghiêm túc về tự do tôn

giáo, với chính sách tơn giáo đúng đắn của Nhà nước, trực tiếp là sự quan tâm
của chính quyền các cấp,... cùng với các tôn giáo khác, Đạo Phật đã được tạo
điều kiện để hoạt động ngày càng hiệu quả. Vì thế, trên mọi miền đất nước,
các ngôi chùa đã được tôn tạo, nhiều ngôi chùa, nhiều trung tâm đào tạo tăng
sĩ được xây dựng mới, một số ngày lễ của Đạo Phật trở thành ngày hội văn
hóa thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân.
2.Ảnh hưởng của Đạo Phật qua sự dung hịa với các tơn giáo khác:
Đạo Phật Việt Nam lại dung hịa kết hợp chặt chẽ với các tơn giáo và
tín ngưỡng truyền thống như Nho giáo, Đạo giáo.Đó là kết quả của sự phối
hợp và kết tinh, được các nhà vua thời Lý cơng khai hóa và hợp pháp hóa.
Chính vì đặc tính dung hịa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở
thành tín ngưởng truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn
Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh
5


hướng tâm linh của người dân Việt. Nó thực ra là cái "Đồng Qui Nhi Thù
Đồ", cùng về một đích mà đường lối khác nhau, chính tinh thần khai phóng
của Đạo Phật Việt Nam đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực
hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, tức là hành
vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Đạo giáo thực hiện cứu
cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất quán với
Thiện và Chân. Đạo Phật thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác
ngộ để đạt tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất
của tinh thần tam Giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ
sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu
vào tâm thức của người dân Việt. Đạo Phật Việt Nam lại dung hịa kết hợp
chặt chẽ với các tơn giáo và tín ngưỡng truyền thống như Nho giáo, Đạo giáo.
Đại biểu cho tư tưởng trên, trước hết phải nói đến Trần Thái Tơng. Điểm nổi
bật trong tư tưởng của Trần Thái Tông (1218 - 1277) là kết hợp giữa Thiền

tông và Tịnh độ tông, đốn ngộ và tiệm ngộ, sự giải thốt của bậc thượng trí và
bậc hạ trí, song chủ yếu là sự dung hòa giữa Nho và Phật. Trần Thái Tơng
khơng chỉ nhìn thấy vai trị, ảnh hưởng của các đạo đối với xã hội phong kiến
đương thời, mà còn tìm cách chỉ cho mọi người thấy tác dụng của các tơn
giáo, tín ngưỡng đó đối với xã hội. Trong Khóa Hư Lục, Trần Thái Tơng viết:
“Chưa rõ thì chia làm ba giáo, hiểu rồi thì cùng ngộ một tâm” (Chưa minh
người rối chia ba đạo, biết hết được cùng cóc một lịng). Trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa dân tộc, văn hóa Phật giáo, Nho giáo, Trần Thái
Tơng đã xây dựng được một hệ thống lý luận Thiền học khá hoàn chỉnh, làm
cơ sở cho sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm.
3. Ảnh hưởng của Đạo Phật qua sự dung hòa giữa các tông phái
Phật giáo.
Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận, nhìn
nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý - khế cơ, từ hai phái
6


lớn của Phật giáo lại được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể nói,
sự hình thành các tơng phái không phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật
giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng khơng phải là sự phủ định lẫn
nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên vững chắc.Đây
là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc
gia Phật Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào,
Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tơng, ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật
Bản, Mơng Cổ thuần t chỉ có Phật Giáo Bắc Tơng. Nhưng ở Việt Nam thì
lại dung hịa và điều hợp cả Nam Tơng và Bắc Tơng. Chính vì tinh thần khế
lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt
Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy thiền tông chủ trương bất lập văn tự,
song ở Việt Nam chính các vị thiền sư xưa lẫn nay đã để lại rất nhiều trước
tác có giá trị, đặc biệt các thiền viện ở Việt nam điều tụng kinh gõ mõ như

các tự viện Tơng Tịnh Độ. Dịng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì kết hợp với Mật
Giáo, có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Khơng điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa
bệnh.
Trong khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư Việt Nam đã
không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà mở lấy
một con đường riêng, phù hợp với dân tộc. Và trong khi tiếp nhận với hai
luồng ảnh hưởng ấy, các thiền sư Việt Nam đã khéo léo điều chỉnh tính hai
cực, Ấn Độ-Trung Hoa: một bên thì q ham chuộng sự bay bổng, thần bí,
một bên quá thực tiễn duy lý. Khi Phật Giáo vào Trung Hoa đã gây cho các
nhà Phật học những cuộc tranh luận sôi nổi về giáo pháp. Rồi suốt cả q
trình lịch sử của nó là sự phái sinh ra những tơn giáo, là những cuộc đấu
tranh tư tưởng dữ dội, điển hình là cuộc đấu tranh giữa phái Thiền Nam
Phương của Huệ Năng với Thiền Phái Miền Bắc của Thần Tú vào thời kỳ sơ
đường. Cịn ở Việt Nam thì khác, trên pháp đàn tư tưởng thời Lý cũng như
thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam và các thời kỳ sau này
7


khơng có những mâu thuẩn đối lập mà tất cả điều quy về một mục đích chính
là tu hành giải thốt.
4.Ảnh hưởng của Đạo Phật qua sự dung hịa với các thế hệ chính
trị xã hội.
Đạo Phật tuy là một tơn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có
chủ trương nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời
Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới
hạnh điều được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc
quan trọng của quốc gia. Ta thấy có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt
Nam tham gia vào chính sự, họ là những người có học, có ý thức về quốc gia,
sống gần gũi nên thấu hiểu được nổi đau khổ của một dân tộc bị nhiều cuộc

đô hộ của ngoại bang.Các thiền sư không có ý tranh ngơi vị ngồi đời nên
được các vua tin tưởng và thứ ba: các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung
quân (chỉ biết giúp vua mà thơi) như các nho gia nên họ có thể cộng tác với
bất cứ vị vua mào đem lại hạnh phúc cho dân chúng. Thời vua Đinh Tiên
Hồng đã phong cho thiền sư Ngơ Chân Lưu làm Tăng Thống, thời Tiền Lê
có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận, ngài Khng Việt cũng tham
gia triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây
dựng triều đại nhà Lý khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn
bạo của Lê Long Đỉnh, ông vua Ngọa Triều cịn có biệt danh kẻ róc mía trên
đầu sư. Thời nhà Trần có các thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên Thơng.. điều
được các vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình.
Đến thế kỷ 20, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt
động xã hội như cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Đến thời Diệm,
Thiệu (1959-1975) cũng thế, các tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích
cực cho phong trào đấu tranh địi hịa bình và độc lâp cho dân tộc, nổi bật là
những cuộc đối thoại chính trị giữa các tăng sĩ Phật Giáo và chính quyền. Đến

8


cuối thế kỷ 20, ta thấy tinh thần nhập thế này cũng không ngừng phát huy, đó
là sự có mặt của các thiền sư Việt Nam trong quốc hội của nước nhà.
5. Ảnh hưởng của Đạo Phật trong đời sống con người
Sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đến đời sống hiện nay, cho
thấy Phật giáo chiếm một vị trí quan trọng trong lối sống người dân, trong các
quan hệ. Cũng như tất cả dân tộc nào trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam
đến Bắc, lúc sơ khởi người Việt Nam tín ngưỡng và tơn thờ tất cả những sức
mạnh hữu hình hay vơ hình mà họ cho là có thể giúp đỡ họ hoặc làm hại đến
họ như mây, mưa, sấm, sét, lửa, gió.. Trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần
này, Phật Giáo đã xuất hiện và nhanh chóng q thân qua hình ảnh của bộ

tượng Tứ Pháp ở chùa Dâu, ngơi chùa Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy
Lâu (Hà Bắc ngày nay), đó là bộ tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lơi và Pháp
Điễn, một hình ảnh sống động và gần gũi với người dân nông thôn trong
việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu siêu, cầu xin tất cả những gì mà cuộc
sống con người địi hỏi. Người Phật tử trong thời kỳ sơ khai này quan
niệm rằng Phật là đấng cứu thế, có thể ban cho con người mọi điều tốt lành.
Trong buổi đầu của Phật Giáo ở Việt Nam mang dáng dấp của Phật
Giáo Tiểu Thừa và Mật Giáo, vì vậy đã dễ dàng gắn với phù chú, cầu
xin phước lộc hơn là tơi luyện trí tuệ và thiền định. Hoạt động của Phật
Giáo có mặt ở khắp hang cùng ngõ hẻm, làng nào cũng có chùa có tháp,
người ta học chữ, học kinh, hội hè, biểu diễn rối nước, họp chợ ngay ở trước
chùa.Chùa làng đã từng một thời đóng vai trị trung tâm văn hóa tinh
thần của cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa khơng những là nơi giảng
đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà cịn là nơi hội họp,. di dưỡng tinh thần, tham
quan vãn cảnh. Bởi vì, kiến trúc của chùa Việt Nam thường hịa hợp với cảnh
trí thiên nhiên, tạo thành một kiến trúc hài hòa với ngoại cảnh. Khung cảnh
ấy phù hợp với những giờ phút nghỉ ngơi sau giờ lao động nhọc nhằn và dinh
dưỡng tinh thần của tuổi già. 
9


Đến thế kỷ XV, Nho Giáo thay chân Phật Giáo trong lãnh vực thượng
tầng xã hội, Phật Giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã.
Ngơi đình xuất hiện tiếp thu một số kiến trúc và nghệ thuật Phật Giáo, đồng
thời trở thành trung tâm hành chính của làng xã. Cửa chùa chỉ cịn mở cửa
cho đàn bà, con gái kêu van, nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ,
ốm đau bệnh tật, mất mùa đói rét.. xin Phật gia hộ. Bồ Tát Quan Âm hay Phật
Bà được ưa chuộng hơn xưa. Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta chiêm
ngưỡng được pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt trong chùa Bút
Tháp (tỉnh Hà Bắc) tạc vào năm 1656. Tượng rất đẹp nhưng được tạo vào thời

điểm Phật Giáo khơng cịn tơn sùng như quốc giáo nữa, chứng tỏ Phật
Giáo đã ăn sâu vào tâm tư và văn hóa nghê thuật dân gian.
Nhìn chung khơng khó khăn gì khi ta phăng tìm dấu ấn Phật Giáo
trong quan niệm dân gian và ta có thể phát hiện rằng nếu khơng có sự hiện
diện của Phật Giáo ở Việt Nam thì ta sẽ mất đi hơn một nữa di tích và danh
lam thắng cảnh mà hiện nay ta tự hào, sẽ khơng có chùa Hương rộn ràng,
nhộn nhịp sầm uất trong ngày trẩy hội đầu xuân, khơng có chùa Tây
Phương vời vợi, khơng có chùa n Tử mây mù, khơng có chùa Keo bề thế,
khơng có chùa Thiên Mụ soi mình trên dịng sơng Hương.Và cũng khơng có
những chuyện dân gian đầy tính nhân bản như truyện Từ Thức, truyện Tấm
Cám, truyện Quan Âm Thị Kính…. Sẽ khơng có những lễ hội tưng bừng như
hội Lim, hội Chùa Hương…. và trong tâm tư truyền thống cũng vắng tư
tưởng bố thí vị tha, lịng hưởng thiện và niềm tin vững chắc vào một tương lai
sáng sủa, vắng tinh thần lạc quan ngây thơ của người dân Việt.
Quả thật vậy, Đạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong
ở xã hội Việt Nam, khơng những trong giới bình dân mà cịn ở trong giới trí
thức nữa.
Phật Giáo thiền tơng ở Việt Nam phát triển mạnh và ảnh hưởng sâu
rộng trong giới trí thức, cung đình từ đinh (968-980), tiền Lê (980-1009) đến
10


thời Lý (1010-1225) đã mang được trong mình một tinh thần Việt Nam, đó là
sự ra đời của một thiền phái mới, phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông một vị
vua anh kiệt đứng đầu. Nhưng thiền tông Việt Nam phát triển rực sáng nhất là
ở giai đoạn nhà Trần (1226-1400) với những tư tưởng vừa thăng
trầm vừa phóng khống của các thiền sư thời Trần đã được đúc kết trong
các tác phẩm Khóa Hư Lục của Trần Nhân Tơng, Pháp Loa, Huyền Quang đã
làm cho bình diện học thuật Việt Nam lúc bấy giờ bổng bừng sáng hẳn
lên. Đặc biệt sự xuất hiện thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt

Nam sáng lập ra, thể hiện được đầy đủ mọi đặc trưng, độc đáo của người Việt
và nó đã để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho tới ngày
nay.
6. Ảnh hưởng của Đạo Phật qua góc độ nhân văn và xã hội
Văn hóa Đạo Phật đã hịa mình và hợp nhất với nền văn hóa Việt Nam
qua ngơn ngữ, qua tư tưởng, được biểu hiện trong nếp sống, sinh hoạt xã hội,
đời sống tâm linh. Sự đan xen, hòa quyện đã thể hiện rõ nét trong phong tục
tập quán, trong văn học bình dân cũng như trong văn học bác học. Từ ngữ của
Phật giáo như: trí tuệ, từ bi, thiện ác, nhân quả, nghiệp báo, v.v... được sử
dụng như từ ngữ của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Phật giáo giao thoa trong
nền văn hóa Việt Nam để lại dấu ấn sau:
6.1 Ảnh hưởng trong ngôn ngữ
Đạo Phật đi cùng đi cùng con người Việt Nam trên một chẳng đường
dài với bao thăng trầm,biến động lớn của đất nước nó như một thứ gì đó gắn
lền mà khơng thể tách rời hịa vào văn hóa tín ngưỡng nhẹ nhàng mà khơng
chút mẫu thuẫn và đến giờ những giá trị Phật giáo vẫn được giữ gìn và phát
triển trong cuộc sống hang ngày.Ngơn ngữ cũng vậy nó ăn sâu vào văn hóa
giao tiếp,ứng xử hang ngày của người Việt.Đối với người Việt giao tiếp ứng
xử vô cùng quan trọng không chỉ với các mối quan hệ cơng việc mà qua đó
đánh giá đạo đức con người,người ta thường nói:”Lời chào cao hơn mâm cỗ”
11


hay”Lời nói chẳng mất tiền mua-Lựa lời mà nói cho vừa long nhau” vì vậy
việc sử dụng ngơn ngữ như thế nào,sử dụng từ gì rất quan trọng trong văn hóa
giao tiếp.Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta
thấy có nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Đạo Phật được nhiều người
dùng đến kể cả những người ít học. Tuy nhiên khơng phải ai cũng biết
những từ ngữ này được phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai
bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lịng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai

chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của Đạo Phật. Theo Đạo Phật tội
nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự
cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì khơng có một hiện tượng hay sự cố tai
nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết quả tập thành của
nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những ngun đó (theo đạo Phật gọi đó
là nhân dun) khi chín mùi, thì đem lại kết quả. Mọi người điều nói tội
nghiệp nhưng khơng phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một
chủ thuyết rất căn bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng
đi sâu vào nhận thức dân gian.Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều,
người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn
chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều, bởi khi xưa Đức
Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, cho nên
khi cần mô tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sơng Hằng. Hoặc
khi có những tiếng ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa
vào những ngày sám hối, chùa thưởng chuyển những hồi trống bát nhã, nhân
đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Lại có những người rày đây mai đó, ít
khi dừng chân ở một chổ, khi người ta hỏi anh đi dâu mãi, họ trả lời tôi đi "ta
bà thế giới". Ta bà thế giới là thế giới của Đức Phật Thích Ca giáo hóa,
theo thế giới quan của phật giáo thì thế giới ta bà to gấp mấy lần quả địa cầu
này, hoặc khi các bà nẹ Việt Nam la mắng các con hay quậy phá, các bà nói:
"chúng bay là đồ lục tặc", tuy nhiên họ khơng biết từ lục tăc này phát xuất từ
đâu? Đó là từ nhà phật, chỉ cho sáu thằng giặc: sắc, thanh, hương, vị, xúc và
12


pháp của ngoại cảnh lng ln quấy nhiễu ta. Một từ ngữ có sâu xa như vậy,
nhưng khi Phật Giáo truyền bá vào Việt Nam đã bị Việt Nam hóa trở
thành lời mắng của các bà mẹ Việt Nam.Còn nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ
xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ
đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh hưởng phật giáo khơng ngừng

ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ
ca của người dân Việt Nam nữa.
6.2 Ảnh hưởng trong tục ngữ
Tục ngữ là ngơn ngữ dân gian mà người bình dân Việt Nam thường sử
dụng để trao đổi tư tưởng, tình cảm với nhau. Những tư tưởng trong ngôn ngữ
dân gian được gọi là văn hóa bình dân. Những từ ngữ của Phật giáo đã biến
thành ngơn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được
truyền cho nhau trong dân gian mà chúng ta đã thấy tản mát trong văn học
bình dân. Chúng tơi xin đơn cử ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá
trị sự giao thoa của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, điển hình như
những từ ngữ: “Tội nghiệp quá!”; “Hằng hà sa số” “Lù khù nhưng ông Cù độ
mạng”, v.v...
Người bình dân mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ
thì liền tỏ lịng thương xót, chia sẻ và thốt lên câu: “Tội nghiệp quá!”... Hai
chữ tội nghiệp là từ ngữ của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác
đã định.
Người ta muốn diễn tả số lượng người quá đông đảo hoặc số lượng vật
gì quá nhiều thì liền dùng câu “Hằng hà sa số” để tỏ bày. Hằng hà sa số là từ
ngữ của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông hằng. Sông Hằng là
chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sơng
nổi tiếng thế giới là sơng Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông
này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và

13


tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngơn từ
“Hằng Hà sa số” nhằm để nói lên số lượng q nhiều khơng thể đếm được.
Trong xóm làng, có một số người với trình độ văn hóa giới hạn, cứ
sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại

được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Đối với những người này,
người bình dân Việt Nam thường dùng ngơn từ “Lù khù nhưng ông Cù độ
mạng” để chỉ sự may mắn nói trên của họ. Lù khù là chỉ cho hạng người khờ
dại, ngây thơ, khơng biết chút gì về cuộc đời. Ơng Cù gọi cho đủ là ơng Cù
Đàm tức là chỉ cho dịng họ của Đức Phật Thích Ca. “Lù khù nhưng ông Cù
độ mạng” nghĩa là: Những người này sở dĩ được may mắn là nhờ Đức Phật
Thích Ca phù hộ.
Còn nhiều dấu ấn về tục ngữ hàm chứa tinh thần Phật giáo và những
tục ngữ đó hiện đang tàng trữ trong kho văn học Việt Nam mà ở đây chưa
khai thác được để làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam.
6.3 Những dấu ấn trong ca dao
Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ
tâm hồn mộc mạc, tình cảm của người bình dân Việt Nam, được lưu truyền
trong dân gian. Những câu ca dao này mang tư tưởng, tình cảm của dân tộc
nhằm diễn tả luân lý, đạo đức, tình ý, phong tục, tập quán, lối sống của con
người... Tư tưởng Phật giáo thâm nhập vào ca dao Việt Nam và thấm vào tâm
hồn của người bình dân. Điển hình như những bài ca dao sau đây thấm nhuần
tư tưởng của Phật giáo.Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ
hiểu trong dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Khơng ai biết
rõ xuất xứ cũa những lời ca hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được thể
hiện dưới hình thức câu hát ru em, những câu hị đối đáp giữa các chàng trai
cơ gái tuổi đơi mươi hay để kết thúc mỗi câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể
cho con cháu nghe mang tính chất khuyên răng dạy bảo. Ca dao dân ca phổ
biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo
14


lý của phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca
dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo,
với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo

đức của dân tộc Việt Nam.
Người Việt Nam, rất tin tưởng triết lý thiện ác nghiệp báo, nhân quả,
luân hồi và ý thức được giá trị nguyên lý duyên sinh (tương quan với nhau
trong sự sinh tồn) của Phật giáo. Để thể hiện tinh thần đùm bọc lẫn nhau, họ
thường hát lên những câu hò, những lời ru, nhằm khuyên nhau cách ăn ở nên
“tránh dữ làm lành”, mong mỏi cuộc sống được hạnh phúc, an vui, đồng thời
hy vọng con cháu sau này nhờ ân đức đó mà gặp may mắn trong cuộc sống,
thể hiện trong câu ca dao:
“Ai ơi! Hãy ở cho lành
Kiếp này không được, để dành kiếp sau.”
Hai câu ca dao này hàm chứa triết lý sâu sắc của đạo Phật mà thời xưa
đã được người Việt Nam coi như triết lý sống, đó cũng tiêu biểu cho đạo đức
Phật giáo là “ở cho lành” và lại còn thể hiện tư tưởng nhân quả luân hồi qua
hai câu “Kiếp này” và “Kiếp sau”. Họ căn cứ dòng thời gian trải dài xuyên
qua ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và tương lai, mà tin tưởng rằng sẽ có kiếp
sau, vì có kiếp này, cũng như tin tưởng rằng sẽ có ngày mai vì có ngày hơm
nay, mặc dù kiếp sau và ngày mai chưa bao giờ đến với họ. Vì tin tưởng
những lý lẽ đó, con người khuyên nhau một cách sống thể hiện qua hai câu ca
dao nêu  trên “tránh dữ làm lành” và những điều lành đó tuy rằng khơng được
thụ hưởng ở kiếp này nhưng rồi sẽ được thụ hưởng ở kiếp sau chẳng bao giờ
biến mất.
Thời đại nào con người cũng cần có đạo đức hơn. Nếu con người có tài
năng mà khơng có đạo đức thì cũng sẽ khơng là người có ích cho đời. Nếu
con người có đạo đức thì sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống: “Có đức
khơng sức mà ăn”.
15


Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều có chứa
đựng ít nhiều triết lý nhà phật và những hình ảnh về ngơi chùa, về phật, trải

qua hàng ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Việt Nam:
Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt
Đất vua, chùa làng là một hình ảnh gần gũi với dân, với làng, vơí nước
như vậy, nếu ai xúc phạm đến chùa, phật thì cũng có thể hiểu là xúc
phạm đến đạo lý, đến quốc gia. Trên tinh thần đó người dân Việt Nam quyết
một lịng bảo vệ ngơi chùa quê hương của mình:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”
Dân gian Việt Nam vốn có cách định thời gian bằng đêm năm canh,
ngày sáu khắc hoặc bằng tiếng gà, tiếng chim nhưng thường khi lại là tiếng
chng, tiếng trống của chùa:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông linh Mụ canh gà thọ Xương
Trên chùa đã động tiếng chuông
Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu”
Là người Việt Nam khơng thể khơng hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn
và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người
dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp này khơng phải tự nhiên mà có, mà
chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ ngàn
xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
16


Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Hay Núi cao biển rộng mênh mơng
Cù lao chín giữa ghi lịng con ơi”
6.4 Những dấu ấn trong văn học

Nền văn học bác học của dân tộc Việt Nam đã được ảnh hưởng nền văn
hóa Phật giáo có thể tạm khởi điểm từ nền văn học chữ Nôm và tiếp đến nền
văn học chữ Hán trở về sau. Trên lĩnh vực nền văn học bác học, văn hóa Phật
giáo đã dung hịa vào văn hóa dân tộc rất phong phú. Cụ thể như tác
phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn
Du, cho đến Văn Học Lý Trần đã nói lên một cách hùng hồn sự đóng góp rất
lớn của văn hóa Phật giáo. Thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý
phật giáo.Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi phật giáo du nhập vào nước Việt,
nghĩa là khi chữ Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập
đến sự ảnh hưởng của phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết
chữ Nôm, chữ Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau.
Trước hết chúng ta xem trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia
Thiều. Nguyễn Gia Thiều, trong “Cung oán ngâm khúc” đã mượn tư tưởng
Phật giáo để diễn tả sự si mê của con người không biết cuộc đời là vô thường,
không biết kiếp sống là giả tạo như giấc mộng Nam Kha mà cứ mãi đam mê
chạy theo bả vinh hoa, mùi phú quý giống như con thiêu thân trước ngọn đèn
dầu, rốt cuộc rồi chỉ cịn lại hai bàn tay khơng. Điều đó được thấy trong đoạn
thơ dưới đây:
Mùi phú quý giữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh.
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay khơng.
17


Nguyễn Du tin tưởng, nương theo học thuyết nhân quả nghiệp báo của
Phật giáo xây dựng nên tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Học thuyết Nhân
Quả Nghiệp báo trong Đoạn trường tân thanh chính là: “Đã mang lấy nghiệp
vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn bởi tại lòng ta/ Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Học thuyết nhân quả nghiệp báo đã thay thế

học thuyết thiên mệnh là không cho nàng Kiều kết thúc cuộc đời bạc mệnh
dưới sông Tiền Đường, mà phải được sống để tái hợp với Kim Trọng qua sự
vớt lên của sư Giác Duyên. Theo học thuyết nhân quả nghiệp báo, mối tình
đầu giữa nàng Kiều và Kim Trọng chính là nghiệp nhân và nàng Kiều được
tái hợp với Kim Trọng chính là nghiệp quả mà sư Giác Duyên là biểu tượng
cho học thuyết của Phật giáo làm gạch nối gieo duyên.
Nền Văn học Lý - Trần là những chứng tích hùng hồn nhất về sự đóng
góp vĩ đại của Phật giáo cho nền văn hóa dân tộc và nói lên được sự phát triển
của văn hóa Phật giáo hịa quyện vào văn hóa Việt Nam. Dù bất cứ thời đại
nào, cũng không thể chối bỏ được sự đóng góp này của Phật giáo cho nền văn
hóa dân tộc trên lĩnh vực độc lập và tự trị, văn hóa Phật giáo đã hội nhập vào
nền văn hóa Việt Nam.
6.5 Ảnh hưởng qua phong tục tập quán
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi
dân tộc. Thơng qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được
những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với
người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá
nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời
sống hằng ngày của người Việt.
6.5.1 Ảnh hưởng qua tập tục ăn chay,thờ Phật,phóng sinh và bố thí
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đơng,
chú trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho
cơ thể được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác
18


sĩ Soteylo, và bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất
độc, rất nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho
rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và khơng kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó,
nên nguời việt nam dù khơng phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục

này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến
nay. Tục ăn chay: rất đông người Việt Nam chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa
này. Ăn chay (hay ăn lạt) xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo - vì khi
đã trở về với Phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó
giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương u mọi lồi.
Thơng thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật
tử cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng
một và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14,
15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu
ngày là những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay
ngày 28, 29), có người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày
1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày
27,28,29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường là
tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng bảy và tháng mười) hay
cả năm, đơi khi có một số người đi phát nguyện ăn trường trai giống như
những người xuất gia.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam.
Việc thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử,
người mộ đạo thờ phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng
dùng tượng phật hay tranh ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang
trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người
này, phật giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Tục phóng sinh cũng mang ý nghĩa sâu xa nhằm chuyển tải thông điệp
từ bi và tơn trọng sự sống mn lồi của Đức Phật. Phong tục này đã có ảnh
19


hưởng từ lâu trong dân gian Việt Nam và những năm gần đây cũng được một
số nhà tu hành Phật giáo quan tâm phục hồi trở lại.
Có thể nói, đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh là những phong tục

đẹp được duy trì trong sinh hoạt Phật giáo ở Việt Nam, đã góp phần giáo dục
tinh thần hướng thiện cho con người Việt Nam từ xưa đến nay.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng
sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và
mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa..để đem về chùa chú
nguyện rồi đi phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn
sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về
chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình
thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt
cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống
gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá làng đùm lá rách.
6.5.2 Ảnh hưởng qua tập tục cúng rằm,mùng 1 và lễ chùa
Người Việt Nam cịn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào
những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và
rằm tháng bảy (lễ vu lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống người Việt. Tuy nhiên, đi viếng chùa cũng tùy
thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người. Cánh cửa chùa bao giờ
cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh, nhất là các ngày hội lớn của Phật
giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc những ngày kỷ niệm lớn của lịch
sử dân tộc, (giổ tổ Hùng Vương). Vào những ngày này, đông đảo các tầng
lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều qui tụ về đây. Trước cánh cửa
thiền mơn, những khn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thốt của hoa huệ,
hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu khơng khí ấm
cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lịng thành kính của họ đối với Đức Phật và
các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét
20




×