Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học tác động của bối cảnh thế giới, công cuộc đổi mới đến sự phát triển của giác dục và đào tạo việt nam hiện nay và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.37 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục có một vai trò rất quan trọng đối với vận mệnh của mỗi quốc
gia trong đó có Việt Nam. Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn
xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục
và chính sách giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm
quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đều phải coi trọng
lĩnh vực này.
Đặc biệt là khi thế giới đang không ngừng phát triển, các phát minh của
thế giới đang trực tiếp và gián tiếp tác động đến nhiều lĩnh vực trong đó có
giáo dục ở Việt Nam. Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng là nhân tố
chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam
mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu.
Ngày nay, cả nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của trí tuệ,
của nền kinh tế tri thức, vấn đề con người đã được đặt ra ở tầm cao mới, coi
con người là vốn quý nhất, coi sự phát triển nguồn nhân lực con người là
cuộc cách mạng trong bối cảnh thế giới đang biến động mạnh mẽ, cùng hợp
tác, cùng cạnh tranh. Nguồn lực con người là số dân và chất lượng con
người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất. Vì vậy, chúng ta phải tập trung chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo,
phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã
hội, lực lượng sản xuất đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của con
người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, kể cả kiều bào ta ở nước
ngoài phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ
phận nhân tài, trên nền sức mạnh dân trí với cốt lõi là nhân cách, nhân phẩm
đậm đà bản sắc dân tộc.
1



Nhìn chung chúng ta có thể thấy rằng, trong nhiều thập kỷ qua, nhất là
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, việc chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo và
phát huy nguồn lực con người luôn được quan tâm hàng đầu và đó là nhiệm
vụ trung tâm của tồn Đảng, tồn dân với đội ngũ trí thức là nịng cốt. Đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và động lực của
phát triển kinh tế - xã hội tạo cơ sở để thực hiện quan điểm phát triển nội sinh.
Chính vì thế với chúng ta, giáo dục có một vai trị rất quan trọng đối với vận
mệnh của đất nước.
Thế giới đang toàn cầu hóa, điều đó địi hỏi Việt Nam cũng phải bắt kịp
những xu thế, những biến động mới của các quốc gia để không bị tụt hậu.
Việc chạy theo các xu thế một phầm mang lại nhiều cơ hội cho nền giáo dục
của Việt Nam tuy nhiên nó cũng dẫn chúng ta đến nhiều vấn đề cần phải đối
mặt. Chính vì thế, trong khuôn khổ môn học “Lãnh đạo quản lý giáo dục,
khoa học và môi trường”, sinh viên lựa chọn: “Tác động của bối cảnh thế
giới, công cuộc đổi mới đến sự phát triển của giác dục và đào tạo Việt Nam
hiện nay và những vấn đề đặt ra” làm vấn đề để nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận “Tác động của bối cảnh thế giới, công cuộc đổi mới đến sự
phát triển của giác dục và đào tạo Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra”
được sinh viên nghiên cứu để từ đó rút ra những vấn đề phải đối mặt trong bối
cảnh toàn cầu hóa đến lĩnh vực giáo dục đào tạo của Viêt Nam . Tiểu luận đi
vào khái quát một số khái niệm trong vấn đề giáo dục đào tạo, hội nhập thế
giới, chỉ ra những xu hướng tác động đến Việt Nam trong đó có cơ hội và
những thách thức. Qua đó, đề ra một số giải pháp có thể hạn chế các vấn đề
đang được đặt ra trong lĩnh vực giáo dục đào tạo của Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là các tác động của bối cảnh thế
giới đến sự phát triển của giác dục và đào tạo Việt Nam hiện nay. Phạm vi
2



nghiên cứu là các thông số, tài liệu về lĩnh vực giáo dục của các trường, các
trung tâm nghiên cứu của các quốc gia trên thế giới trong thời gian từ năm
2015 cho đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu tiểu luận này, sinh viên đã sử dụng các phương pháp
phân tích tài liệu bằng văn bản, phương pháp phân tích và tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp lịch sử và các phương pháp nghiên cứu xã hội học khác
như quan sát.
5. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận có kết cấu 3 chương 12 tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠNG CỤ CĨ TRONG TIỂU LUẬN
1.1

Khái niệm thế giới, bối cảnh thế giới

Theo quan niệm triết học, toàn bộ thế giới vật chất, vũ trụ bên ngồi cơ
thể bản thân con người, là mơi trường mỗi cá nhân hoặc toàn thể con người
sinh sống, hoạt động. Nó cịn mang nghĩa là tồn bộ kinh nghiệm sống, hiểu
biết và lịch sử của con người.
Bối cảnh thế giới ta có thể hiểu đơn giản là tình hình kinh tế- chính trịvăn hóa của các quốc gia dân tộc trên trái đất. Bao gồm sự biến động của các
quốc gia dân tộc, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới và sự
thay đổi, phát triển của nhiều nền tảng như công nghiệp, công nghệ số. Sự

dịch chuyển các luồng thông tin hay sự biến đổi lên xuống của các lĩnh vực
làm nên sự đa dang của bối cảnh thế giới trong từng phút từng giây. Bối cảnh
thế giới có vài trị quan trọng và tác động to lớn tới sự phát triển các quốc gia
trên tồn thế giới, khơng những điều phối sự lên xuống của kinh tế thị trường,
thay đổi những yếu tố văn hóa của các quốc gia mà cịn ảnh hưởng đến toàn
bộ các lĩnh vực trong đời sống xã hội của con người trong đó có giáo dục.
1.2

Khái niệm giáo dục, đào tạo

Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây
là một từ gốc Latin ý nghĩa của nó là để vươn tới những gì hồn thiện, tốt lành
hơn và hạnh phúc hơn. Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam
đều trình bày “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người”.
Định nghĩa này nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn
mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng không đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục
đích cuối cùng của việc đó.

4


Như vậy, ta có thể hiểu đơn giản “giáo dục” là q trình đào tạo, hồn
thiện của mỗi cá nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa của những người làm cơng
tác giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước. Thế hệ này có
nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả
những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện
hơn.Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội lồi người mới hình
thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển
loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con

người nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội.
Cịn đào tạo ta có thể hiểu theo nghĩa gần nhất là đề cập đến việc dạy
các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực
cụ thể, một cách chuyên sâu. Từ đó để người học lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất
định. Giáo dục và đào tạo thường được đi kèm với nhau để mang ý nghĩa
giảng dạy, truyển tài và hướng dẫn cho các thế hệ sau lĩnh hội được những
kiến thức khoa học, cũng như đời thường trong cuộc sống.
1.3

Các xu thế đổi mới của thế giới hiện nay

Trong thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển và đóng
vai trị ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia, trong đó lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được nhiều quốc gia
chú trọng và đưa công nghệ vào để dễ dàng trong việc quản lý.
Ngày nay, tri thức được xác định là lực lượng sản xuất trực tiếp và là
động lực phát triển hàng đầu đối với mọi quốc gia dân tộc. Để phát triển bền
vững, các quốc gia phải tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển giáo dục và đào
tạo, trong đó có việc ứng dụng các sản phẩm của khoa học công nghệ nhằm
ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào quản lý giáo dục đào tạo. Đặc
biệt là các quốc gia tiên tiến và phát triển thì những thành tựu của cách mạng
cơng nghiệp 4.0 lại được chính phủ các nước đề cao hơn nữa. Để nói về sự
5


phát triển hiện đại, hay bối cảnh thế trong thời đại cơng nghệ số hiện nay ta có
thể kể đến các xu hướng sau.
Một là, xu hướng liên kết hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và

công nghệ ngày càng tăng.
Trong bối cảnh thế giới mới hiện nay, để tận dụng các cơ hội, hạn chế
các tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, thì các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đang tăng cường liên kết, hợp tác
về khoa học và công nghệ với các nước khác. Hợp tác quốc tế trong nghiên
cứu khoa học và công nghệ cho phép các chủ thể, các quốc gia khai thác được
các thành quả nghiên cứu mới về khoa học và công nghệ của thế giới, tận
dụng được vốn, công nghệ, nhân lực của đối tác và để phát huy lợi thế so sánh
của mình trong nghiên cứu khoa học và cơng nghệ. Mức độ hợp tác quốc tế
tùy thuộc vào tiềm lực và khả năng khoa học và công nghệ của từng quốc gia.
Hai là, xu hướng hướng vào những lĩnh vực khoa học và công nghệ mới
gắn với cách mạng công nghiệp lần thứ tư như các ngành công nghệ thơng tin,
trí tuệ nhân tạo, cơng nghệ mơi trường, cơng nghệ sinh học, công nghệ nano...
Những hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực gắn với khai
thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng năng lượng hóa thạch, thâm dụng nhiều
lao động và nguyên liệu thô, thải nhiều chất bẩn, độc hại ra môi trường sẽ
giảm. Cơ cấu công nghệ và cơ cấu sản phẩm sẽ dịch chuyển theo hướng hiện
đại, phát triển bền vững. Các thành tựu công nghệ của cách mạng cơng nghiệp
lần thứ tư như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, Internet kết
nối vạn vật, công nghệ in 3D.... được ứng dụng vào trong các ngành kinh tế
làm thay đổi bản chất, phương thức sản xuất, kinh doanh, quản trị đặt ra
những yêu cầu mới đối với các quốc gia.
Nghiên cứu trong cơng nghệ mơi trường có thể giúp đạt được các mục
tiêu bảo vệ môi trường như giảm nhẹ biến đổi khí hậu, kiểm sốt ơ nhiễm
khơng khí và nước, nâng cao đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả sử dụng
tài nguyên thiên nhiên.
6


Công nghệ sinh học giúp đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế và xã

hội bền vững như giúp cải thiện sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường, sản
xuất năng lượng sạch...
Ba là, xu hướng gia tăng và chuyển dịch đầu tư cho khoa học và công
nghệ trên thế giới.
Đầu tư cho khoa học và công nghệ sẽ tạo ra những sản phẩm và cơng
nghệ mới, từ đó góp phần đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và doanh
nghiệp. Các nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ trên thế giới chủ yếu là
từ chính phủ, doanh nghiêp và các tổ chức khác.
Mỹ là nước dẫn đầu trên thế giới trong đầu tư cho khoa học và công
nghệ. Năm 2007, Mỹ đầu tư 369 tỷ USD cho phát triển khoa học và công
nghệ, đồng thời lượng đầu tư này đều được gia tăng qua các năm.Trong giai
đoạn 2003 - 2007, đầu tư vào khoa học công nghệ từ ngân sách liên bang của
Mỹ liên tục tăng qua. Nếu năm 2003 nguồn đầu tư là 118,1 tỷ USD thì năm
2007 con số này là 137 tỷ USD. Ở Trung Quốc, trong giai đoạn 1995-2003,
tốc độ tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển hàng năm của Trung Quốc đạt
con số 20%, theo sau là Singapore với tốc độ tăng trưởng là 15%. Đầu tư cho
khoa học và công nghệ của các quốc gia, doanh nghiệp trên thế giới đã tăng
lên đáng kể từ những năm 1980.
Bốn là, xu hướng tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thống
nhất theo các quy định, tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt động khoa học và
cơng nghệ.
Khi tham gia vào q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia, các tổ chức kinh tế đều phải thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ đối với hàng hố khoa học và công nghệ theo các quy định quốc tế.
Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm hạn chế tối đa hàng giả, đánh cắp, sao
chép không trả tiền các bí quyết cơng nghệ, các sản phẩm hàng hố khoa học
và công nghệ ở các nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ yếu. Để đảm bảo việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi quốc tế, các nước phát triển đã gắn
7



việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với thương mại quốc tế trong các đàm phán
về hội nhập kinh tế quốc tế.
Để các kết quả, sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng
được trên phạm vi quốc tế trong bối cảnh chun mơn hóa các hoạt động khoa
học và công nghệ ngày càng gia tăng, cần phải có hệ thống các quy định về
tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá thống nhất giữa các quốc gia. Điều này buộc
các nước và các chủ thể khi tham gia vào q trình nghiên cứu khoa học và
cơng nghệ quốc tế phải tuân thủ những quy định, khuôn khổ, chế độ và tiêu
chuẩn quốc tế trong các hiệp định, điều ước quốc tế đã ký kết.
Xu hướng này đòi hỏi các quốc gia phải xem xét, điều chỉnh chính
sách, hệ thống pháp luật liên quan và cách thức nghiên cứu khoa học cho phù
hợp và hài hòa với những quy định quốc tế.
Năm là, xu hướng tự do hoá các hoạt động khoa học và công nghệ quốc tế.
Để thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ trên phạm vi quốc
tế, các quốc gia không được phân biệt đối xử giữa các chủ thể trong nước và
nước ngoài trong các hoạt động về đầu tư, thương mại, dịch vụ, di chuyển
nhân lực quốc tế….nên đã hình thành nên xu hướng tự do hoá các hoạt động
nêu trên. Theo xu hướng này, các nguồn lực và công nghệ của các quốc gia,
chủ thể, doanh nghiệp sẽ vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia, lưu thông,
dịch chuyển trên quy mơ quốc tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các
hoạt động khoa học và công nghệ tồn cầu.
Trong xu hướng tự do hóa các hoạt động khoa học và công nghệ, các
công ty xuyên quốc gia có vai trị quan trọng. Các hoạt động đầu tư của các
cơng ty xun quốc gia có hai xu hướng: Xu hướng tập trung vào các lĩnh vực
công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để khai thác nguồn nhân lực chất lượng
cao và đáp ứng nhu cầu thị trường nước sở tại. Do vậy, xu hướng này chủ yếu
xảy ra ở các nước có cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu
và có thị trường tiềm năng lớn cho các sản phẩm công nghệ cao như nhóm
các nước có nền kinh tế đang nổi lên.

8


Như vậy, xu hướng phát triển của khoa học và cơng nghệ tồn cầu hiện
nay tiếp tục khẳng định tài sản trí tuệ, khoa học và cơng nghệ có vai trò ngày
càng quan trọng, đặc biệt là việc sản xuất ra các sản phẩm khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng tri thức cao, mang lại giá trị lớn. Những
xu hướng này có những tác động lớn đến q trình phát triển khoa học và
cơng nghệ ở Việt Nam trên cả hai bình diện: cơ hội và thách thức.
CHƯƠNG 2
TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH THẾ GIỚI ĐẾN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Sự phát triển của thế giới trên lĩnh vực giáo dục hiện nay
Các quốc gia rất mực xem trọng giáo dục, mỗi quốc gia xây dựng cho
mình một cách vận hành hệ thống giáo dục của riêng mình.
Cơng bằng và miễn phí chính là yếu tố mà Giáo dục Phần Lan hướng
đến và xây dựng. Giáo dục Phần Lan xem công bằng là một trong những điều
quan trọng nhất. Ông Olli Luukkainen, chủ tịch hội đồng giáo viên Phần Lan
chia sẻ “Tất cả trẻ em ở Phần Lan dù thành thị hay nông thôn đều được hưởng
một nền giáo dục như nhau.” Thực hiện tiêu chí cơng bằng này, giáo dục
Phần Lan không phân biệt giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn, tất cả đều
được hưởng một nền giáo dục như nhau. Giáo dục ở Phần Lan cũng khơng có
các cuộc thi sát hạch nhằm phân loại học sinh, giáo dục hướng đến các học
sinh yếu kém, giúp nhà trường trở thành mơi trường thân thiện.
Cịn đối với Nhật Bản yếu tố đạo đức chính là cốt lõi. Chúng ta đều biết
Nhật Bản nổi tiếng là một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu
chí giáo dục gắn liền với đạo đức, quốc gia này đề cao tính tự lập và tinh thần
kỷ luật. Tư tưởng của người Nhật vẫn cịn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền
thống của dân tộc mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết

đến đầu tiên. Điều này thể hiện rất rõ sau nhiều sự kiện diễn ra trên đất nước
mặt trời mọc. Sau trận động đất khủng khiếp năm 2011, trong các cuộc cứu
9


trợ, người Nhật không chen lấn nhốn nháo, không tranh giành khẩu phần. Trái
lại, họ còn nhường nhịn lẫn nhau và kiên nhẫn xếp hàng chờ đợi dù biết rằng,
có thể tới lượt của mình thì chẳng cịn lại gì.
Để trang bị tính tự lập cho học sinh, giáo dục Nhật Bản cịn nhấn mạnh
trung tâm của giáo dục chính là học sinh, giúp học sinh trải nghiệm kiến thức
từ thực tế chứ không phải là nhồi nhét kiến thức một cách lý thuyết. Có nhiều
loại sách với các chuẩn đầu ra khác nhau để tăng cường khả năng phản biện
cho học sinh, kích thích việc tìm tịi, phát huy sức sáng tạo. Các bài học ở
Nhật Bản được các giáo viên ghi trích nguồn ở đâu, rồi khuyến khích học sinh
tìm thêm nguồn thơng tin mới, cổ vũ học sinh đứng từ các góc độ cách nhìn
khác nhau để đánh giá nhận xét vấn đề. Đó là một trong những lý do cốt yếu
giúp người Nhật nằm trong tốp đầu các quốc gia có lượng bằng sáng chế cao
nhất thế giới với vô số thương hiệu tồn tại xuyên thế kỷ. Một điều đặc biệt
nữa giống với Phần Lan đó chính là giáo dục ở Nhật Bản khơng gây áp lực thi
cử cho học sinh. Giáo dục Nhật Bản cũng khơng tổ chức theo kiểu “gom học
sinh có điểm số cao lại với nhau” hay ở Việt Nam chúng ta vẫn thường xây
dựng là hình thức lớp chọn. Nhà trường cũng không chủ trương “khoe” kết
quả học tập của các em đến mọi người, vì cho rằng điểm số không phản ánh
được khả năng thực sự của trẻ, mọi học sinh đều có cơ hội học tập trong mơi
trường bình đẳng.
Đối với cường quốc kinh tế là Mỹ thì nền giáo dục Mỹ hướng con
người đến tự do, có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biến động
hàng ngày. Bởi người Mỹ quan niệm nếu bó buộc học sinh sẽ làm mất tính
sáng tạo của trẻ. Các chương trình học tại các trường ở Mỹ rất giàu tính trải
nghiệm, kích thích sự phát hiện, khuyến khích trẻ đưa ra tất cả suy nghĩ , đặt

mọi câu hỏi về thế giới xung quanh. Tự do của người Mỹ là tự do về tư tưởng,
giữ quan điểm của mình đồng thời tôn trọng quan điểm ý kiến của người
khác. Giáo dục Mỹ quan niệm và ủng hộ học sinh đứng ra nói lên quan điểm
suy nghĩ của mình, học sinh có quyền khơng thích hoặc khơng tán thành với
10


một ý kiến nào đó nhưng khơng được ép người khác phải đứng về phe mình.
Vì điều đó thể hiện sự thiếu tôn trọng quyền tự do của người khác.
Với Đức thì bình đẳng chính là yếu tố được đề cao trong giao dục. Một
trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh,
trong lớp học khơng có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có
một người thường được gọi là “ phát ngôn viên” để chuyển thông điệp của
thầy cô đến học sinh và ngược lại.“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp,
phong trào nhằm cải thiện tình hình học tập, giúp các bạn học lực yếu, phát
huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp…
Ngoài ra người Đức còn rất chú trọng trải nghiệm thực tế trong giáo
dục. Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính
trải nghiệm thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung.
Thầy cơ đứng lớp cịn quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm
người ta mới có thể xuất bản một quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to
lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên kiến thức sách vở, phần lớn đã
lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách. Hơn một nửa số học sinh ở
Đức chọn con đường học nghề thay vì dấn thân vào con đường đại học.
Người Đức quan niệm học tập để có một công việc phù hợp, thế nên trong khi
một số nước như Việt Nam xem những học sinh không vào được đại học sẽ
khơng có cơ hội phát triển, thì ở Đức người ta lại kỳ vọng rằng bộ phận học
sinh này sẽ tỏa sáng khi được ghép với một công việc phù hợp. Đức đã xây
dựng một chương trình giáo dục và đào tạo nghề nghiệp toàn quốc, được quản
lý bởi Viện Giáo dục và Đào tạo nghề nghiệp liên bang. Đây là một chương

trình phối hợp giữa chính phủ và giới doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để
đào tạo nguồn lực cần thiết cho xã hội. Chương trình giáo dục kép này truyền
đạt kiến thức cả trên lớp học lẫn thông qua thực hành. Một cách cụ thể, người
học sẽ đến các trường dạy nghề từ hai đến ba ngày một tuần. Ở đó, các lý
thuyết và thực tiễn về ngành nghề sẽ được truyền dạy. Ngoài ra, các trường

11


cũng buộc phải dạy các môn về kinh tế và xã hội, đào tạo ngoại ngữ và các
kiến thức cơ bản khác.
Trong khi nhiều nước khác xem giáo dục phổ thơng là căn bản, cịn cụ
thể làm gì phải sau đại học, cao đẳng hay các trường nghề. Thì ở Pháp khi học
phổ thơng các học sinh đã biết mình sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp. Cho nên ở
Pháp từ cấp 1 của chương trình phổ thơng đã dạy rất bao quát. Pháp có đến ba
loại bằng tốt nghiệp phổ thông khác nhau với những ứng dụng khác nhau.
Đầu tiên là BAC General, Hệ này dành cho những học sinh có học lực khá
giỏi hoặc những em thực sự muốn theo đuổi chương trình đại học hay cao học
trong tương lai. Theo đó, các em có thể chọn học khối ngành tự nhiên, khối
ngành kinh tế xã hội, hoặc khối ngành văn học. Các em học lực yếu hơn
nhưng vẫn mong muốn theo đuổi việc học thì có thể chọn hệ BAC Tech.
Chương trình đào tạo hệ này tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục theo học các
trường cao đẳng, trở thành những kỹ thuật viên, chuyên viên cao cấp. Cuối
cùng, những học sinh không hứng thú với chữ nghĩa hay có nguyện vọng
muốn vừa tốt nghiệp phổ thơng là có thể đi làm những cơng việc chân tay,
làm thợ thì có thể đi theo hệ cung cấp các nghề cụ thể. Với hệ này các em
học sinh được định hướng, chọn lựa và trong suốt hai năm cuối phổ thơng có
thể rèn luyện để đi làm ngay khi vừa ra trường với tay nghề vững.
Công nghệ số, các sản phẩm trí tuệ thơng minh được ứng dụng nhiều
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.

Sự phát triển của công nghệ trong giáo dục giúp nâng cao hiệu quả
giảng dạy, mang lại những trải nghiệm mới, sáng tạo cho cả giáo viên, học
sinh. Năm 2018 đánh dấu sự phát triển các xu hướng công nghệ mới của nền
giáo dục, khi tiến bộ công nghệ, phương pháp giảng dạy mới và xu hướng
ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục xuất hiện.
Điện tốn đám mây có vẻ là một khái niệm mới mẻ đối với giáo dục
Việt Nam, tuy nhiên trên thế giới điện toán đám mây đã được sử dụng từ lâu
và tiếp tục được ứng dụng rộng rãi trong giáo dục. Học sinh sẽ khơng cịn
12


phải lo lắng khi lỡ tay xóa hay làm mất tài liệu quan trọng. Các bài tiểu luận,
nội dung liên quan đến dự án, lịch học, bài tập có thể được chia sẻ dễ dàng
hơn và lưu trữ an toàn trên đám mây như Google Documents, cái chúng ta
vẫn hay gọi là Google trang tính. Giáo viên cũng có thể dễ dàng giao bài,
kiểm tra tiến độ và chấm bài cho hàng chục học sinh chỉ với một vài cú click
chuột. Nhờ việc lưu trữ dữ liệu một cách tập trung, điện toán đám mây cho
phép học sinh và giáo viên tăng phạm vi tiếp cận, chia sẻ thông tin mà khơng
tăng chi phí hoặc thêm áp lực thời gian.
Các công nghệ thực tế ảo cũng được đưa vào ứng dụng để làm đa dạng
hóa mơi trường học tập. Năm 2018, công nghệ đã cung cấp cho giáo viên các
công cụ để nâng cao việc học tập thông qua thực tế ảo VR và thực tế ảo tăng
cường AR. Theo đó, VR sử dụng thiết bị mơ phỏng để tác động lên các giác
quan như thị giác, thính giác, xúc giác, nhằm giảm nhận thức người dùng với
môi trường thực xung quanh xuống thấp nhất và đưa họ nhập vai vào khơng
gian ảo. Cịn AR tập trung vào việc kết hợp giữa thế giới thực và thông tin ảo.
Thông qua các thiết bị như kính thơng minh hay điện thoại thơng minh, người
dùng vẫn nhìn thấy các sự vật của thế giới thực cùng những thông tin kỹ thuật
số tương ứng kèm theo. Sau thành công của một phần mềm trị chơi thơng
minh Pokemon Go, thế giới chứng kiến sự xuất hiện của thực tế ảo tăng

cường AR trong giáo dục năm 2017. VR và AR sẽ hữu ích đối với những mơn
học cần nghiên cứu các mơ hình phức tạp như giải phẫu cơ thể người hay
thiết kế xây dựng. Học sinh có thể tiếp cận với đồ họa 3D trực quan thay vì
những hình vẽ 2D nhàm chán trong sách. Một điều thuận lợi hơn nữa đó
chính là số lượng ứng dụng và nền tảng giảng dạy miễn phí được thiết kế cho
giáo dục ảo ngày càng phát triển. Phụ kiện VR cũng có mức giá hợp lý hơn để
người dùng có thể tiếp cận dễ dàng. VR và AR sẽ sớm chuyển từ thử nghiệm
sang phổ biến trong học tập và giảng dạy.
Giáo dục STEAM và STEM đối với nhiều người công nghệ này đã quá
quen thuộc với nhiều nước phát triển trên thế giới. Công nghệ STEM là viết
13


tắt của các từ Science (khoa học), Technology (công nghệ), Engineering (kỹ
thuật) và Maths (toán học). Giáo dục STEM vận dụng phương pháp học tập
chủ yếu dựa trên thực hành và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo.Với học
sinh cấp 3, việc học theo phương pháp STEM cịn có ảnh hưởng tích cực tới
khả năng lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Khi được học nhiều dạng kiến
thức kết hợp với thực hành hay các trò chơi, học sinh sẽ có hứng thú học tập
hơn, từ đó, khuyến khích các em có định hướng tốt khi chọn chuyên ngành
học đại học. STEAM được tạo thành từ thuật ngữ "STEM" và "Nghệ thuật Art". Giáo dục nghệ thuật giúp phát triển óc sáng tạo, vậy nên đổi mới từ
STEM sang STEAM là điều cần thiết cho ngành giáo dục.
Hiện nay, nhiều trung tâm tiếng Anh áp dụng dạy học theo phương
pháp STEAM. Theo đó, học sinh sẽ có các buổi học nhóm cùng làm thí
nghiệm khoa học đơn giản, làm các sản phẩm tư chế hay tham gia vào các tiết
mục đóng kịch để nâng cao khả năng nói và rèn luyện tư duy độc lập. Điều
này vừa giúp lôi kéo sự chú ý của trẻ, vừa kích thích não bộ tưởng tượng và
ghi nhớ.
Bên cạnh đó, di động thơng minh được cho phép sử dụng để học sinh
thuận lợi trong thu xếp lịch học và thuận lợi trong nhiều thời điểm như dịch

bệnh hoặc thời tiết không tốt.
Ngày nay, nhiều học sinh được trang bị thiết bị di động, nếu biết tận
dụng chúng trong học tập sẽ rất hữu ích. Theo đó, học sinh có thể tải những
ứng dụng học tập về điện thoại di động của mình để tự học mọi lúc, mọi nơi.
Có thể thấy cuộc cách mạng 4.0 là thời đại với những thành tựu đột phá về: trí
tuệ nhân tạo, robot, Internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ
nano,… đã đưa công nghệ có mặt vào trong mọi lĩnh vực đời sống: kinh tế,
ngân hàng, xây dựng, nông nghiệp, giao thông, giải trí, thiết bị gia dụng, cơng
nghệ thơng tin truyền thơng, v.v... Và tất nhiên, giáo dục với vai trò dẫn dắt
xã hội khơng thể nào nằm ngồi con sóng thời đại. Theo Viện nghiên cứu
toàn cầu của Tập đoàn Tư vấn Chiến lược Kindsley, năm 2030, máy tính sẽ
14


thay thế 60% công việc hiện tại, tức là khoảng 800 triệu người sẽ mất việc
làm. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới thì khoảng 60% người lao động sẽ làm
những việc chưa từng học qua, trong đó phần lớn liên quan đến công nghệ.
Thực tiễn này dẫn đến một xu hướng tất yếu cũng chính là nhiệm vụ cấp thiết
cho mọi quốc gia là ứng dụng công nghệ vào giáo dục.
2.2 Sự phát triển của giáo dục, đào tạo Việt Nam hiện nay
Trong thời gian những năm gần đây, cụ thể là giai đoạn năm học 20172018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản số 4116/BGDĐT, ngày
08/9/2017 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ công nghệ thông tin đối với
các Sở Giáo dục và Đào tạo. Qua đó, các Sở Giáo dục và Đào tạo cần tập trung
chỉ đạo triển khai 1 trong 3 nhiệm vụ trọng tâm là Triển khai có hiệu quả Đề án
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt
động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 được phê duyệt
theo Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, cơng tác triển khai nhiệm vụ này tại Việt Nam vẫn diễn ra
với nhịp độ chậm so với các quốc gia phát triển trên thế giới. Các hoạt động

nâng cấp cở sở vật chất; sử dụng phần mềm online để quản lý công việc hay
nhân sự; áp dụng công nghệ vào giảng dạy,… dường như chưa mang lại đột
phá trong việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh trong giáo dục.
Một số mơ hình tiêu biểu như: MOOC của Đại học FPT, Topica; Sách giáo
khoa điện tử của Trường Quốc tế Nam Sài Gịn, chuỗi trung tâm Tiếng Anh
cơng nghệ Apax English cho trẻ 6-18 tuổi, Tiếng Anh công nghệ cho trẻ Mầm
non Touch English!, Chương trình học lập trình robot cho trẻ 3-12 tuổi,… vẫn
chưa đủ để phủ kín thị trường giáo dục với 22.998.133 học sinh, sinh viên của
Việt Nam.
Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng chú trọng hơn trong việc nâng
cao chất lượng quản lý giáo dục

15


Ngày nay, các thành tựu công nghệ như: Mạng điện tử đã và đang giúp
tăng cường an ninh trong các trường học, theo dõi hành vi của học sinh, quản
lí, giám sát nơi ở hay hành động của mỗi học sinh; Các cơ sở dữ liệu giúp
phân tích hành vi học tập của học sinh để có hỗ trợ, tư vấn phù hợp; hay giúp
xây dựng hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục của học sinh, cho phép
hợp nhất, quản lý và chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử
học tập, bảng điểm của học sinh để đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất,
minh bạch. Hệ thống thông báo điểm tự động cũng được ứng dụng song song
với việc họp phụ huynh ở các cấp học.
Nếu như trước đây nhà trường chỉ gặp và trao đổi được tình hình học
tập của học sinh cho bố mẹ bằng việc tiến hành gặp mặt trong các buổi họp
phụ huynh thì ngày nay hệ thống tin nhắn điện tử được sử dụng để cung cấp
cho phụ huynh thông tin của con em mình hàng tuần. Các trường chủ động
cung cấp kết quả học tập, thông báo các lịch học, lịch dã ngoại cho học sinh
để phụ huynh vừa có thể cập nhật được tình hình, vừa giúp hai bên có thể giữ

mối liên hệ bền chặt hơn. Trong các kỳ đại hội Đảng, các cuộc họp thường
niên của chính phủ vẫn thường luận bàn về định hướng trong thời gian tới vấn
đề giáo dục của Việt Nam. Mục tiêu, cách thức, phương pháp luôn được các
cấp Ủy để cao và đưa ra những phương hướng đúng đắn nhất để kích thích
cơng tác quản lý trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Tăng tính tương tác, tính thực hành – ứng dụng, tạo cảm hứng cho cả
thầy và trị trong q trình học tập
Các ứng dụng về thực tế ảo và thực tế tăng cường trong giáo dục để tạo
dựng các phịng thí nghiệm ảo, mơ hình thực tế ảo có khả năng tương tác với
người dùng, hay các cuốn sách, phần mềm dạy khoa học vũ trụ,… giúp cho
người học có những trải nghiệm đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ và gây tị mị,
hứng thú cho học sinh. Kéo theo đó những mơ hình này có tác dụng tăng tính
tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học. Ứng dụng
này cũng tạo động lực và điều kiện để các giáo viên sáng tạo, phát triển nội
16


dung bài giảng chất lượng hơn. Giáo dục của Việt Nam trước đây là kiểu giáo
dục một chiều, chiều đi từ giảng viên về đến học sinh, tuy nhiên ngày nay,
chúng ta chú trọng hơn trong việc xây dựng hệ thống dạy học hai chiều. Hai
chiều có nghĩa sinh viên, học sinh không chỉ tiếp thu kiến thức các bài dạy từ
giảng viên mà cịn có trách nhiệm phản hồi lại các thơng tin khơng chính xác,
hoặc giảng viên cho sinh viên tự nghiên cứu sau đó nhập vai giảng viên để
giới thiệu kiến thức thay vì chỉ ngồi thụ động một chỗ và chỉ nghe kèm ghi
chép các lời nói của giáo viên. Đơi khi, thay vì các tiết học ngồi trên lớp và
nghiên cứu bài học theo sách giáo khoa thì giảng viên có thể xây dựng các tiết
học ngoại khóa, đưa sinh viên ra khỏi mơi trường lớp học, cho phép sinh viên
nghiên cứu môi trường tự nhiên và ghi lại các bài học bằng báo cáo cá nhân.
Ngoài ra chúng ta cũng đang chú trọng tạo không gian và thời gian học
linh động, thúc đẩy giáo dục mở - bình đẳng – cá thể hóa. Gần đây, khóa học

trực tuyến đại chúng mở bùng nổ với các tên tuổi lớn trên thế giới như:
Udacity, Coursera, edX, Udemy, FutureLearn, và tại Việt Nam ứng dụng học
trên thiết bị di động M-Learning đã mở ra một phương thức học tập mới mang
lại nhiều lợi ích vượt bậc. Người học được tạo điều kiện để có thể học tập và
tiếp thu kiến thức một cách linh động và thuận tiện mọi lúc, mọi nơi. Điều
này thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa
chiều, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian, từ đó phát triển
nhanh về kiến thức, nhận thức và tư duy. Đi kèm với giáo dục mở là tài
nguyên học liệu mở, giúp người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả
dù họ ở đâu và trong khoảng thời gian nào.
Tạo môi trường học tập toàn diện, phát triển tư duy sáng tạo, logic cho
sinh viên, học sinh
Các lớp học về công nghệ, lập trình, tốn tư duy hay tiếng Anh cơng
nghệ,… hiện đã khơng cịn xa lạ tại những quốc gia phát triển. Tại Việt Nam,
một số chương trình học nổi bật trong xu hướng này có thể kể đến như: ERobot Coding – làm quen lập trình – phát triển tư duy sáng tạo cùng robot
17


thông minh dành cho trẻ Mầm non và Tiểu học, Touch English! – chương
trình quen với Tiếng Anh Cơng nghệ dành cho trẻ từ 18 tháng tuổi,… đều đã
mang lại những hiệu quả khác biệt cho hệ thống giáo dục cịn mang nặng tính
truyền thống. Ứng dụng cơng nghệ tích hợp vào các phương pháp giảng dạy
tiên tiến như Đa giác quan, CLIL,… đã tạo mơi trường học tập tồn diện để
học sinh được tiếp xúc với các nội dung kiến thức đa lĩnh vực đồng thời với
rèn luyện, vận dụng đa giác quan giúp phát triển tư duy sáng tạo, logic, kỹ
năng giải quyết vấn đề và phát triển đa trí thơng minh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho tổ chức giáo dục trong tuyển sinh
và phát triển bền vững
Tất cả những lợi ích mà ứng dụng cơng nghệ mang lại đều nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức giáo dục và tạo sự phát triển bền

vững cho nền giáo dục. Tuy nhiên, công nghệ không phải thứ tài nguyên mà
chúng ta có thể mua một lần và dùng cả đời vì cơng nghệ thay đổi liên tục
theo xu hướng phát triển của toàn xã hội. Thực tế này bắt buộc các tổ chức
giáo dục, các cấp lãnh đạo trong lĩnh vực này phải luôn cập nhật xu hướng
công nghệ liên tục nếu không muốn tụt hậu.
Đối với các đơn vị chưa có tiềm lực và kinh nghiệm về ứng dụng công
nghệ, đây quả thực là một thách thức lớn. Bên cạnh những hỗ trợ về chính
sách, pháp lý, cơ sở vật chất của nhà nước, tìm kiếm những đơn vị tư nhân
cung cấp các cơng cụ, giải pháp công nghệ cũng là giải pháp hữu hiệu cho vấn
đề này. Hiện nay, Công ty TNHH Phát triển và Phân phối các sản phẩm giáo
dục EPRO là đơn vị uy tín chuyên phân phối các giải pháp, thiết bị, chương
trình giáo dục cơng nghệ cao cho các tổ chức giáo dục tại Việt Nam. EPRO đã
cung cấp sản phẩm và hỗ trợ triển khai ứng dụng công nghệ vào giáo dục cho
hơn 500 trường học, trung tâm trên hơn 40 tỉnh/thành trên cả nước và hứa hẹn
sẽ góp phần cơng nghệ hóa giáo dục Việt Nam trong thời gian tới.
Theo báo cáo của Edtech UK, London & Partners, mức đầu tư cho
ngành cơng nghệ giáo dục tồn cầu là 45 tỉ GBP năm 2015, và dự kiến là 129
18


tỉ GBP năm 2020. Theo Tech Crunch, đến năm 2020, khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương sẽ chiếm 54% thị trường EdTech. Đây là minh chứng cho sự
phát triển và lan rộng của xu hướng giáo dục trên toàn cầu hiện nay trong đó
bao gồm cả Việt Nam: Sự phát triển của cơng nghệ đóng vai trị to lớn trong
sự phát triển của ngành giáo dục, giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy, mang lại
trải nghiệm mới cho cả giáo viên, học sinh,…
2.3 Sự tác động đa chiều của công cuộc đổi mới trên thế giới đến
lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam và các vấn đề đặt ra
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay
trong lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng

phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội
đối với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày
càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp khơng cịn phù
hợp mà địi hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo
dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên
biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội.
Do đó, xã hội ngày càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn
và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã
hội và do những sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì khơng ai
có thể phủ nhận về nó.
2.3.1 Các cơ hội cho Việt Nam
Một là Việt Nam có nhiều cơ hội đầu tư cho giáo dục trong xu thế cơng
nghệ hóa và hội nhập tồn cầu.
Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia, hợp tác trong các hoạt động khoa học
và công nghệ trí tuệ tồn cầu. Chúng ta có thể tiếp cận các sản phẩm trí tuệ
của các nước đang phát triển và thương thảo để có thể mang các sản phẩm đó
về ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Trong xu hướng
phát triển khoa học và cơng nghệ thế giới, sân chơi tồn cầu bình đẳng hơn,
19


liên kết ngang mạnh hơn, các quốc gia, công ty đều có thể tham gia các hoạt
động khoa học và cơng nghệ tồn cầu một cách dễ dàng, nhanh chóng, nếu có
đủ năng lực. Các nước phát triển, các cơng ty xuyên quốc gia có xu hướng
hợp tác, chuyển một phần hoạt động nghiên cứu giáo dục sang các nước khác
nhằm khai thác các lợi thế của quốc gia đó về khoa học và cơng nghệ như có
thể chế thuận lợi, có tiềm năng về nhân lực chất lượng cao và thị trường tiêu
thụ tốt..., từ đó, làm gia tăng việc hợp tác và chuyển một số hoạt động nghiên
cứu khoa học và trao đổi giao lưu giữa các chuyên gia của các nước phát triển

vào Việt Nam.
Thứ hai, Việt nam có cơ hội tiếp cận được với các nguồn lực bên ngồi
như vốn, cơng nghệ, nhân lực..., từ đó có thêm nguồn lực để mở rộng các hoạt
động nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là ứng dụng vào lĩnh vực
giáo dục và đào tạo. Nhờ tăng cường hợp tác quốc tế, các chủ thể trong quản
lý giáo dục sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn lực bên ngoài về giao lưu các hệ
thống giáo dục trên tồn cầu. Đội ngũ quản lý có thể có những chuyến thăm
đến các quốc gia có nền giáo dục được đánh giá cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc để có thể nghiên cứu cũng như học hỏi thêm những phương thức quản
lý giáo dục của các quốc gia đó.
Thứ ba, khi thế giới phát triển thì gia tăng đầu tư cho phát triển giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam cũng được củng cố thếm. Trong xu hướng phát
triển của các lĩnh vực trên thế giới, ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam,
nghiên cứu, phát triển khoa học và cơng nghệ quản lý trở thành loại hình sản
xuất quan trọng nhất, công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc
tạo ra năng suất, tăng trưởng các lĩnh vực. Xu thế phát triển mới buộc các cơ
quan quản lý, có thẩm quyền của Việt Nam ln ln đổi mới, các hình thức
quản lý cũ lỗi thời khơng cịn phù hợp cần bị đào thải thay vào đó là các
phương pháp tiên tiến trong ứng dụng các thiết bị thông minh, các lối tư duy
dạy học mới.

20



×