Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận cao học tổ chức, cơ quan, cách thức quản lý văn hóa trong các mô hình quản lý văn hóa ở việt nam (từ lý trần đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.57 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong quá trình hội nhập, sự giao lưu và tiếp biến về văn hóa sẽ diễn ra
như một quy luật vận động của tự nhiên. Ngày nay điều phân biệt giữa quốc
gia này với quốc gia khác khơng chỉ cịn là đường biên giới, mà đó chính là
nền văn hóa mang đậm tính dân tộc với những sắc ấn riêng biệt. Để bắt nhịp
vào q trình phát triển chung của tồn cầu, để hịa nhập mà khơng bị hịa tan
vào cộng đồng chung đó địi hỏi những nét văn hóa đặc sắc tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam phải ln được giữ gìn và không ngừng phát huy để tạo dấu ấn,
bản sắc riêng trong thời đại mới.
Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh được mạch sống lưu truyền đó. Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề vừa
có ý nghĩa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sản phẩm văn hoá cũng giống như bất kỳ
một sản phẩm bình thường nào khác nó cũng có các giá trị sử dụng, trao
đổi… song bản thân văn hoá lại mang trong mình rất nhiều các giá trị khác
như giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hoá… từ các giá trị này người
ta chia văn hoá ra làm hai lĩnh vực đó là văn hố vật thể và văn hoá phi vật
thể với hai đối tượng như vậy thì hậu quả quản lý phải khác nhau để phù hợp
với từng loại hình văn hố.
Sản phẩm văn hố là một hàng hố cơng cộng, khuyển dụng do đó khi
quản lý nó cần đẩy mạnh phương thức tài trợ cho nó để nó có thể tồn tại và
phát huy được hết đặc điểm tốt đẹp của văn hoá.
Như vậy qua đặc điểm của văn hoá ta thấy nhà nước ta khơng chỉ có
thể sử dụng các biện pháp hành chính để quản lý văn hố mà nó cịn chịu tác
động của quy luật thị trường vì vậy Nhà nước cũng cần có các biện pháp thị
trường để điều tiết các hoạt động văn hoá và các sản phẩm văn hoá.
1


Xuất phát từ những lý do trên nên em đã chọn đề tài: “Tổ chức, cơ


quan, cách thức quản lý văn hóa trong các mơ hình quản lý văn hóa ở
Việt Nam (từ Lý - Trần đến nay)” để làm tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tổ chức, cơ quan, cách thức quản lý văn hóa là một vấn đề quan trọng
trong các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt Nam ta từ thời Lý- Trần đến nay.
Liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu đã có rất nhiều cơng trình của các
nhà khoa học cơng bố. Nhiều tác giả, nhiều thế hệ sinh viên trường Học viện
báo chí và tuyên truyền khi nghiên cứu các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt
Nam cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề này ở nhiều phương diện khoa học
khác nhau. Điều đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học đối với
vấn đề nghiên cứu. Mặc dù vậy em vẫn muốn chọn đề tài này để khai thác sâu
hơn các khía cạnh của vấn đề hy vọng sẽ tìm ra được những nét mớ i về nội
dung góp phần vào việc nâng cao các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt Nam
trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức, cơ quan, cách
thức quản lý văn hóa trong các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt Nam (từ LýTrần đến nay), tiểu luận tập chung vào phân tích nhằm nâng cao các mơ hình
quản lý văn hóa ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về mơ hình quản lý văn hóa
- Đánh giá thực trạng về tổ chức, cơ quan, cách thức quản lý văn hóa
trong các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt Nam (từ Lý- Trần đến nay); phân
tích những thành tựu, hạn chế.
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao các mô hình quản lý văn hóa
ở Việt Nam trong thời gian tới.
2


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức, cơ quan, cách thức quản lý văn hóa

trong các mơ hình quản lý văn hóa ở Việt Nam (từ Lý- Trần đến nay).
- Phạm vi nghiên cứu:
+) Khơng gian: các mơ hình quản lý Văn hóa ở Việt Nam
+) Thời gian: từ Lý- Trần đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp logic và lịch sử; phương
pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp quan sát; phương pháp so sánh;
phương pháp khảo sát,…
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận được kết cấu thành 3 chương:

 Chương 1: Một số lý luận về mơ hình quản lý văn hóa
 Chương 2: Mơ hình quản lý văn hóa – thực trạng và những vấn đề
đặt ra

 Chương 3: Giải pháp nâng cao mơ hình quản lý văn hóa

3


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MƠ HÌNH QUẢN LÝ VĂN HÓA
1.1 Một số khái niệm chung
Khái niệm về văn hóa, mơ hình quản lý văn hóa:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử - văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình

hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với mơi trường tự
nhiên xã hội.
Văn hóa là sản phẩm của loài người, được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua q trình xã hội hóa. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức
tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất
và tinh thần mà do con người tạo ra.
Mơ hình quản lý văn hóa là hình ảnh rút gọn hiện tượng thơng qua đó
ta biết được các thành tố cấu trúc và mối quan hệ giữ chúng.
Mối quan hệ quản lý văn hóa là thuật ngữ chỉ tập hợp các hệ thống cách
thức tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực văn hóa, các
hoạt động văn hóa của một quốc gia từng thời kì nhất định, thực chất đó là
thiết kế, bộ mặt, hình hài về quản lý văn hóa ở một quốc gia nhất định.
1.2 Đặc điểm của văn hóa và những yếu tố cấu thành mơ hình
QLVH
Đặc điểm của văn hóa:
Việt Nam có một nền văn hố đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của dân tộc.
4


Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng
đồng văn hố khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ
thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này.
Đó là cộng đồng văn hố Đơng Sơn. Cộng đồng văn hố ấy phát triển cao so
với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo
riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hố vùng Đơng Nam Á,
vì có chung chủng gốc Nam Á và nền văn minh lúa nước. Những con đường
phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực

sông Hồng, sông Mã, sông Cả,..) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hố Đơng
Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước "phôi thai" đầu tiên của Việt Nam
dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê
trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.
C.Mác đã từng chỉ rõ, mọi hoạt động văn hóa của loài người trước hết
thuộc về lao động vật chất cảm tính, “tơn giáo, gia đình, nhà nước, luật pháp,
đạo đức, khoa học, nghệ thuật, đều là phương thức đặc thù của sản xuất, hơn
nữa, còn thực sự chi phối của quy luật phổ biến của sản xuất”. Như vậy, lao
động, thực tiễn những hoạt động tự giác có ý thức, có mục đích của lồi
người đã xác nhận rõ “sự tồn tại lồi” của con người, đó cũng chính là nguồn
gốc bản chất chân thực của con người, cũng là nguồn gốc bản chất của văn
hóa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện
5


của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo tồn dân xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội".
Những yếu tố cấu thành mơ hình quản lý văn hóa:
Điều kiện về chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính sách văn hóa (bao gồm các luật lệ, luật tục, luật phát, văn bản,..)
Cách thức tổ chức thực hiện quản lý văn hóa ( cơ quan, tổ chức nào
quản lý; phụ trách về văn hóa đối tượng quản lý là gì; nội dung quản lý,
phương pháp phương tiện quản lý; tính hiệu quả của việc quản lý;,,
Hệ thống các thiết chế văn hóa:“ theo từ điển bách khoa Việt Nam”:
thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố, cơ sở vật chất,
bộ máy tổ chức nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí. Hệ thống thiết
chế văn hóa như nhà văn hóa thơn bản, trung tâm văn hóa huyện,…
1.3 Vai trị và các hoạt động của văn hóa
Vai trị:
Văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, đồng thời là mục
tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người
quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn
diện con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển,
tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội
để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó,
bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng
6


được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của
toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là
mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một
nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Các hoạt động văn hóa:
Hoạt động văn hóa là tồn bộ những hoạt động tổ chức, cá nhân và xã
hội trong quốc tế sáng tạo, quản lý văn hóa hướng đến chân – thiện – mỹ.

Các hoạt động văn hóa: hoạt động sáng tạo, hoạt động sản xuất, hoạt
động phổ biến, hoạt động giao lưu, hoạt động dịch vụ, hoạt động hưởng thụ.
Quản lý hoạt động văn hóa là hoạt động sáng tạo văn hóa, sản xuất
văn hóa quốc tế lưu thơng, phân phối các dịch vụ văn hóa, tiêu thụ thưởng
thức các giá trị văn hóa.

7


CHƯƠNG 2:
MƠ HÌNH QUẢN LÝ VĂN HĨA - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA
2.1 Khái qt về mơ hình quản lý văn hóa từ Lý - Trần đến nay

 Bối cảnh lịch sử
Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã đưa đất nước thoát
khỏi ngàn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, xây dựng nền độc lập tự chủ.
Mở đầu là nhà Ngô, Ngô Quyền không xưng là Tiết độ sứ nữa mà xưng là
Ngô Vương. Năm 958, Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan 12 sứ quân, thu giang sơn về
một mới, đặt kinh đô ở Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, xây dựng quốc
gia, củng cố chính quyền. Năm 981, Lê Hồn kế thừa quốc gia của nhà Đinh
lập ra nhà Tiền Lê. Năm 1010, nhà Lý lên ngôi, dời đô về Đại La, đổi tên
thành này là thành Thăng Long, năm 1054, đổi tên nước là Đại Việt. Năm
1226, nhà Trần thay nhà Lý. Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần tiếp đó lập
ra nhà Tiền Lê để rồi đất nước Đại Việt rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh.
Năm 1428, sau một thời gian dài kháng chiến, Lê Lợi giành lại độc lập cho
đất nước, lên ngôi vua, lập ra nhà Lê.
Nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê năm 1527, sau đó là thời kì Nam Bắc
triều và xung đột Lê- Mạc. Từ 1570 đến 1786, Đàng Trong và Đàng Ngoài
xung đột, giữa một bên là nhà Lê - Trịnh và một bên là chúa Nguyễn. Năm

1771, anh em Tây Sơn khởi nghĩa, lập lại nền thống nhất đất nước vào năm
1786. Năm 1802, nhà Nguyễn thắng thế, đặt nền cai trị của mình trên tồn bộ
đất nước. Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược Việt Nam. Như
vậy, diễn trình lịch sử của Việt Nam từ năm 938 đến 1858 diễn ra với những
đặc điểm sau:

8


Một là, các vương triều liên tục thay nhau xây dựng một quốc gia tự
chủ. Sự thay thế các vương triều không làm dứt đoạn lịch sử mà vẫn khiến
cho lịch sử là một dòng chảy liên tục.
Hai là, đất nước được mở rộng dần về phương Nam, đến giữa thế kỷ
XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau nhiều năm đất
nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà
Mau.
Mặt khác, thời kỳ này cũng có khá nhiều biến đổi từ ngoại cảnh, chủ
yếu là các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc
chiến tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt.
Sau những lần chống giặc ngoại xâm thắng lợi, và thành lập những
triều đại phong kiến mới: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ, Nguyễn,.. như
thế liên tục chống xâm lược là một nét đặc biệt của lịch sử Việt Nam thời tự
chủ. Người dân cũng như các vương triều đều phải tiến hành cuộc chiến đấu
tự bảo vệ mình và cộng đồng. Đó là thời kì lịch sử biến động dữ dội, đầu bão
táp bọn xâm lược, dù dưới màu áo của vương triều nào, dù đến từ chân trời
nào đều có chung một ý tưởng, hủy hoại nền văn hóa của chúng khi bị chúng
xâm lược. Thế nhưng, người dân Việt mỗi lần bị xâm lăng là một lần trỗi dậy,
chứng tỏ lòng yêu nước bất khuất của mình. Văn hóa việt lại trỗi dậy, vươn
lên, đạt đến những đỉnh cao.
2.2 Đặc trưng các mơ hình quản lý văn hóa


 Mơ hình quản lý thời Lý- Trần:
Cũng như những quân vương ở triều đại khác, các Hoàng đế Lý – Trần
là vị trí độc tơn trong xã hội, là người nắm trọn vương quyền và thần quyền,
nhưng việc thực hiện quyền lực đó cịn gọi là qn chủ chun chế.
Trong thời kì này vẫn chưa có chính sách riêng về QLVH: thường lồng
ghép, thể hiện qua các luật, lệ (ví dụ: bộ Hình thư (1042) và một số tục lệ của
9


nhà Lý hay trong Quốc triều hình luật (1230) tức bộ Hình luật) và một số tục
lệ của nhà Trần.
Có chính sách trọng dụng người hiền tài, dựng Văn Miếu (1070); lập
Quốc Tử Giám (1076) ở bên cạnh Văn Miếu – được coi là trường đại học đầu
tiên ở Việt Nam.
Xây dựng nhiều chùa, bảo vệ di sản văn hóa Phật giáo (chùa Thầy,
chùa Trùng Quang, chùa Diên Hựu – chùa Một Cột). Vua Lý Nhân Tông
“Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam” – đặt cơ
sở cho việc phân loại, xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
ở nước ta.
Nói chung thời Lý – Trần về mơ hình quản lý văn hóa vẫn chưa có
chính sách riêng. Chính sách nhất quán xuyên suốt từ thời Lý tới thời Trần là
tiếp tục kế thừa và vận hành. Nổi bật thời kì Lý – Trần là quan tâm đến văn
hóa, giáo dục, chú trọng đào tạo nhân tài ở “ Văn Miếu”, xây dựng nhiều
chùa, bảo vệ di sản văn hóa Phật giáo. Tạo điều kiện tổ chức lễ hội dân gian
quan tâm đến trang phục quan lại, khuyến khích tiêu dùng. Thời Lý – Trần
vẫn còn hạn chế và chưa có cơ quan và người chuyên trách về văn hóa nên
việc quản lý văn hóa thường được lồng ghép.

 Mơ hình quản lý thời Lê Sơ (1428-1527):

Mơ hình chính sách văn hóa có nhiều điểm khác biệt với thời Lý Trần, lấy Nho giáo làm quốc giáo nên Phật giáo bị hạn chế; văn hóa dân gian
có phần bị xem nhẹ, tư tưởng “trọng văn khinh nghệ”. Can thiếp vào phong
tục tập qn ở làng, xã,…; Có chính sách ngoại giao văn hóa khơn khéo giữ
thể diện dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc, tiếp thu văn hóa khơng máy móc,
giáo điều; phương châm xử thế: yếu thắng mạnh, ít địch nhiều. Về quản lý
văn hóa: bước đầu thành lập cơ quan phụ trách văn hóa, đưa ra một số điểu
luật quản lý văn hóa.
10


Có nhiều điểm khác biệt với lý- trần, cụ thể như sau:
Lấy Nho giáo làm quốc giáo nên Phật giáo bị hạn chế; văn hóa dân gian
có phần bị xem nhẹ, tư tưởng “trọng văn khinh nghệ”. Ban hành chính sách
khuyến học, người đỗ tiến sĩ được khắc tên vào bia đá ở Văn miếu Quốc Tử
Giám ( mở đầu việc khắc tên và dựng bia tiến sĩ). Quan tâm giữ gìn văn hóa
dân tộc quyết định mặc quần áo Việt, cắt tóc ngắn, sản xuất nhạc khí, dạy
múa… Tơn vinh, khen thưởng người có đạo đức, phụ nữ giữ tiết hạnh, góa
phụ ở vậy ni con thờ chồng. Có chính sách ngoại giao văn hóa. Quan tâm
đến sưu tầm, bảo tồn di sản văn hóa: Năm 1467, vua Lê Thánh Tơng ra đạo
dụ tìm tập di thơ và văn của Nguyễn Trãi.
Về cách thức quản lý văn hóa: bước đầu thiết lập cơ quan phụ trách văn
hóa, đưa ra một số bộ Luật quản lý văn hóa đó là: Quốc triều hình luật năm
1427 ( Bộ luật Hồng Đức) có quyết định bảo vệ các di tích, xử lý bằng vi
phạm trộm cắp đồ vật ở nơi thờ tự, xử lý người bất hiếu, xử lý quan chức
thiếu trách nhiệm với dân, chế độ hôn nhân, kiện tụng, yêu cầu không bỏ rơi
người hoạn nạn, người không nơi nưng tựa,… Thiết lập viện hàn lâm, Quốc
sử viện, Nhà thái học. năm 1470, vua Lê Thánh Tông đặt bộ Đồng văn và Bộ
Nhã nhạc trông coi và nghiên cứu về âm nhạc ở cung đình. Nhà nước can
thiệp vào giám sát thực thi phong tục, tập quán ở làng xã. Hương ước, quy
ước là một cơng cụ quan trọng góp phần quản lý xã hội; trong đó có quản lý

văn hóa ở phạm vi nơng thơn.
Từ đó, ta thấy mơ hình quản lý văn hóa thời Lê Sơ có một số nét như
sau: Chủ thể là vua Lê Thánh Tông đứng đầu Nhà nước, chưa có cơ quan
chuyên trách về văn hóa thống nhất, rõ ràng. Chưa có chính sách văn hóa rõ
ràng; xác định được một số đối tượng, nội dung quản lý; chưa chú ý đầu tư
kinh phí phát triển văn hóa. Tính hiệu quả kém.

 Mơ hình quản lý văn hóa thời Nguyễn(1802 – 1858):
11


Về đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội: Đây là thời kỳ phong kiến độc lập
tự chủ, nhưng phải đối phó quyết liệt với sự xâm nhập của phương Tây. Tiếp
tục độc tơn Nho giáo, có sự xâm nhập của Công giáo. Kinh tế nông nghiệp
chậm phát triển, khởi nghĩa nơng dân diễn ra.
Về chính sách văn hóa: Từ thời chúa Nguyễn trở đi có nơi lỏng quản lý
văn hóa ở làng, xã; văn hóa dân gian có điều kiện phát triển ( chúa nguyễn ưu
đãi nghệ thuật Tuồng), có giao lưu văn hóa thương mại ( Hội An ở miền Nam,
phố Hiến ngoài Bắc), tiếp nhận người hán thiên đi sang Việt Nam. Ngăn chặn
sự ảnh hưởng của Công giáo; thời vua Tự Đức ban hành nhiều chỉ dụ “cấm
Cơng giáo”. Tơn trọng sinh hoạt văn hóa, dân gian, xây dựng nhiều đình làng,
tổ chức các lễ hội. Coi trọng việc biên soạn lịch sử nước nhà.
Về phương thức mơ hình quản lý văn hóa: Đưa một số điều khỏan quản
lý văn hóa vào Luật. Năm 1812, nhà Nguyễn ban hành Hoàng Việt luật lệ ( bộ
luật Gia Long, Hồng triều luật lệ). Trong đó, một số điều khoản quy định
việc bảo vệ di sản văn hóa ( thời Nguyễn để lại rất nhiều di sản văn hóa, đặc
biệt là kinh thành Huế, năm 1993 được UNESCO công nhận là di sản sản hóa
thế giới)., phạt nặng kẻ trộm cắp sắc phong. Một số cơ quan có nhiệm vụ phụ
trách lĩnh vực văn hóa. Trong đó có 2 bộ:
Bộ lễ: quản lý việc giáo dục, thi cử; lễ nghi, tế tự trong triều và của

quan lại; lễ tân ngoại giao, đúc ấn tín; quản lý đền, chùa, miếu mạc; đôn đốc
công việc của thiên giáo, Thái Y Viên. Hồng tộc: dịng tộc nhà vua ( họ là
Tơn nữ, tôn thất).
Bộ Công: giúp vua quản lý việc sửa chữa, xây dựng cung điện, thành
trì, đường xá, cầu cống,…. Quản lý các công xưởng và thợ thuyền của Nhà
nước. Nhà nước tổ chức biên soạn nhiều tác phẩm sử học, văn học, y học, địa
chí,…

12


Nói chung ta thấy mơ hình quản lý thời Nguyễn, vẫn chưa có chính
sách về văn hóa rõ ràng, quản lý về văn hóa cịn lồng ghép nhiều, nên hiệu
quả vẫn cịn yếu kém.

 Mơ hình quản lý văn hóa Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đấu tranh
chống Pháp thuộc (1858 – 1945):
Trước hết về đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa: Năm 1858,
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam bằng bạo lực, sau thời gian bình định,
thiếp lập bộ máy thống trị, tiến hành khai thác thuộc địa. Đất nước mất quyền
làm chủ, chia thành 3 kỳ, nước Việt Nam bị mất tên, trở thành Liên bang
Đông Dương. Xã hội thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp cũ bị phân hóa, giai
cấp mới xuất hiện. Nền kinh tế mới xuất hiện, công nghiệp, nhà máy, khai
thác hầm mỏ.
Về chính sách văn hóa, nhìn chung Thực dân Pháp thực hiện chính sách
nơ dịch về văn hóa đối với nước ta. Chính sách chia rẽ dân tộc, vùng miền,
chính sách ngu dân, đầu độc văn hóa, xây dựng nhà tù hơn trường học. Hạn
chế nho học, khuyến khích Tây học, mị dân, “khai hóa văn minh”. Bảo hộ và
tích cực truyền đạo Cơng giáo vào Việt Nam; giai đoạn đầu hủy hoại di sản
văn hóa vật thể Việt Nam, xây dựng các khu kiến trúc Pháp. Thay đổi chữ

viết, chữ Hán sang chữ Quốc ngữ trong tường học, sách bán trong các kỳ thi.
Du nhập văn hóa phương Tây vào Việt Nam làm thay đổi cách ăn mặc áo tân
thời, quần âu, nghệ thuật mới ra đời như: Kịch nói, phim, nhiếp ảnh, phát
triển sách, báo tuyên truyền văn hóa thực dân, thơ mới.
Phương thức quản lý văn hóa: Hủy hoại di sản văn hóa dân tộc, xây
dựng kiến trúc Pháp. Áp đặt, cưỡng bức văn hóa Pháp vào Việt Nam, khống
chế đi theo mục đích thực dân. Thành lập một số cơ quan phụ trách về giáo
dục, văn hóa như: Nho học chính Đơng Dương, Văn phịng tồn quyền Đơng
Dương. Mở trường học đào tạo người theo “khuôn của Pháp” để phục vụ cho

13


Pháp. Xuất hiện một số tổ chức cơ sở văn hóa tư nhân của người Việt: trường
học Đơng kinh nghĩa thục (1907), ra đời một số nhà xuất bản tư nhân.

 Mơ hình quản lý văn hóa thời kỳ 1945 – 1954:
Bối cảnh lúc đó Cách mạng tháng Tám thành cơng và Việt Nam dân
chủ cộng hồ ra đời. Nhiệm vụ lúc đó là củng cố chính quyền mà nhân dân
vừa giành được. Văn hố Việt Nam thời đó phát triển trong chiến tranh chống
Pháp, hệ tư tưởng MácLenin đã xuất hiện trong đời sống văn hố.
Chính sách văn hố thời kì này là cơng tác tun truyền cổ động cho
các nhiệm vụ kháng chiến, giá trị yêu nước, nhiệm vụ cứu nước được đặt lên
hàng đầu. Con người- chiến sĩ trở thành cảm hứng sáng tác chủ đạo cho mọi
mặt sáng tác. Năm 1948: đồng chí Trường Chinh đã đọc báo cáo “ Chủ nghĩa
Mác và văn hoá VN” được coi như là bản cương lĩnh văn hoá mở rộng. Năm
1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Văn hố nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh
chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” Nét chủ đạo của văn hoá
kháng chiến là phong trào văn nghệ của quần chúng.
Mơ hình chính sách thời kì này chủ yếu là dấy lên khơng khí phấn khởi

vui tươi trong nhân dân, nguồn cổ vũ thi đua yêu nước, giết giặc lập công,
tăng gia sản xuất.. phục vụ tiền tuyến, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của
dân tộc.
 Mơ hình quản lý văn hóa thời kỳ 1954 -1975:
Thời kì này nước ta một chiến thắng oanh liệt đó là chiến thắng Điện
Biên Phủ đánh một dấu chấm hết vào chế độ thực dân cũ của Pháp trên đất
nước ta. Sau khi hịa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, hoạt động văn
hố từ vùng kháng chiến tỏa về các thành thị mới được tiếp quản.
Năm 1955, Bộ Văn hoá được thành lập, trên cơ sở chuyển từ Nha
Thơng tin tun truyền, tổ chức này đã có mặt từ sau Cách mạng tháng Tám.

14


Một số cơ sở văn hoá của chế độ cũ ở Thủ đô Hà Nội, như: Nhà Hát
lớn, bảo tàng, thư viện quốc gia,các tòa báo,..được cách mạng tiếp thu, rồi cải
tạo thành các thiết chế văn hoá của chế độ mới.
Tiếp đó, các trường văn hố, nghệ thuật (mỹ thuật, âm nhạc, sân
khấu...) lần lượt ra đời, trực tiếp đào tạo cán bộ văn hoá, nghệ thuật cho cả
nước.
Các Đại hội Văn nghệ toàn quốc (Đại hội II vào 2-1957, Đại hội III:
11-1962, Đại hội IV; 1-1968) được tổ chức, đánh dấu những mốc quan trọng
cho sự phát triển của giới văn nghệ trong cả nước. Các hội văn nghệ ở TW
như Hội Kiến trúc sư (1948), Hội Nhà văn (1957),… đã được thành lập trong
thời gian này.
Nhưng từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá
hoại miền Bắc bằng khơng qn, thì cả nước tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, văn hoá miền Bắc tập trung vào nhiệm vụ cao nhất là cả
để chiến thắng với tinh thần “cách mạng tiến công” nhằm thẳng quân thù mà
bắn. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và chủ nghĩa tập thể được đặt lên vị trí

hàng đầu. Con người - chiến sĩ một lần nữa lại chiếm vị trí trung tâm trong
mọi sáng tác văn hoá nghệ thuật. Hoạt động văn nghệ quần chúng cỏ đóng
góp quan trọng: phong trào ""tiếng hát át tiếng bom''ở miền Bắc cùng như
phong trào '"Hát cho đồng bào tôi nghe” của thanh niên đơ thị tạm chiếm
miền Nam có vai trò tuyên truyền kêu gọi tinh thần yêu nước và đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Mơ hình chính sách văn hóa thời kì này nổi bật nhất đó chính là văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IV có nhận định: “Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cím nước khơng chỉ là thắng lợi của đường
lồi chỉnh trị, đường lối quân sự đúng đắn, mà cịn là thắng lợi của chinh sách
văn hố của Đảng”.

 Mơ hình văn hóa thời kì 1975 – 1985:
15


Năm 1975, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của dân tộc VN dưới sự
lãnh đạo của ĐCS VN kết thúc thắng lợi, miền Nam hồn tồn giải phóng,
thống nhất đất nước, cả nước tiến vào thời kỳ cách mạng XHCN
Năm 1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã định ra đường lối cho cách
mạng XHCN ở nước ta nói chung và đường lối về văn hóa nói riêng, gọi đầy
đủ là: “đường lối cách mạng tư tưởng và văn hóa”. Về chủ trương này, đồng
chí Trường Chinh cho rằng cách mạng tư tưởng và văn hóa là một bộ phận
hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Trong quá trình lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, Đảng thường
xuyên quan tâm đến hoạt động lý luận, thơng qua đó là chỉ đạo cơng tác thực
tiễn.
Tồn bộ những luận điểm xây dựng văn hóa thể hiện tập trung trong
văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V của Đảng. Đó là:
Văn hóa - văn nghệ là bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh

đạo; quan điểm dân tộc trong xây dựng văn hóa - văn nghệ; quan điểm nhân
dân (quần chúng) trong xây dựng văn hóa, văn nghệ; tính giai cấp và tính
đảng cộng sản trong văn hóa, văn nghệ; văn nghệ cần gắn bó với cuộc sống,
tính hiện thức của văn nghệ XHCN; quan điểm về vị trí, vai trị, chức năng
của văn hóa - văn nghệ; quan điểm về tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ; quan
điểm về tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Thời kì này cịn phát triển xây dựng hệ thống tổ chức và mạng lưới
thiết chế văn hóa do Bộ văn hóa thể thao và các lực lượng vũ trang quản lý.
Xây dựng văn hóa mới, con người được đặt ra trong khuôn khổ của “ cách
mạng tư tưởng văn hóa”, gắn liền với “ cách mạng về quản hệ sản xuất” và
“cách mạng khoa học kỹ thuật”. Giai đoạn này con người – chiến sĩ vẫn được
đề cao, với giá trị mới là “làm chủ tập thể”.

 Mơ hình văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới ( từ 1986 đến nay ):
16


Năm 1975, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của dân tộc VN dưới sự
lãnh đạo của ĐCS VN kết thúc thắng lợi, miền Nam hồn tồn giải phóng,
thống nhất đất nước, cả nước tiến vào thời kỳ cách mạng XHCN
Năm 1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã định ra đường lối cho cách
mạng XHCN ở nước ta nói chung và đường lối về văn hóa nói riêng, gọi đầy
đủ là: “đường lối cách mạng tư tưởng và văn hóa”. Về chủ trương này, đồng
chí Trường Chinh cho rằng cách mạng tư tưởng và văn hóa là một bộ phận
hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Trong quá trình lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, Đảng thường
xuyên quan tâm đến hoạt động lý luận, thơng qua đó là chỉ đạo cơng tác thực
tiễn.
Tồn bộ những luận điểm xây dựng văn hóa thể hiện tập trung trong
văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V của Đảng. Đó là:

Văn hóa - văn nghệ là bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo; quan điểm dân tộc trong xây dựng văn hóa - văn nghệ; quan điểm nhân
dân (quần chúng) trong xây dựng văn hóa, văn nghệ; tính giai cấp và tính
đảng cộng sản trong văn hóa, văn nghệ; văn nghệ cần gắn bó với cuộc sống,
tính hiện thức của văn nghệ XHCN; quan điểm về vị trí, vai trị, chức năng
của văn hóa - văn nghệ; quan điểm về tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ; quan
điểm về tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Thời kì này cịn phát triển xây dựng hệ thống tổ chức và mạng lưới
thiết chế văn hóa do Bộ văn hóa thể thao và các lực lượng vũ trang quản lý.
Xây dựng văn hóa mới, con người được đặt ra trong khuôn khổ của “ cách
mạng tư tưởng văn hóa”, gắn liền với “ cách mạng về quản hệ sản xuất” và
“cách mạng khoa học kỹ thuật”. Giai đoạn này con người – chiến sĩ vẫn được
đề cao, với giá trị mới là “làm chủ tập thể”.

 Mơ hình văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới ( từ 1986 đến nay ):
17


Từ năm 1986, Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan điểm
về văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới quan điểm giản dị nhưng sâu sắc:
Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát
triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản
phẩm làm giàu đẹp cuộc sống. Đó là tầm nhìn sâu, mới, tồn diện, bao qt
hơn về vị trí của văn hóa, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa dạng, phong
phú, gắn bó mật thiết với mọi mặt đời sống.
Năm 1987-1990, một tổ chức mới được hình thành, hợp nhất 04 cơ
quan: Bộ Văn hóa, Bộ Thơng tin, Tổng cục Thể dục thể thao, Tổng cục Du
lịch thành Bộ Văn hóa - Thơng tin - Thể thao và Du lịch theo Quyết định số
244 NQ/HĐNN8 ngày 31/3/1990 do đồng chí Trần Hồn làm Bộ trưởng.
Vừa hợp lại xong đã thấy không hợp lý nên mỗi năm lại tách dần một

bộ phận: Du lịch sáp nhập vào Bộ Thương mại và Du lịch (Nghị quyết Kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 ngày 12/8/1991). Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thơng
tin trở lại như trước đây, với chức năng, nhiệm vụ như Nghị định số 81-CP
ngày 8/4/1994 của Chính phủ quy định. Việc liên tục tách ra nhập vào như
trên đã ảnh hưởng về nhiều mặt hoạt động của Ngành. Rất may là thấy trước
vấn đề này, nên với phương châm chỉ đạo “Giữ nguyên trạng, bộ phận nào
làm việc nấy, không xáo trộn cả người và kinh phí” nên mọi cơng việc được
tiến hành bình thường.
Trong hai năm 1994 - 1995, ngành Văn hóa - Thông tin đã tập trung
mọi cố gắng phục vụ các ngày lễ lớn của dân tộc. Đây là sự khơi phục và phát
triển các hoạt động văn hóa, thơng tin chun nghiệp và khơng chun nghiệp
của tồn xã hội theo phương hướng đúng đắn mà Nghị quyết Trung ương lần
thứ 4 của Đảng đã đề ra.
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” được ban hành, mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp
18


văn hóa Việt Nam. Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể
và 4 giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời
kỳ mới, tồn Ngành đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, tiếp tục khẳng
định những thành tựu trong quá trình đổi mới.
Năm 2000, năm bản lề chuyển giao thiên niên kỷ đã đánh dấu bước
phát triển vượt bậc của ngành Văn hóa - Thơng tin. Nhiều hoạt động văn hóa thơng tin kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng và dân tộc được tổ chức; bộ mặt
văn hóa nước nhà khởi sắc, chuyển biến đồng đều, tích cực theo hướng mà
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra.
Từ năm 2006, ngành Văn hóa - Thông tin chủ động triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5 (khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về xây dựng

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm “sự gắn kết
giữ nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với
phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” (Văn kiện Đại hội Đảng
X).
Ngày 31 tháng 7 năm 2007 lại đánh dấu một bước ngoặt lớn của
Ngành: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (Nghị quyết số: 01/2007/QH12)
trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Tổng cục Thể dục thể thao; tiếp nhận
phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em.
Từ năm 2009 đến nay, toàn Ngành tổ chức tốt các hoạt động văn hóa,
thể thao và du lịch nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn và các hoạt động của
Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội; hoàn thành việc xây
dựng các đề án lớn triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ
thuật trong thời kỳ mới”; đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa
đến năm 2020; Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm
19


2020; Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn
2011-2030; Quy hoạch phát triển thể dục thể thao đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030; triển khai thực hiện Luật Phịng, chống bạo lực gia đình v.v…
Năm 2014, với tinh thần “Trách nhiệm, kỷ cương, tiết kiệm, hiệu quả”,
phương hướng chung của toàn Ngành là tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
nhiệm vụ phát triển văn hóa, thể dục thể thao và du lịch theo các mục tiêu,
nhiệm vụ đã được xác định tại các văn kiện của Đảng, tích cực góp phần cùng
Chính phủ và cả nước hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước đã được Quốc hội thông qua..

Ngày nay những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hóa chứng tỏ
đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy
tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hóa.
Những thành tựu này cũng là kết quả của sự tham gia tích cực của nhân dân
và những nỗ lực rất lớn của các lực lượng hoạt động trên lĩnh vực văn hóa.
Về thời kì đổi mới hiện nay quản lý văn hóa có nhiều tiến bộ, trước hết
là tư duy cởi mở hơn và cố gắng xây dựng hành lang pháp lý phù hợp với đặc
trưng của văn hóa và sự sáng tạo. Các cấp ủy Đảng và hệ thống chính trị đã
nhận thức rõ hơn trong việc gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quốc phịng - an ninh, đối ngoại với phát triển văn
hóa và xây dựng con người. Vì thế, những năm gần đây, vai trị của văn hóa
góp phần vào sự phát triển bền vững đã và đang được khẳng định ngày càng
rõ hơn.
2.3 Các yếu tố tác động đến tư tưởng – văn hóa
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, với sự đấu tranh kiên trì và anh dũng,
nhân dân ta đã giành lại được độc lập hoàn toàn. Từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ
XIX (trước khi tiếp xúc với những ảnh hưởng của nền văn minh phương Tây),
20



×