Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Tội Nhận Hối Lộ Trong Luật Hình Sự Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.16 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRIỆU LÀ PHAM

TỘI NHẬN HỐI LỘ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRIỆU LÀ PHAM

TỘI NHẬN HỐI LỘ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Triệu là Pham


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ trong
luật hình sự Việt Nam .................................................................................9

1.1.1.


Khái niệm, đặc điểm của tội nhận hối lộ .......................................................9

1.1.2.

Ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam ...16

1.2.

Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về tội nhận hối lộ từ
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999 .......................................................................................18

1.2.1.

Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ...........................................................18

1.2.2.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ..................................................20

1.3.

Tội nhận hối lộ trong công ƣớc quốc tế về chống tham nhũng và luật
hình sự một số nƣớc ..................................................................................23

1.3.1.


Tội nhận hối lộ trong Công ước quốc tế về chống tham nhũng ..................23

1.3.2.

Tội nhận hối lộ trong luật hình sự một số nước ..........................................27

Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..........................33
2.1.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội nhận hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 1999 và hình phạt áp dụng ..........................................................33

2.1.1.

Các dấu hiệu pháp lý hình sự ......................................................................33

2.1.2.

Hình phạt .....................................................................................................42

2.2.

Phân biệt tội nhận hối lộ với một số tội phạm khác ...............................58


2.2.1.

Tội nhận hối lộ với tội tham ô tài sản .........................................................59


2.2.2.

Tội nhận hối lộ với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản .........60

2.2.3.

Tội nhận hối lộ với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến
người khác để trục lợi ..................................................................................60

2.3.

Thực tiễn áp dụng các quy định về tội nhận hối lộ trong Bộ luật hình
sự hiện hành từ năm 2010 đến năm 2015 ................................................61

2.3.1.

Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về tham nhũng nói chung
và tội nhận hối lộ nói riêng..........................................................................61

2.3.2.

Thực tiễn áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội về
tham nhũng, trong đó có tội nhận hối lộ .....................................................66

2.3.3.

Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng các quy định về tội
nhận hối lộ trong Bộ luật hình sự hiện hành từ năm 2010 đến năm 2015 ........67

Chƣơng 3: NHU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ÁP

DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH.................................................................................................76
3.1.

Nhu cầu nâng cao chất lƣợng áp dụng các quy định về tội nhận hối lộ
trong Bộ luật hình sự hiện hành ..............................................................76

3.1.1.

Về mặt lý luận .............................................................................................76

3.1.2.

Về mặt thực tiễn ..........................................................................................81

3.1.3.

Về mặt lập pháp ...........................................................................................84

3.2.

Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về tội nhận hối lộ ........................................................86

3.2.1.

Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội nhận hối
lộ ..................................................................................................................86

3.2.2.


Tăng cường năng lực chuyên môn, nghiệp cho các điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân ............................................................90

3.2.3.

Tăng cường công tác xét xử nghiêm minh, kịp thời các tội phạm tham
nhũng nói chung và tội nhận hối lộ nói riêng..............................................94

KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................99
PHỤ LỤC ...............................................................................................................105


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

KTXH:

Kinh tế - xã hội


LHQ:

Liên hợp quốc

PCTN:

Phịng, chống tham nhũng

PLHS:

Pháp luật hình sự

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

UBTVQH:

Ủy Ban Thường vụ Quốc hội

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1:

Kết quả khởi tố, truy tố xét xử tội phạm tham nhũng năm 2010

105

Kết quả khởi tố, truy tố xét xử tội phạm tham nhũng theo
Bảng 2.2:

số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Từ
01/10/2010 – 30/7/2011

Bảng 2.3:

105

Kết quả xét xử sơ thẩm tội phạm tham nhũng Từ ngày
01/10/2011 – 31/7/2012


115

Bảng 2.4:

Kết quả xét xử sơ thẩm tội phạm tham nhũng

116

Bảng 2.5:

Kết quả xét xử sơ thẩm tội phạm tham nhũng

118

Bảng 3.1:

Thống kê kết quả thực hành quyền công tố của ngành
kiểm sát 6 tháng đầu năm 2015

76


MỞ ĐẦU
1. Tình cấp thiết
Cùng với sự đổi mới của đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát
triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các vấn
đề xã hội”, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và
phát triển đất nước trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện, pháp
luật và cơ chế chính sách, xã hội cịn nhiều kẽ hở; chuẩn mực đạo đức xã hội của

một bộ phận cán bộ, đảng viên xuống cấp, thối hóa, biến chất, sa sút ý chí chiến
đấu. Sự cần, kiệm, liêm, chính của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý và từng công chức,
viên chức dần bị mờ nhạt; đạo đức công vụ chưa được nâng cao, chưa hết lịng, tận
tụy với cơng việc, còn xa dân, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát
triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ
chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan, đơn vị chưa hợp
lý; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan pháp luật chưa đủ rõ, cịn
chồng chéo. Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề
ra. Quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, với những
biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã
hội [3, tr.23-24].
Tệ tham nhũng nói chung, tệ nhận hối lộ nói riêng trong thời gian gần đây đã
trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các
diễn đàn Quốc hội, tại các kỳ Đại hội Đảng các cấp, nhiều người đã chỉ rõ sự phổ
biến của tệ tham nhũng , nhận hối lộ và phê phán gay gắt , gọi tham nhũng là căn
bệnh ung thư , quốc nạn, quốc nhục... Nó đã trở thành vấn đề “nóng bỏng” , là “loại
tội phạm cực kỳ nguy hiểm”, là “vấn nạn”, là “nội xâm”, là “những nguy cơ , thách
thức lớn” , “Bè lũ tham nhũng là những con "siêu vi trùng" ngày đêm gặm nhấm,
đục khoét cơ thể quốc gia”. Là vấn đề cấp bách của tất cả các quốc gia dân tộc. Nó
1


trực tiếp tàn phá sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, gây mất ổn định xã hội, đe
dọa đến sự tồn vong của chế độ. Do đó phịng, chống tham nhũng bao giờ cũng là
nhiệm vụ trọng tâm vừa mang tính cấp bách vừa lâu dài của mọi quốc gia.
Nhận thức đúng những nguy cơ gây mất ổn định xã hội và đe dọa sự tồn
vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, làm mất niềm tin của nhân dân, kịp thời phản ánh
tâm tư nguyện vọng của nhân dân Đảng ta vạch rõ:
Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm đến cuộc đấu

tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, gây bất
bình trong nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng
cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ
Trung ương đến cơ sở... Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những
cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để
tham nhũng; Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý nghiêm về
trách nhiệm người đứng đầu. Có cơ chế rõ ràng để bảo vệ những người kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng; khen thưởng kịp thời người phát hiện và tố cáo những
người có hành vi tham nhũng [3, tr.75].
Tê ̣ na ̣n đưa và nhận hối lộ đã có những diễn biến hết sức phức tạp , tác động
tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội , làm cản trở nỗ lực đổi mới , kìm hãm sự
phát triển của đất nước, gây thất thoát tài sản và làm xói mịn lòng tin của nhân dân .
Tại Đại hội VIII Đảng ta đã tiếp tục nhấn mạnh thêm: Bốn nguy cơ mà Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ nêu lên cho đến nay vẫn là những thách
thức lớn. Các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm,
không thể xem nhẹ nguy cơ nào [4, tr.465]; đồng thời cảnh báo cụ thể hơn: Tệ
quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên làm cho bộ máy đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, đối với chế độ bị xói mịn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà
nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuận lợi cho diễn
2


biến hịa bình [2, tr.467].
Thực tế cho ta thấy, trong những năm qua, tình trạng nhận hối lộ ở nước ta
khơng hề giảm, đó là căn bệnh trầm kha của đất nước, địi hỏi phải có sự vào cuộc
của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương. Điều đặc biệt là: Cán bộ
phải lắng nghe nhân dân, cận thần phải thực sự trung thực với bề trên, trong vấn đề

giải quyết tệ nhận hối lộ đạt hiệu quả cao.
Từ sau Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng và Nhà nước ta đã
tăng cường công tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt được
một số kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nâng cao được ý thức tự
phê bình và phê bình, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc
đấu tranh này. Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có những vụ án lớn, phức tạp, gây
hậu quả nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý.
Tuy nhiên, Trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần ngăn chặn và đẩy lùi sự
xuống cấp về đạo đức – nhân cách, văn hóa, để xây dựng một đội ngũ cán bộ trong
sạch, có ý chí, trách nhiệm cao, hết lịng phục vụ nhân dân, thực sự là cơng bộc của
dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, với sự siết chặt của hệ thống
pháp luật thì các loại tội phạm khơng những khơng thun giảm mà thậm chí cịn
gia tăng, nhất là tội nhận hối lộ. Các hoạt động tội phạm không chỉ gia tăng cả về số
lượng mà cịn tăng về tính nguy hiểm, phức tạp, phạm vi rộng, tính chất phức tạp,
gây hậu quả nghiêm trọng và thủ đoạn thì ngày càng tinh vi xảo quyệt, diễn ra ở
nhiều cấp độ, nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Tội đưa và nhận hối lộ bằng vật chất hiện nay, nó đã biến thái sang rất nhiều
các hình thức khác mà cơ quan điều tra phải tốn nhiều thời gian và cơng sức mới
tìm ra được, một trong số các hình thức đó là hối lộ bằng tình dục.
Tại hội thảo “Hồn thiện các quy định về tội hối lộ trong Bộ luật hình sự
năm 1999” do Ban Nội chính Trung ương phối hợp với Chương trình phát triển
LHQ (UNDP) tại Việt Nam tổ chức, ơng Nguyễn Dỗn Khánh, Phó trưởng Ban Nội
chính Trung ương, cho biết hành vi đưa hối lộ rất đa dạng, phức tạp và rất nguy
3


hiểm, trong khi quy định của pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế cần phải
sớm khắc phục. Theo ông Khánh, bên cạnh các yếu tố vật chất thì người đưa hối lộ
đang sử dụng những lợi ích khác khơng thua kém như chạy thành tích, chạy khen

thưởng, chạy danh hiệu hoặc hối lộ bằng tình dục để đạt được mục đích của mình.
Việc đấu tranh để hạn chế, chưa có hiệu quả đối với loại tội phạm này, việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đưa hối lộ và nhận hối lộ bằng lợi ích phi
vật chất, đang còn nhiều ý kiến khác nhau là, có nên xử lý người đưa hối lộ khơng
hay chỉ xử lý người nhận hối lộ. Trong khi “người đưa và nhận hối lộ đã đi đêm với
nhau rồi mà bây giờ chúng ta đi tìm để truy tố truy cứu trách nhiệm thì sẽ ảnh hưởng
đến việc khuyến khích chống tham nhũng”. “Tất nhiên nếu bỏ sẽ có chuyện lợi dụng
này kia để bơi nhọ cán bộ thì chúng ta nên tính tốn thêm cho phù hợp”.
Hậu quả của tham nhũng, hối lộ thể hiện ở số lượng tài sản của nhà nước bị
chiếm đoạt, thất thoát, số đối tượng vi phạm pháp luật trong đó có nhiều cán bộ,
cơng chức là lãnh đạo cấp cao cũng đã có hành vi tham nhũng, hối lộ chiếm đoạt tài
sản của nhà nước với số lượng rất lớn. Tuy nhiên số vụ án bị đưa ra truy tố trước
pháp luật lại rất ít, thường bị xử nhẹ, khơng có tính răn đe. Đó là nhân tố ảnh hưởng
đến nền kinh tế, chính trị, gây mất đồn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng
và Nhà nước trước nhân dân, làm thoái hoá bản chất của một số cán bộ cơng chức.
Đặc biệt là làm suy giảm lịng tin đối với các nước trong khu vực và trên thế giới
trong lĩnh vực thu hút đầu tư [54, tr.154].
Do vậy, việc làm cần thiết trước mắt là phải nhanh chóng khắc phục những
yếu kém, thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, phải xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đủ mạnh, để có cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh, ngăn chặn với
các loại tội phạm mới; Xây dựng đội ngũ cán bộ công tâm, tận tụy, hết mình, có ý
thức, trách nhiệm cao, tiếp tục cải cách tiền lương hợp lý, đây là một trong những
yếu tố, biện pháp quan trọng, để phịng ngừa tham nhũng.
2. Tình hình nghiên cứu cuả Đề tài.
Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phòng chống tham nhũng hiện
nay, trong đó có tội nhận hối lộ, được đơng đảo mọi người quan tâm vì nó mang
4


tính thời sự và thực tiễn.

Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tham nhũng của nhiều
học giả, đặc biệt là các cơng trình nghiên cứu của tổ chức minh bạch quốc tế
(Transparency International), Ngân hàng thế giới (World Bank). Ở Việt Nam đã
nhiều học giả, nhà chính trị quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này và đã có nhiều bài
viết trên các phương tiện thơng tin đại chúng như:
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các cơng trình sau: Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Lê
Cảm chủ biên; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Cơng An nhân dân, 2000; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công An nhân dân, 2001; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,
phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1997;
Sách chuyên khảo: GS.TS. Võ Khánh Vinh, Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm về chức vụ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; GS.TSKH. Phan
Xuân Sơn, TS. Phạm Thế Lực (đồng chủ biên), Nhận diện tham nhũng và các giải
pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2008…
- "Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của Singapo", của Trần Anh Tuấn,
Ban Nội chính Trung ương, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007.
- "Tham nhũng cũng có sứ mệnh" của Nguyễn Sơn, Tuổi trẻ Online,
18/8/2006.
- "Truy tố 665 đảng viên vi phạm pháp luật ", Thông tấn xã Việt Nam
8/2007.
- "Nguyên tắc xử lý tham nhũng", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 21/8/2007, cập nhật lúc 14h56’.
- "Công chúc và tham nhũng - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới",
của T. Ngoai, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/8/2007, cập nhật lúc
17h38’.
- "Chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực", của Vũ Quốc Tuấn, Báo
5



Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, ngày 28/9/2006.
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác
phịng, chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật Phòng,
chống tham nhũng" do Tiến sĩ Trần Ngọc Liêm, Phó vụ trưởng Vụ IV, Thanh tra
Chính phủ làm Chủ nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 7/2007. Trong các cơ sở đào tạo
cũng đã có một số luận văn nghiên cứu về tham nhũng, lãng p như luận văn: "Một
số giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn
ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh ĐakLak", của Phạm Xuân Lĩnh, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta tuy đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội phạm nhận hối lộ nhưng ở dưới dạng các
khía cạnh nhỏ, khía cạnh lý luận, có nhiều vấn đề đã nghiên cứu nhưng nghiên cứu
chưa sâu, chưa toàn diện, đầy đủ, chưa nghiên cứu về thực tiễn tội phạm tham
nhũng trong giai đoạn hiện nay. Việc chọn nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam” là địi hỏi
khách quan, cấp thiết vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn nhằm tìm ra ngun
nhân, đưa ra một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, khắc phục
những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn xét xử của tội phạm
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
luật hình sự về tội nhận hối lộ, Luận án xác định nhu cầu và đưa ra những giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng áp dụng các quy định về tội phạm này trong Bộ
luật hình sự hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm sâu sắc hơn về những vấn đề lý luận liên quan đến tội nhận
hối lộ;

- Nghiên cứu lịch sử quy định về tội nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt nam
6


từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của Công ước quốc tế về chống tham
nhũng cũng như ở một số nước liên quan đến tội nhận hối lộ, để từ đó rút ra những
bài học kinh nghiêm tốt áp dụng vào Việt Nam;
- Nghiên cứu làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm và đường lối xử lý tội
phạm này trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá sâu sắc về thực trạng áp dụng các quy định về tội nhận
hối lộ của Bộ luật hình sự hiện hành từ năm 2010 đến nay của Tòa án nhân dân; rút
ra những tồn tại, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của nó;
- Phân tích nhu cầu và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng các
quy định về tội nhận hối lộ trong Bộ luật hình sự hiện hành.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề về “Tội nhận
hối lộ” trong Bộ luật hình sự hiện hành. Nghiên cứu đánh giá tình hình cơng tác xét
xử của Tồ án nhân dân các cấp, từ đó làm rõ một số nguyên nhân tồn tại hạn chế,
để kiến nghị với cấp có thẩm quyền tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật, nhằm
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phịng ngừa có hiệu quả tội phạm
hối lộ hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như: Phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp liệt kê, phương pháp quy nạp, diễn dịch và
phương pháp chứng minh, đồng thời dựa trên cơ sở quan điểm, chủ trương, phương
hướng nhiệm vụ của Đảng về PCTN, nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 3 (Khoá X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí.

6. Những đóng góp mới của đề tài
Thực hiện được việc nghiên cứu về loại tội phạm này trên đại bàn tỉnh Hà
Giang nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
7


Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện khái niệm tội
nhận hối lộ trong BLHS, hướng tới việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện BLHS Việt
Nam thời gian tới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực tiễn, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp
nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử của Tịa án nhân dân các cấp, nhằm đấu tranh
ngăn chặn có hiệu quả loại tội phạm này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1:

Một số vấn đề chung về tội nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam.

Chương 2:

Các quy định về tội nhận hối lộ trong Bộ Luật hình sự hiện
hành và thực tiễn áp dụng.

Chương 3:

Nhu cầu và một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng các
quy định về tội nhận hối lộ trong Bộ Luật hình sự hiện hành.

8



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ
trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội nhận hối lộ
1.1.1.1. Khái niệm chung tội phạm về chức vụ
Tội phạm về chức vụ là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, nó mang tính
lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tội phạm về chức vụ xuất hiện
khi một người được giao một quyền lực nhất định và người đó đã sử dụng quyền
lực được giao để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, của xã hội và của công dân..
Qua nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự các tội về tham nhũng
cho thấy từ khi thành lập nước cho đến khi Bộ luật hình sự 1985 chính thức thơng
qua, thì khái niệm tội phạm về chức vụ chưa được quy định cụ thể trong các văn
bản pháp luật hình sự. Nghĩa là trong các văn bản pháp luật hình sự được ban hành
trước đây chưa có một quy phạm nào quy định khái niệm tội phạm về chức vụ.
Nhưng các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cụ thể để làm những việc sai trái
đều bị xử lý bằng các biện pháp kỷ luật của Đảng, kỷ luật của Nhà nước hay bằng
các biện pháp hành chính.
Trong giai đoạn hiện nay quá trình phát triển xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu
phải tội phạm hóa một hành vi vi phạm pháp luật của người có chức vụ quyền hạn,
nhu cầu pháp điểm hóa pháp luật hình sự và điều đó đặt ra yêu cầu khái quát hóa
từng loại tội phạm căn cứ vào một cố dấu hiệu nhất định. Trên cơ sở đó, khái niệm
tội phạm về chức vụ được hình thành từng bước và ngày càng hồn chỉnh.
Bộ luật hình sự 1999 quy định một cách khái quát về khái niệm tội phạm về
chức vụ ở Điều 277 BLHS quy định: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi
xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện

9


trong khi thực hiện công vụ”. Đây là khái niệm khái quát được các dấu hiệu chung
nhất đặc trưng cho một nhóm tội phạm cụ thể, căn cứ vào các dấu hiệu khách thể,
chủ thể và các yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Khái niệm này đã khái quát
được các đặc điểm pháp lý chung của các tội phạm về chức vụ được quy định trong
Chương XXI. Việc quy định tội phạm về chức vụ là cần thiết và hoàn toàn phù hợp
với yêu cầu khách quan trong đấu tranh phòng chống các tội phạm về chức vụ.
So sánh giữa điều 277 BLHS năm 1999 với điều 352 BLHS năm 2015 chúng
ta thấy, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số câu từ để đảm bảo tính chi tiết,
cụ thể và chặt chẽ hơn đó là: bổ sung cụm từ “nhiệm vụ” vào cả khoản 1 và bổ
sung, thay thế cụm từ “công vụ” thành “nhiệm vụ” khoản 2 điều 352 BLHS năm
2015. Nhằm làm rõ hơn khái niệm “cơng vụ” trong nền hành chính nhà nước với
người được giao thực hiện một “nhiệm vụ” nào đó. Cơng vụ là một phạm vi rộng
với nhiều yếu tố hợp thành như thể chế công vụ, đội ngũ công chức, các cơ quan, tổ
chức, đơn vị của nhà nước.... Nói đến cơng vụ là nói đến hoạt động của nhà nước, là
một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cơng
chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong q trình quản lý tồn diện
các mặt của đời sống xã hội. Còn nhiệm vụ chúng ta hiểu là các hoạt động khác khi
được nhà nước uỷ quyền, đảm nhận và giao cho thực hiện các nhiệm vụ, chức năng
của nhà nước theo quy định của pháp luật.
Việc quy định tội phạm về chức vụ là rất đúng đắn và cần thiết, hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu khách quan trong đấu tranh phòng chống các tội phạm về chức
vụ, nó đánh dấu một bước phát triển mới của luật hình sự và khoa học luật hình sự
nước ta, có ý nghĩa to lớn về mặt phương pháp luận, là cơ sở cho việc nghiên cứu
những vấn đề khác (khách thể, chủ thể, các dấu hiệu khách quan, chủ quan) của tội
phạm về chức vụ, những dấu hiệu đặc trưng cho loại tội phạm này.
Đồng thời khái niệm này đã góp phần giải quyết được những vấn đề trong
luật, giúp cho các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng các quy phạm pháp luật

hình sự một cách đúng đắn, có cơ sở tránh sự nhằm lẫn tội phạm về chức vụ với các
hành vi vi phạm pháp luật khác của người có chức vụ, quyền hạn. Như vậy, việc
10


quy định khái niệm tội phạm về chức vụ ở Điều 277 Bộ luật hình sự có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng.
Chương XXI gồm 15 Điều, hai mục: Mục A – Các tội phạm về tham nhũng
và Mục B – Các tội phạm khác về chức vụ. Trong đó, Mục A gồm 7 Điều luật quy
định về các tội trong đó có Điều 279 quy định về tội nhận hối lộ. Như vậy, tội nhận
hối lộ là tội phạm về chức vụ nhưng lại được xếp trong một nhóm tội phạm cụ thể
hơn: các tội phạm về tham nhũng. Nói đến tham nhũng, tuy được hiểu dưới nhiều
góc độ khác nhau nhưng pháp luật nước ta cũng như pháp luật nhiều nước trên thế
giới đều có quan niệm tương đối thống nhất về vấn đề này: “Tham nhũng là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” –
đây cũng là khái niệm tham nhũng được đưa ra tại Khoản 2 Điều 1 Luật phòng,
chống tham nhũng năm 2005.
1.1.1.2. Khái niệm về tội nhận hối lộ
Hiện nay, tham nhũng nói chung và tội nhận hối lộ nói riêng, được xác định
là căn bệnh trầm kha, mang tính phổ biến nhất của quyền lực. Nó xuất hiện trong tất
cả cơ cấu của tổ chức quyền lực, đó là, lợi dụng cơng quyền nhằm mục đích vụ lợi
cá nhân hay cho những một nhóm lợi ích cục bộ.
Vì tội nhận hối lộ là một trong các tội phạm về tham nhũng, do đó việc phân
tích sâu hơn về tội phạm tham nhũng là việc làm cần thiết. Tham nhũng là một hiện
tượng xã hội tiêu cực, xuất hiện cùng với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát
triển của Nhà nước, nó là biểu hiện của sự tha hoá của một bộ phận các quan chức
được giao cho các quyền về chính trị - kinh tế - văn hố - xã hội. Ngày nay tham
nhũng khơng cịn là vấn đề riêng của một quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề của
toàn cầu. Các nước phát triển, đang phát triển hay kém phát triển, khơng có một
nước nào “miễn dịch” được tham nhũng, nó chỉ khác nhau về tính chất, mức độ

phạm tội mà thơi. Tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra
giải pháp phịng, chống tham nhũng có hiểu nhất. Tuy nhiên, tham nhũng dường
như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển, những nền kinh tế đang
chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm
11


trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngồi, làm xói mịn
niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Chính
phủ, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một chế độ.
Thấy trước được sự nguy hại của tệ tham nhũng và thực trạng tình hình tham
nhũng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã chỉ rõ và nhấn mạnh là:
Tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin
trong nhân dân và là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta [23, tr. 11].
Tham nhũng thường gắn với yếu tố quyền lực, khi một người được giao nắm
giữ quyền lực, với quyền lực đó, trong hồn cảnh cụ thể, họ thực hiện nhiệm vụ,
công vụ được giao đã thực hiện hành vi trái với quy định của pháp luật được luật
hình sự bảo vệ, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, của Nhà nước và
của xã hội nhằm mục đích vụ lợi.
Dưới góc độ xã hội, tham nhũng là một hiện tượng xã hội chứ không phải là
một hiện tượng nhất thời của một người hay một nhóm người trong xã hội. Xã hội
càng phát triển thì nạn tham nhũng càng có mơi trường phát triển và mức độ nguy
hiểm, thủ đoạn của loại tội phạm này sẽ tinh vi hơn.
Dưới góc độ chính trị, tham nhũng thể hiện sự tha hóa của một bộ phận cán
bộ, cơng chức Nhà nước mà biểu hiện của nó là tình trạng quan liêu, mua bán chức
quyền để vụ lợi.
Dưới góc độ kinh tế, tham nhũng khơng chỉ gây ra thiệt hại trong việc làm

thất thoát tài sản của Nhà nước, của nhân dân mà nó cịn kìm hãm sự phát triển kinh
tế. Trong khoa học và thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng, tội
phạm về tham nhũng. Để có thể đưa ra một khái niệm chính xác về tội phạm tham
nhũng, trước hết cần tìm hiểu khái niệm về tham nhũng.
Ngân hàng Thế giới định nghĩa, tham nhũng là “lạm dụng công quyền để tư
lợi”. Điều này cho rằng căn nguyên của tham nhũng xuất phát từ công quyền và lạm
12


dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà
nước, việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự tồn tại của khu vực công.
Khái niệm này loại trừ khả năng tham nhũng xảy ra trong khu vực tư nhân, chỉ tập
trung duy nhất vào tình trạng tham nhũng trong khu vực công.
Công ước về chống tham nhũng của Liên Hợp quốc không đưa ra định nghĩa
và không liệt kê các hành vi được coi là tham nhũng và tội phạm về tham nhũng,
chỉ yêu cầu các quốc gia thành viên phải hình sự hóa các hành vi quy định từ Điều
15 đến Điều 25 của Công ước, bao gồm:
Hối lộ công chức quốc gia; Hối lộ cơng chức nước ngồi hoặc công chức của tổ
chức quốc tế; Tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công chức;
Lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi; Lạm dụng chức năng; Làm giàu bất hợp pháp; Tẩy rửa
tài sản do phạm tội mà có; Che dấu tài sản; Cản trở hoạt động tư pháp.
Theo Từ điển bách khoa của Thụy Sĩ, thì “tham nhũng là hậu quả nghiêm
trọng của sự vơ tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Đó là
hành vi vi phạm pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân” [26].
Cơ quan Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra định nghĩa về
tham nhũng. Theo đó, “tham nhũng là sự lạm dụng chức vụ, vai trị và nguồn lực
cơng để trục lợi cá nhân” [26, tr.15].
Ở Trung Quốc, Bộ Luật Hình sự khơng quy định khái niệm về tội phạm tham
nhũng, chỉ quy định tội phạm về tham nhũng bao gồm tham ô, lạm dụng công quỹ,
nhận hối lộ, đưa hối lộ, không nộp quà biếu hoặc lễ vật vào công quỹ, không chứng

minh được nguồn gốc tài sản, phân chia tài sản trái phép.
Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định tội phạm về tham nhũng tại Chương XV
“Các tội phạm về tham nhũng”, quy định tội phạm về tham nhũng là lạm dụng chức
vụ, quyền hạn của công chức, của công chức đặc biệt thực hiện; nhận hối lộ, nhận
hối lộ tạ ơn, nhận hối lộ trước, nhận hối lộ để gây ảnh hưởng; đưa hối lộ [28].
Thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều quan niệm về tham nhũng và
khái niệm tham nhũng đang là một trong những vấn đề gây tranh luận. Theo từ điển
Tiếng Việt, “tham nhũng là sự lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy của
13


dân” [79, tr.153]. Cũng có nhiều quan điểm cho rằng “tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy mầm mống của tệ tham
nhũng trong chính quyền cách mạng và Người kiên quyết đấu tranh với tệ này,
Người đã nói: “Tham ơ, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó
do lịng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người mà
ra” [37, tr.94]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng sử dụng danh từ “tham nhũng”.
Theo GS.TS. Nguyễn Xn m, PGS.TS. Nguyễn Hịa Bình, TS. Bùi Minh
Thanh trong cuốn Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và Thế giới” cho rằng:
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất hiện và tồn tại
trong xã hội phân chia giai cấp và hình thành nhà nước, được thể hiện bằng hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cho cá nhân hoặc người khác dưới bất kỳ
hình thức nào, gây thiệt hại tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân [80, tr.26].
GS.TSKH. Phan Xuân Sơn và Ths. Hoàng Thế Lực trong cuốn “Nhận diện
tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, cho
rằng: “Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, trong đó các tổ chức, tập đoàn, cá
nhân… lợi dụng những ưu thế về chức vụ, cương vị, uy tín, nghề nghiệp, hồn cảnh

của mình hoặc người khác, lợi dụng những sơ hở của pháp luật để trục lợi bất
chính” [53, tr.37].
Như vậy, có thể thấy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về tham nhũng của
các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam. Căn cứ vào các quy định của pháp luật
Việt Nam về hành vi tham nhũng, trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khoa học
của thế giới và Việt Nam về khái niệm tham nhũng, có thể hiểu tham nhũng là lợi
dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân.
Tội phạm, là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội – pháp lý, tội phạm
luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi
ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do
14


và các lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tham nhũng gây ra tác hại nhiều mặt, là một
trong những mối nguy hiểm cao độ, cản trở sự phát triển kinh tế, xã hội. Có nhiều
hành vi được xem là hành vi tham nhũng, tuy nhiên không phải hành vi tham nhũng
nào cũng bị tội phạm hóa thành các tội phạm về tham nhũng. Việc tội phạm hóa các
hành vi tham nhũng có ý nghĩa quan trọng trong cơng cuộc phòng, chống tham
nhũng. Để phòng và chống tham nhũng đòi hỏi phải có nhiều biện pháp mang tính
đồng bộ, song pháp luật vẫn giữ vai trị chủ đạo, tạo khn khổ pháp lý nhằm phòng
ngừa và phát hiện các hành vi tham nhũng và có các chế tài thích hợp đối với người
có hành vi tham nhũng. Vì thế để phòng ngừa và phát hiện các hành vi tham nhũng
phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản, các qui định trực tiếp liên quan đến tội phạm
tham nhũng. Thông qua các dấu hiệu đặc trưng của hành vi tham nhũng để làm căn
cứ xác định một cách cụ thể, rõ ràng về loại tội phạm này.
Tội phạm về tham nhũng có thể được hiểu là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong văn bản pháp luật, do người có chức vụ, quyền hạn,
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của
mình nhằm mục đích vụ lợi, xâm phạm hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành thì tội nhận
hối lộ được định nghĩa như sau:
Nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận tiền hoặc sẽ nhận tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, để làm hoặc khơng làm
một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ [44, Điều 279].
Ở nước ta luôn coi hối lộ là một “quốc nạn” cần phải chủ động phòng ngừa và
kiên quyết trừng trị bằng nhiều biện pháp mạnh mẽ. Vì vậy đấu tranh chống lại nạn hối
lộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng và Nhà nước ta và của cả hệ
thống chính trị. Cuộc đấu tranh chống lại tham nhũng, hối lộ là cuộc đấu tranh trên mọi
lĩnh vực, trong đó việc xử lý hành vi về nhận hối lộ là một việc rất quan trọng, góp
phần ngăn chặn đẩy lùi và từng bước đẩy lùi tệ nạn hối lộ ra khỏi đời sống xã hội,
15


nhưng khơng thể ngày một ngày hai chúng ta có thể đẩy lùi tệ nạn này được, mà phải
trải qua một cuộc đấu tranh “Vừa cấp bách vừa lâu dài Mọi cán bộ lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở
và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp
tham gia đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí” [4, tr.172-185-65].
1.1.1.3. Đặc điểm
Về chủ thể: Chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, là những người có
chức vụ, quyền hạn trong bộ máy Nhà nước, tổ chức Đảng và trong các tổ chức
kinh tế Nhà nước. Theo quy định tại điều 279 BLHS năm 1999 chủ thể của tội nhận
hối lộ được thể hiện do người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng địa vị của mình để
làm trái với nguyên tắc, trái với nội dung công việc được giao để nhận tiền, tài sản,
hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hối lộ, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, của nhân dân và thiệt hại đến lợi ích chung của tồn xã hội [44].
Về khách thể: Tội nhận hối lộ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ
quan Nhà nước, làm cho cơ quan Nhà nước bị suy yếu, làm mất lòng tin của nhân

dân đối với Đảng và Nhà nước.
Về mặt chủ quan: Tội nhận hối lộ được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là
người nhận hối lộ thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn mong muốn
và để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Về mặt khách quan: Người nhận hối lộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình
có để làm một việc có lợi cho người đưa hối lộ và điều kiện để làm việc đó là sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ người đưa hối lộ.
Tóm lại, nhận hối lộ là hành vi thu lợi bất chính cho bản thân, có sự thỏa
thuận trước giữa người nhận hối lộ với người đưa hối lộ hoặc mơi giới đưa hối lộ.
Và thời điểm hồn thành tội nhận hối lộ tính từ thời điểm người có chức vụ, quyền
hạn đã thỏa thuận và đồng ý sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam.
Việc nghiên cứu tội nhận hối lộ nhằm mục đích đưa ra những giải pháp
phịng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này, nhằm góp phần đẩy
16


lùi và hạn chế đến mức thấp nhất các tội phạm về tham nhũng, hối lộ, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi [71, tr.25].
Thứ nhất. Từ thực tiễn quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là lĩnh vực
phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập, thục tiễn đấu tranh phịng, chống loại tội
phạm này, “Để thơng qua đó, chúng ta có thể sử dụng đúng và đủ pháp luật hình sự
(đủ liều lượng và đủ pháp luật) vào việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân” [17, tr.18].
Thứ hai. Thông qua việc nghiên cứu tội nhận hối lộ, ý nghĩa thực tiễn về mặt
phương pháp luận, trong đường lối sủa đổi Bộ luật hình sự (BLHS) tới đây, tạo
bước đột phá nhằm xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự đủ mạnh, đáp

ứng với u cầu phịng, chống tệ nhận hối lộ trong tình hình mới [7].
Thứ ba. Từ kinh nghiệm các nước trên thế giới cũng như chuẩn mực quốc tế,
BLHS sửa đổi sẽ mở rộng đối tượng đưa nhận hối lộ, gồm cả cơng chức nước ngồi.
Thứ tư. Tính tốn mở rộng khái niệm “Của hối lộ”. BLHS hiện hành chỉ quy
định của hối lộ là vật chất nhưng trên thực tế có nhiều lợi ích khác khơng thua kém,
là lợi ích phi vật chất như chạy thành tích, khen thưởng, danh hiệu..., thậm chí cả
vấn đề nhạy cảm như hối lộ tình dục. Mở rộng phạm vi này để tồn diện, phù hợp
với chuyển biến về tình hình tội phạm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh về phòng chống
tội phạm tham nhũng hiện nay.
Thứ năm. Đảm bảo sự cơng bằng, bình đẳng trước pháp luật, tránh bỏ lọt tội
phạm, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan sai người người
vô tội. Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Lập lại trật tự kỷ cương quản lý của nhà nước, không để tội phạm nhận
hối lộ làm tha hóa cán bộ, làm méo mó, lệch lạc chủ trương, chính sách đúng đắn
của đảng và nhà nước.

17


1.2. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về tội nhận hối
lộ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà giành được độc lập,
Đảng và Nhà nước ta đã rất chú ý đến vấn đề tham nhũng, các quy định về chống
tham nhũng, lãng phí, thực hiện tiết kiệm và ngăn cấm chiếm hữu tài sản công được
đặt ra. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản để bảo vệ tài sản của Nhà
nước và của nhân dân, bảo vệ hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, ngăn
ngừa sự vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, Đảng viên. Tội phạm về tham

nhũng giai đoạn này vẫn chưa được quy định một cách cụ thể và có hệ thống trong
các văn bản pháp luật hình sự mà chủ yếu được quy định bằng các sắc lệnh, pháp
lệnh, Nghị quyết.
Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển
thủ công quỹ. Theo quy định tại Sắc lệnh này, chủ thể của tội phạm tham nhũng
khơng những là cơng chức mà cịn có nhân viên trong Chính phủ, trong Ủy ban
hành chính các cấp, các cơ quan do dân bầu. Các hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội rất nghiêm khắc, thể hiện sự quyết liệt, không khoan nhượng đối với
loại tội phạm này. Có thể thấy Sắc lệnh này là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên
của Nhà nước ta quy định tội phạm về tham nhũng một cách đặc thù.
Điều 1 Sắc lệnh quy định:
Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển
thủ công quỹ hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ năm đến hai mươi năm và
phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ; tang vật hối lộ bị tịch thu
sung công; người phạm tội có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia
sản; các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên [36, tr.1].
Điều 2 Sắc lệnh quy định:
Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà
18


×