Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 106 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
MÔ HÌNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM HIỆN NAY.



Họ và tên sinh viên : Mai Thị Linh
Lớp : Nhật 1
Khoá : 42
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Phan Trần Trung Dũng




Hà Nội, tháng 10/ 2007

Mụ hỡnh v hot ng ca cỏc CTCK trờn TTCK Vit Nam hin nay


i


MC LC
Mở đầu 1
Ch-ơng Một: cơ sở lý luận 3
I. Tổng quan thị về tr-ờng chứng khoán 3
1. Khái niệm về thị tr-ờng chứng khoán 3
2. Cấu trúc và phân loại cơ bản thị tr-ờng chứng khoán 3
3. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị tr-ờng chứng khoán 5
4. Chức năng của thị tr-ờng chứng khoán 6
5. Các chủ thể tham gia thị tr-ờng chứng khoán 8
II. Công ty chứng khoán Chủ thể quan trọng hàng đầu của thị tr-ờng
chứng khoán 12
1. Khái niệm về công ty chứng khoán 12
2. Các loại hình công ty chứng khoán 12
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán 19
4. Vai trò của công ty chứng khoán đối với thị tr-ờng chứng khoán 27
Ch-ơng hai : Thực trạng về mô hình và hoạt động của các
công ty chứng khoán trên thị tr-ờng chứng khoán Việt
Nam hiện nay 30
I. Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
hiện nay. 31
1. Yêu cầu về loại hình kinh doanh và phạm vi hoạt động 31
2. Yêu cầu về vốn và quy mô vốn 34
3. Yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ nghề nghiệp của
cán bộ và nhân viên các công ty chứng khoán 36
4. Yêu cầu về tổ chức công ty chứng khoán 37
Mụ hỡnh v hot ng ca cỏc CTCK trờn TTCK Vit Nam hin nay


ii
II. Thực trạng và đánh giá tình hình hoạt động của các cTCK từ lúc ra đời

cho đến nay 39
1. Các công ty chứng khoán không ngừng tăng về số l-ợng và quy mô hoạt
động 40
2. Các công ty chứng khoán đã đạt đ-ợc những kết quả đáng khích lệ 43
3. Các hoạt động nghiệp vụ đ-ợc đẩy mạnh cả về số l-ợng lẫn chất l-ợng 48
III. Một số tồn tại trong hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay 59
1. Số l-ợng các công ty chứng khoán tăng nhanh chóng trong một thời gian
ngắn nh- một mối đe doạ đến quyền lợi nhà đầu t- 59
2. Nhiều công ty ch-a đáp ứng đủ mức vốn pháp định theo yêu cầu 63
3. Cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị kỹ thuật ch-a đáp ứng đ-ợc yêu cầu
của thị tr-ờng 63
4. Thiếu nhân lực về cả số l-ợng và chất l-ợng 65
5. Hoạt động t- vấn cho khách hàng ch-a đ-ợc quan tâm thích đáng 65
6. Nhiều công ty chứng khoán liên tục vi phạm các quy định về giao dịch 66
IV. Bài học kinh nghiệm từ việc tổ chức công ty chứng khoán của một số n-ớc
trên thế giới 67
1. Kinh nghiệm tổ chức công ty chứng khoán của một số n-ớc 67
2. Bài học kinh nghiệm 73
Ch-ơng Ba : Giải pháp hoàn thiện mô hình và nâng cao
hiệu quả hoạt động các cTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay
77
I. Kiến nghị đối với Uỷ Ban Chứng khoán Nhà n-ớc 78
1. Hoàn thiện khung chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động của TTCK
nói chung và CTCK nói riêng theo h-ớng an toàn hiệu quả. 78
2. Kiến nghị về các loại hình tham gia kinh doanh chứng khoán 80
3. Nâng cao điều kiện thành lập đối với các công ty chứng khoán 82
Mụ hỡnh v hot ng ca cỏc CTCK trờn TTCK Vit Nam hin nay


iii

4. Hoàn thiện hệ thống đào tạo, sát hạch cấp giấy phép hành nghề 84
5. Tạo môi tr-ờng thuận lợi cho các CTCK hoạt động 84
6. Tăng c-ờng quản lý, giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán
trên thị tr-ờng 85
II. Kiến nghị đối với các công ty chứng khoán 86
1. Tăng vốn điều lệ hơn nữa nhằm nâng cao quy mô và chất l-ợng hoạt
động 86
2. ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng c-ờng cơ sở vật chất kỹ thuật trong
hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao về kinh tế cũng nh- kiểm soát
và quản trị rủi ro tốt 87
3. Tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân lực chất l-ợng cao 88
4. Mở rộng mạng l-ới chi nhánh, phòng giao dịch , đại lý nhận lệnh 89
5. Đẩy mạnh hơn nữa nghiệp vụ t- vấn 90
6. Chú trọng đến việc cung cấp dịch vụ chứng khoán cho nhà đầu t- n-ớc
ngoài 91
7. Nâng cao vai trò hệ thống kiểm soát nội bộ trong các công ty chứng
khoán 91
Kết luận 93
Danh mục Tài liệu tham khảo 94
Danh mục website 95
Danh mục các bảng trong khóa luận 96
Danh mục biểu đồ trong khóa luận 96
Danh mục các chữ viết tắt 97
Phụ lục 98

Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


1
MỞ ĐẦU

Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, để tận dụng được nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân chúng cũng như huy động được vốn đầu tư nước ngoài
cần có TTCK. Do vậy, việc thiết lập một TTCK hoạt động lành mạnh, hiệu
quả và thực sự trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế là
một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, để một TTCK được thiết lập và hoạt động có hiệu quả đòi
hỏi phải hội đủ các yếu tố nhất định như: phải có một khối lượng lớn các công
ty niêm yết, các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức cũng như các tổ chức trung gian
kinh doanh trên TTCK. Trong đó, CTCK là một tổ chức trung gian trên
TTCK, có vai trò chủ yếu là làm môi giới giao dịch mua, bán chứng khoán,
làm cầu nối giữa nhà phát hành và các nhà đầu tư. Do đó, vai trò của các
CTCK mang tính chất quyết định trong sự phát triển lớn mạnh của thị trường.
TTCK Việt Nam mới trong giai đoạn phát triển, cùng với quá trình đó
là sự hình thành và từng bước trưởng thành của các CTCK. Tuy nhiên trong
quá trình hoạt động của các CTCK hiện nay còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế.
Vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Mô hình và hoạt động của các công ty chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” cho khoá luận tốt
nghiệp này.
Trong khoá luận, tôi xin trình bày những cơ sở lý luận chung nhất về
CTCK, các loại mô hình CTCK, cũng như thực trạng hoạt động của các
CTCK ở Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay. Cùng với việc tìm hiểu mô hình,
hoạt động của CTCK tại một số nước trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm
cho thực tế xây dựng và phát triển các CTCK ở Việt Nam. Từ đó, người viết
xin đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thiết lập, hoàn thiện mô hình CTCK
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


2
cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty trong bối cảnh hiện
nay nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK cũng như nền kinh tế

nước ta nói chung.
Khoá luận được trình bày dựa trên việc nghiên cứu những cơ sở pháp
lý cho việc hình thành và hoạt động của các CTCK ở Việt Nam hiện nay và
nghiên cứu thực trạng, tình hình hoạt động của các CTCK tại Việt Nam từ lúc
ra đời cho đến nay.
Bố cục của khoá luận bao gồm ba chương:
- Chương I: Những cơ sở lý luận chung nhất về TTCK và CTCK.
- Chương II: Thực trạng về mô hình và hoạt động của các CTCK trên
TTCK Việt Nam hiện nay.
- Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay.
Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của thầy giáo Phan Trần Trung Dũng, sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn
bè và sự cung cấp tài liệu vô cùng quý báu từ thư viện trường Đại học Ngoại
Thương, Thư viện quốc gia, Ban quản lý kinh doanh – Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước…
Tuy nhiên do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn thiếu, khoá
luận chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự góp
ý, chỉ bảo từ thầy cô và các bạn quan tâm.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 2/10/2007
Mai Thị Linh
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


3
CHƢƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. TỔNG QUAN THỊ VỀ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm về thị trƣờng chứng khoán
Như ta đã biết, thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung

cầu về vốn, diễn ra dưới hình thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các
chứng từ có giá khác. Nói cách khác, thị trường tài chính là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán các tài sản tài chính. Thị trường tài chính bao gồm thị
trường tiền tệ là nơi mua bán các công cụ nợ ngắn hạn và thị trường vốn là
nơi mua bán các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trường vốn
được thực hiện thông qua ngân hàng và TTCK.
Như vậy, TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính mà
tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn. Hàng hoá
trên TTCK bao gồm các loại chứng khoán, nó được hiểu là các giấy tờ có giá
hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và
tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có
sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
2. Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trƣờng chứng khoán
- Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: TTCK được chia thành
thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
 Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát
hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


4
 Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
- Căn cứ vào phƣơng thức hoạt động của thị trƣờng: TTCK được
chia thành thị trường tập trung (TTGDCK hoặc SGDCK) và phi tập trung (thị
trường OTC).
 Tại thị trường giao dịch tập trung, các giao dịch được tập trung tại một
địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình

ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
 Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến
hành qua mạng lưới các CTCK phân tán trên khắp quốc gia và được nối với
nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này được hình thành theo
phương thức thoả thuận.
- Căn cứ vào hàng hoá trên thị trƣờng: TTCK được phân thành thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các công cụ phái sinh.
 Thị trường cổ phiếu: Là thị trường phát hành và giao dịch mua bán các
loại cổ phiếu.
 Thị trường trái phiếu: Là thị trường phát hành và giao dịch, mua bán
các trái phiếu đã được phát hành. Các trái phiếu này bao gồm trái phiếu công
ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
 Thị trường các công cụ phái sinh: Bên cạnh các giao dịch truyền thống
về cổ phiếu và trái phiếu, các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác
như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện.
Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán (cổ
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


5
phiếu, trái phiếu). Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc
chứng khoán, hay các công cụ phái sinh.
Thị trường các công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán
lại các công cụ phái sinh đã được phát hành. Đây là loại thị trường chuyên
giao dịch những công cụ tài chính cao cấp, do đó thị trường này chỉ xuất hiện
ở những nước có TTCK phát triển mạnh.
3. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trƣờng chứng khoán
- Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm
tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải

dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy, TTCK phải được xây dựng
trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành
chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông
tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin
được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên
và đột xuất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, SGDCK, các
CTCK và các tổ chức có liên quan khác.
- Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên TTCK, các giao dịch được thực hiện thông
qua tổ chức trung gian là các CTCK. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư
thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh
phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh
doanh, các CTCK mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng hoặc kết nối
các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng
khoán trên tài khoản của mình.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


6
- Nguyên tắc đấu giá
Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên
tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường
quyết định.
4. Chức năng của thị trƣờng chứng khoán
TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc
mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi
có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao

đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể
nắm giữ chứng khoán. TTCK có những chức năng cơ bản sau:
- Huy động vốn đầu tƣ cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất – kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của
công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa
phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích đầu tư phát triển hạ
tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
- Cung cấp môi trƣờng đầu tƣ cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với
các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


7
nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa
chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở
hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc
tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy
tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có
hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng
khoán giao dịch trên thị trường.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được
phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh

hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng
tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
- Tạo môi trƣờng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách
nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang
mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho
thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được coi là “phong
vũ biểu” của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực
hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua
và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách,
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


8
biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế.
5. Các chủ thể tham gia thị trƣờng chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK được chia thành 3 nhóm sau:
Nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến TTCK.
- Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK
và là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá cho TTCK.
 Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
 Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
 Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các
trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
- Nhà đầu tƣ

Nhà đầu tư là những người mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà
đầu tư có thể được chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức.
 Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu
tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn
và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các
hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của
mình.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


9
 Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức
này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh
nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà
đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty bảo
hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua
các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư
và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, các CTCK, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở
thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình.
- Các tổ chức kinh doanh trên thị trƣờng chứng khoán
 Công ty chứng khoán
CTCK là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể
đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành,
môi giới, tự doanh, tư vấn tài chính doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng

khoán.
Để có thể thực hiện được mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo
được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
 Các ngân hàng thương mại
Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có
để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng khoán. Tuy
nhiên, các ngân hàng chỉ được đầu tư và chứng khoán trong những giới hạn
nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


10
Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập
để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
- Các tổ chức có liên quan đến thị trƣờng chứng khoán
 Cơ quan quản lý nhà nước
Ban đầu TTCK hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ
phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự
bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định
của TTCK, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có
TTCK hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát hoạt động
phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý, giám
sát TTCK đã ra đời.
Cơ quan quản lý giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô hình
hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ
quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại do sự kết hợp giữa tự quản
và nhà nước. Nhưng nhìn chung cơ quan này do chính phủ của các nước
thành lập nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho
TTCK hoạt động lành mạnh suôn sẻ và phát triển vững chắc. Cơ quan này có
thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và nó được thành lập để

thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK .
Ở Việt Nam, ngày 28/11/1996 UBCKNN được thành lập với vai trò là
một cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước đối với TTCK.
Từ tháng 9/2004, UBCKNN được chuyển vào Bộ tài chính, chịu trách nhiệm
trước Bộ trưởng Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chứng khoán và TTCK, trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


11
TTCK, quản lý các hoạt động dịch vụ công cộng thuộc lĩnh vực chứng khoán
và TTCK theo quy định của pháp luật.
 Sở giao dịch chứng khoán ( Trung tâm giao dịch chứng khoán)
SGDCK thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao
gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên Sở giao dịch. Ngoài
ra, SGDCK cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao
dịch chứng khoán tại sở, phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban
chứng khoán.
 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các CTCK và
một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập
với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn
ngành chứng khoán nói chung.
 Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ
thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán .
 Công ty định mức tín nhiệm
Công ty định mức tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh
giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc, lãi đúng thời hạn và theo những
điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.

Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành chứ
không phải cho công ty. Do vậy một công ty phát hành có thể mang nhiều
mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó.

Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


12
II. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN – CHỦ THỂ QUAN TRỌNG HÀNG
ĐẦU CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm về công ty chứng khoán
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới đã cho thấy,
TTCK thời kỳ còn sơ khai, các nhà môi giới hoạt động độc lập với nhau. Sau
này, cùng với sự phát triển của TTCK chức năng và quy mô hoạt động giao
dịch của các nhà môi giới tăng lên, đòi hỏi sự ra đời của các CTCK – là sự tập
hợp có tổ chức của các nhà môi giới riêng rẽ. Sự ra đời của CTCK là do nhu
cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, ở đó để bảo vệ của nhà đầu tư, yêu
cầu phải có một TTCK cạnh tranh hoàn hảo, bảo vệ cho nhà đầu tư được mua
bán chứng khoán với giá cả tốt nhất mà thị trường cho phép.
Đối với Việt Nam, để TTCK hình thành và phát triển có hiệu quả, một
yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK.
Bên cạnh đó mục tiêu của việc hình thành TTCK là thu hút vốn đầu tư trung
và dài hạn cho việc phát triển nền kinh tế. Do đó để thúc đẩy TTCK hoạt
động một cách có trật tự, công bằng, minh bạch và có hiệu quả thì cần phải có
sự ra đời và hoạt động của các CTCK.
Như vậy, CTCK là một tổ chức tài chính hoạt động trên TTCK, đóng
vai trò trung gian giữa người mua và người bán, giúp thị trường hoạt động an
toàn, minh bạch và trật tự. CTCK cũng đóng vai trò là những nhà tư vấn cho
các công ty phát hành, tư vấn cho các nhà đầu tư. Ngoài ra CTCK còn có thể
là nhà đầu tư trung hoặc dài hạn thông qua hoạt động bảo lãnh cho các công

ty phát hành và hoạt động tự doanh.
2. Các loại hình công ty chứng khoán
 Mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


13
Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh
nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường. Vì CTCK là một loại hình
định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xây dựng mô hình tổ chức kinh doanh
của nó tuỳ đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những
người làm công tác quản lý mà ở mỗi nước có sự khác nhau. Tuy nhiên, có
thể khái quát thành 3 mô hình cơ bản hiện nay:
- Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách. Các
ngân hàng, tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm không được tham gia kinh
doanh chứng khoán.
Mô hình này đã được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ,
Nhật… và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan…
Sở dĩ người ta không cho phép các tổ chức tài chính khác kinh doanh
chứng khoán là vì người ta sợ rằng những hoạt động của CTCK khi được thực
hiện đồng thời với các hoạt động tín dụng sẽ làm cho hoạt động kinh doanh
chứng khoán và hoạt động tín dụng gặp nhiều rủi ro hơn. Ví dụ như CTCK là
tổ chức tín dụng sử dụng tiền gửi của khách hàng để kinh doanh chứng khoán
với khối lượng lớn làm cho cầu chứng khoán tăng nhanh, dẫn đến giá chứng
khoán không phản ánh trung thực giá trị của doanh nghiệp, và điều đó có thể
dẫn đến sự sụp đổ của TTCK.
Ưu điểm của mô hình này là:
+ Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.

+ Tạo điều kiện cho TTCK phát triển mang tính chuyên môn hoá cao.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


14
Tuy nhiên mô hình này có nhược điểm là: nó không thích hợp với thị
trường ở các nước đã phát triển. Trong thời gian gần đây, cùng với xu hướng
hình thành các tập đoàn tài chính khổng lồ, các nước này đã có xu hướng
giảm dần các hạn chế về kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng
thương mại và từng bước mở rộng quyền của các ngân hàng thương mại, công
ty tài chính, bảo hiểm tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trên
TTCK. Chẳng hạn như ở các thị trường mới nổi như Thái Lan, các quỹ đầu tư,
các công ty tài chính đã được thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK như một
CTCK.
Ở Mỹ hiện nay, Quốc hội đã bỏ phiếu huỷ bỏ đạo luật “Glass Steagall”
(đạo luật được ban hành năm 1933 sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929,
nhằm phòng tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng cũng như chứng khoán tại
Mỹ. Theo đó các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng
khoán). Có nghĩa là các tổ chức tài chính ngày nay hoạt động với hình thức
các tổ chức tài chính đa năng.
- Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần
Theo đó các ngân hàng vừa được kinh doanh chứng khoán, vừa kinh
doanh bảo hiểm, và kinh doanh tín dụng. Mô hình này được áp dụng ở Đức,
Hà Lan, Thụy Sĩ, Áo…
Ưu điểm của mô hình này là:
+ Ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh về chuyên môn và vốn để kinh
doanh chứng khoán.
+ Việc kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh giúp giảm bớt chi phí quản lý
cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của
TTCK…

Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


15
Ví dụ như khi thành lập một CTCK độc lập, người ta phải có hội đồng
quản trị, ban điều hành riêng, có trụ sở, phương tiện hoạt động riêng. Trong
khi nếu hoạt động đa năng hơn thì hội đồng quản trị, ban điều hành không
phải riêng biệt…nhờ đó chi phí quản trị sẽ giảm đi rất nhiều.
+ Khi nguồn vốn của ngân hàng, tổ chức tài chính là công ty mẹ chưa sử
dụng sẽ được đưa vào dự trữ chứng khoán, điều đó làm tăng khả năng sinh lợi
cho tài sản kinh doanh. Ví dụ như công ty bảo hiểm, khi thu được phí bảo
hiểm và chưa sử dụng đến sẽ có thể dự trữ vào các chứng khoán ngay, do đó
có khả năng sinh lợi rất cao.
Nhược điểm của mô hình này là :
+ Nếu hoạt động kinh doanh của CTCK bị rủi ro có thể dẫn đến rủi ro lớn
cho công ty mẹ. Điển hình như sự sụp đổ của chi nhành ngân hàng Barrings ở
Singapore. Đặc biệt là khi CTCK đi vào kinh doanh các chứng khoán phái
sinh như: Options, futures… có thể sẽ mang lại lợi ích lớn nhưng nó cũng
đem đến rủi ro rất cao.
+ Khuynh hướng kinh doanh của hội đồng quản trị sẽ ảnh hưởng lớn đến
chiến lược chung của cả tổ chức tài chính. Do đó, nếu hội đồng quản trị có
khuynh hướng xem cho vay là nghiệp vụ kinh doanh có tính chiến lược thì
hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ yếu đi. Ngược lại hội đồng quản trị có
khuynh hướng xem nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán là chiến lược thì kinh
doanh chứng khoán sẽ bành trướng mau lẹ và khả năng bị rủi ro sẽ rất cao.
+ Sự không tách bạch giữa các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán với
nghiệp vụ cho vay còn làm cho quá trình quản lý khá phức tạp, nhất là sự
quản lý của bộ phận quản lý cao nhất như hội đồng quản trị và Ban điều hành.
Điều này dẫn đến có thể không kiểm soát hết mọi hoạt động của tổ chức tín
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay



16
dụng và có thể bị các nhân viên dưới quyền lợi dụng kinh doanh sai lệch định
hướng chung của tổ chức tín dụng hoặc kinh doanh thiếu hiệu quả mà không
thể được chấn chỉnh kịp thời.
- Mô hình ngân hàng đa năng một phần
Mô hình này là sự kết hợp của hai mô hình ở trên, theo đó các ngân
hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty
con độc lập, hoạt động tách rời. Mô hình này được áp dụng ở một số nước
như Anh, Canada và Úc…
Đặc điểm của mô hình này là kinh doanh chứng khoán và kinh doanh
tín dụng được tách ra độc lập trong hạch toán kinh doanh. Nghĩa là các CTCK
có tư cách pháp nhân riêng và chịu trách nhiệm bằng vốn riêng của mình.
Mô hình này có ưu điểm là:
+ Hoạt động của CTCK không ảnh hưởng gì đến hoạt động của ngân
hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ, do đó không gây rủi ro cho các ngân
hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ.
+ Nó thích hợp với các nền kinh tế đang phát triển: Do TTCK tại các
nước này mới phát triển, tiềm lực về vốn, kiến thức cũng như kinh nghiệm
của các tổ chức trung gian trên TTCK còn thấp, rất khó khăn cho một tổ chức
mới ra đời hoạt động. Cho phép các ngân hàng đứng ra thành lập công ty con
tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng được thế mạnh về vốn, chuyên
môn và kinh nghiệm tổ chức hoạt động của công ty mẹ, do đó tính khả thi sẽ
cao hơn nhiều. Ví dụ như ở Việt Nam, ban đầu các CTCK hầu hết là công ty
con của các ngân hàng thương mại. Những công ty này nhờ vào sự hoạt động
lâu năm của công ty mẹ trên thị trường tài chính nên có thị trường, có sự am
hiểu sâu sắc các công ty phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Mặt
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay



17
khác, do trình độ quản lý của các nền kinh tế đang phát triển còn thấp, nên sử
dụng mô hình này an toàn hơn và có khả năng thực hiện hơn.
Nhược điểm của mô hình này là:
+ Quy mô của CTCK thường nhỏ, bị lệ thuộc vào vốn của công ty mẹ cấp
cho. Hội đồng quản trị của CTCK thường là người của công ty mẹ, do đó nó
cũng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của công ty mẹ.
Ví dụ: Khi công ty mẹ muốn mở rộng thị trường tín dụng thì nó sẽ làm
cho thị trường phát hành chứng khoán bị thu hẹp lại, do các doanh nghiệp
thay vì phát hành chứng khoán để huy động vốn trên TTCK thì họ lại đi vay
ngân hàng để thoả mãn nhu cầu về vốn. Khi ngân hàng ra sức thu hút tiền gửi
tiết kiệm thì tiền được đầu tư vào TTCK sẽ giảm đi và ngược lại.
+ Nó không có quyền tự huy động vốn để kinh doanh, không hoạt động
tín dụng và bị lệ thuộc.
 Hình thức pháp lý của công ty chứng khoán
Trên thế giới có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản:
- Công ty hợp danh
Đây là loại hình công ty có từ 2 chủ sở hữu trở lên. Thành viên tham
gia vào quá trình đưa ra quyết định, quản lý được gọi là thành viên hợp danh.
Các thành viên hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài
sản của mình về các khoản nợ của công ty. Ngược lại, thành viên không tham
gia vào điều hành công ty được gọi thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của công ty.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng
khoán nào, việc thay đổi chủ sở hữu khó khăn, do vậy quy mô công ty thường
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


18

nhỏ. Bên cạnh đó, trách nhiệm của các thành viên hợp danh - những người
điều hành công ty- quá lớn nên ít tính mạo hiểm khi kinh doanh. Do vậy,
hình thức này hiện nay ít được áp dụng trên thế giới đặc biệt là với các CTCK.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
Các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ phải chịu trách
nhiệm với các khoản nợ của công ty hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
Do vậy loại hình công ty này an toàn hơn với các chủ sở hữu, do đó có thể
kinh doanh những lĩnh vực nhiều rủi ro hơn. Mặt khác việc huy động vốn
cũng đơn giản và linh hoạt hơn, đội ngũ quản lý cũng không bị bó hẹp trong
một số thành viên như công ty hợp danh.
Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ
phiếu, số vốn góp chỉ giới hạn trong khả năng của các thành viên và việc
chuyển đổi quyền sở hữu vẫn phức tạp. Do vậy, hình thức này hiện nay
thường chỉ áp dụng cho CTCK có thành viên là tổ chức.
- Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ
đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ quyết
định các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản
lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra.
Các ưu điểm của công ty cổ phần
+ Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục, không phụ thuộc vào việc thay
đổi cổ đông.
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


19
+ Giống như công ty trách nhiệm hữu hạn, rủi ro mà chủ sở hữu của công
ty phải chịu được hạn chế ở mức vốn góp. Nếu công ty thua lỗ và phá sản, cổ
đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty.
+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng, thông qua việc mua bán cổ

phiếu. Công ty có thể phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn sở hữu hoặc
phát hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường.
+ Ngoài ra đối với các CTCK, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần
và được niêm yết tại sở giao dịch thì họ đã được quảng cáo với các nhà đầu tư
chứng khoán miễn phí. Bởi khi đó, các thông tin về hình thức tổ chức quản lý,
chế độ báo cáo và hoạt động của công ty bắt buộc phải công khai với các nhà
đầu tư. Do vậy các khách hàng tin tưởng và thường ưa chuộng CTCK là công
ty cổ phần hơn.
Do những ưu điểm trên đây, ngày nay các CTCK chủ yếu đều được tổ
chức dưới hình thức công ty cổ phần. Thậm chí nhiều nước (như Hàn Quốc)
còn quy định bắt buộc CTCK phải là công ty cổ phần.
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện
cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK
hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết
quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến
khách hàng các sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán
chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán, giúp khách hàng có được
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


20
những quyết định đầu tư tỉnh táo, khắc phục tâm lý “sợ hãi và tham lam” khi
đầu tư.
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm
chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công
tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không
được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên

đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho
khách hàng.
 Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng
khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông
qua cơ chế giao dịch tại trung tâm giao dịch tập trung (SGDCK hoặc
TTGDCK) hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế
khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông
qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập
thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại
chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để
hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính
công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ
này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch
cho khách hàng, đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá
trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho
khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu
cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải ưu
Mô hình và hoạt động của các CTCK trên TTCK Việt Nam hiện nay


21
tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm
chí luật pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình CTCK là công ty môi
giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và CTCK có chức năng tự
doanh.
Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh
của khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh, CTCK kinh
doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có

nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng
phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp
đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Yêu cầu đối với công ty chứng khoán :
• Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự
doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt
động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về yếu tố con người, quy trình
nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
• Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách
hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của
khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này
đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán.
Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường
nên các CTCK có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ
mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
• Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm góp
phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh
được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các

×