Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tạm giữ theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.54 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...........................................................................................................3
B.NỘI DUNG........................................................................................................3
I. Phân tích quy định về biện pháp tạm giữ Bộ luật TTHS năm 2015.........3
1. Khái niệm tạm giữ.....................................................................................3
2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ.....................................................3
3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ....................................................................4
4. Thủ tục tạm giữ..........................................................................................5
5. Thời hạn tạm giữ........................................................................................6
II. Một số hạn chế về quy định tạm giữ trong tố tụng hình sự và kiến nghị
hoàn thiện..........................................................................................................7
C.KẾT LUẬN.....................................................................................................12
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................14


Bài làm
A.MỞ ĐẦU
Biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự.
Việc quy định và áp dụng một cách đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn
chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của tố tụng hình
sựđể phát hiện chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm
minh đối với kẻ phạm tội, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người
vô tội.
Theo cách hiểu chung nhất, biện pháp ngăn chặn là một trong các biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự được pháp luật tố tụng hình sự quy định, do người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng đối với bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành
vi phạm tội của họ, không để họ tiếp tục phạm tội mới hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử, hoặc nhằm bảo đảm việc thi hành án. Một trong những biện pháp
ngăn chặn quan trọng và hiệu quả không thể không nhắc đến biện pháp tạm giữ.
Bài tiểu luận dưới đây, em xin được tìm hiểu về: “Tạm giữ theo quy định của Bộ


luật tố tụng hình sự năm 2015”.
B.NỘI DUNG
I. Phân tích quy định về biện pháp tạm giữ Bộ luật tố tụng hình sự 2015
(BLTTHS 2015)
1. Khái niệm tạm giữ
Căn cứ Khoản 1 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tạm giữ là biện pháp
ngăn chặn áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ

2


Theo Khoản 1 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đối tượng áp dụng biện
pháp tạm giữ bao gồm:
- Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:
 Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
 Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
 Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc
trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
- Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; Người phạm tội tự thú;
Người phạm tội đầu thú; Người bị bắt theo quyết định truy nã
3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Theo Khoản 2 Điều 117 BLTTHS 2015 quy định: “Những người có thẩm
quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền
ra quyết định tạm giữ”.

Người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ bao gồm:
“ a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn
biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đợi
biên phịng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên
phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ
đội biên phịng, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm
Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục
3


Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm
phịng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng.”
Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ khơng hồn tồn là
những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những
người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
4. Thủ tục tạm giữ
Thủ tục tạm giữ bao gồm: Quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi
hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người.
Thủ tục tạm giữ được quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 117 BLTTHS 2015.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, giờ, ngày
bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội dung quy định tại Khoản 2
Điều 132 BLTTHS 2015. Quyết định tạm giữ phải giao cho người bị tạm giữ.
Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người bị tạm giam quy định tại Điều 59 Bộ luật TTHS 2015.
 Người bị tạm giữ có những quyền như sau:
   - Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn

tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
   - Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 59 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015;
   - Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại
chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
4


   - Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
   - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
   - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
   - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng về việc tạm giữ.
Người bị tạm giữ có nghĩa vụ: chấp hành các quy định của Bộ luật TTHS 2015
và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm
giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc
tạm giữ khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định
hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ.
5. Thời hạn tạm giữ
Căn cứ theo Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự, thời hạn tạm giữ:
- Khơng q 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải
người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra
quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
- Trường hợp cần thiết, sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh

phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần thời gian để làm rõ hành
vi, làm rõ căn cứ, lý lịch của người bị tạm giữ thì người ra quyết định tạm giữ có
thể gia hạn tạm giữ nhưng khơng q 03 ngày.

5


- Trường hợp đặc biệt như các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, một số vụ án
hình sự có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã ra
hạn lần thứ nhất nhưng vẫn chưa làm rõ sự việc thì người ra lệnh tạm giữ có thể
gia hạn lần thứ hai và không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ
sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn.
Trong khi tạm giữ, nếu khơng đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạ giam.
Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
II. Một số hạn chế về quy định tạm giữ trong tố tụng hình sự và kiến nghị
hoàn thiện
BLTTHS năm 2015 đã quy định tương đối chi tiết về biện pháp ngăn chặn tạm
giữ, cụ thể là các quy định liên quan đến các trường hợp hay nói cách khác là các
căn cứ tạm giữ; Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ ;Thủ tục tạm giữ; Thời hạn tạm
giữ,... Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật trong
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo đảm
quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên các quy định
của BLTTHS năm 2015 về biện pháp tạm giữ còn tồn tại một số hạn chế, bất cập
đồng thời việc áp dụng và thi hành vẫn cịn nhiều khó khăn cần phải được khắc

phục, hoàn thiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, chưa quy định hết những đối tượng tạm giữ 
6


Theo quy định tại Khoản 1 Điều 117 BLTTHS 2015 quy định thì tạm giữ có
thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Người phạm tội tự thú, đầu
thú khơng phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo
hành vi phạm tội. Vì vậy, việc khoản 1 Điều 117 quy định “Tạm giữ có thể áp
dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định
truy nã”. Vơ hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt,
điều này là khơng hợp lý. Vì vây, cần quy định các đối tượng áp dụng biện pháp
tạm giữ tại Khoản 1 Điều 117 rõ ràng, tách bạch để đảm bảo người tự thú sẽ
được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Thứ hai, về thẩm quyền tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 117 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người
quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 110 quy định về thẩm quyền ra lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp như sau: 
“a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đồn và tương đương, Đồn trưởng Đồn
biên phịng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đợi
biên phịng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên
phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ
đội biên phịng, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phịng, chống ma túy và tội phạm
Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục
Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đồn đặc nhiệm
phịng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng;


7


c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng.”.
Quy định này cho thấy, những chủ thể được quy định tại điểm a và điểm b là
những chủ thể thuộc cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, việc pháp luật cho phép các chủ thể ở điểm c
khoản 2 Điều 110 như: “c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển
đã rời khỏi sân bay, bến cảng” được quyền ra lệnh tạm giữ là không hợp lý vì:
- Các chủ thể này khơng thuộc những chủ thể được giao nhiệm vụ tiến hành các
hoạt động điều tra theo Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.
- Nếu như BLTTHS năm 2015 đặc cách cho các chủ thể này có quyền ra lệnh
tạm giữ thì những chủ thể này ra lệnh tạm giữ trong trường hợp nào? Bởi vì, theo
quy định tại Điều 117 thì khi rơi vào những trường hợp sau mới được giữ người
đó là “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.”
Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì tại khoản 4 Điều 110 quy
định: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại
điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan
đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân
bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về.”. Nếu những chủ thể tại điểm c khoản 2
phải giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngay sau khi cập bến thì khơng
thể ra quyết định tạm giữ được.
Nếu như chủ thể tại điểm c khoản 2 Điều 110 có quyền ra lệnh giữ người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hay người bị bắt theo quyết định truy nã
thì lại mâu thuẫn với Điều 111 và Điều 112. Cụ thể, khoản 1 Điều 111 quy
định: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
8



phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và
giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân
dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay
người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.”.
Cịn tại khoản 1 Điều 112 quy định: “Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ
người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an,
Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên
bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền.”. Như vậy, công việc đầu tiên khi bắt người đang bị truy nã hoặc
phạm tội quả tang là giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát
hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất chứ không quy định được phép tạm giữ trong
trường hợp này. Còn đối với trường hợp người phạm tội tự thú hoặc đầu thú với
những chủ thể quy định tại điểm c khoản 2 cũng không phải là những cơ quan, tổ
chức để người phạm tội đến tự nguyện khai báo hành vi của mình. Nên quy định
tất cả những chủ thể tại điểm c khoản 2 Điều 110 được quyền ra lệnh tạm giữ là
không hợp lý.
Kiến nghị nên sửa đổi lại quy định ở khoản 2 Điều 117 như sau: “Những
người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2
Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Thứ ba, hiện nay BLTTHS không quy định việc khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định trả tự do cho người bị giữ thì có cần phải gửi lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, quyết định trả tự do và những tài liệu có liên
quan cho Viện Kiểm sát hay không?
Điều này gây ra nhiều cách hiểu khác nhau và lúng túng trong áp dụng pháp
luật. Kiến nghị cần bổ sung quy định gửi hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc trả
tự do cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cho Viện kiểm sát. Bởi lẽ, việc
9



bổ sung quy định này sẽ đảm bảo sự thống nhất về nhận thức và thực tiễn áp
dụng. Đồng thời, việc làm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Viện kiểm sát thực
hiện chức năng “kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người”, vừa đảm bảo sự nhất quán
giữa các quy định của BLTTHS năm 2015 về chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong quá trình tố tụng, vừa đảm bảo sự khách quan, hợp lý, có căn cứ
khi áp dụng biện pháp này. Đồng thời, qua đó góp phần đảm bảo các giá trị về
quyền con người, quyền cơng dân trong q trình tố tụng hình sự.
Thứ tư, nhận thức, trình độ của các cơ quan, đơn vị và những cá nhân có
trách nhiệm, quyền hạn ra quyết định tạm giữ cịn nhiều hạn chế
Người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữu phải nghiên cứu và nắm vững
các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đối tượng, phạm vi, nội dung
và các phương thức kiểm sát được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân; Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình
sự, Quy chế nghiệp vụ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Trước
hết phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam. Đây là hoạt động nhằm đảm bảo việc tạm giữ theo đúng quy định của pháp
luật; chế độ tạm giữ được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; tính mạng, tài
sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của
họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Vận dụng linh hoạt các phương
thức kiểm sát gắn với hoạt động thực tế ở từng đơn vị để nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát, đảm bảo kiểm sát tồn diện, có trọng tâm, phát hiện kịp thời
các vi phạm và có biện pháp xử lý hiệu quả. Cần tăng cường những bài kiểm tra
về năng lực chun mơn định kì và đột xuất
Thứ năm, việc theo dõi, quản lý người bị tạm giữ chưa chặt chẽ, còn lỏng lẻo
dẫn đến một số trường hợp bỏ trốn

10



Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần bố trí đủ số lượng biên chế cho công tác
kiểm sát việc tạm giữ tăng cường Kiểm sát viên, cán bộ có năng lực để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó chú trọng quan
tâm đến số lượng, chất lượng cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ.
Đồng thời ăng cường công tác tuần tra, canh gác, kiểm tra và giám sát khu vực
giam giữ; đảm bảo quản lý chặt chẽ không để người bị tạm giữ có điều kiện tự
sát, trốn khỏi nơi tạm giữ.
C.KẾT LUẬN
Các quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự là cơ sở pháp lí cần thiết cho
hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm. Song để áp dụng đúng đắn, đầy đủ và
thống nhất các quy định này, các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát các văn bản
hướng dẫn hiện hành, loại bỏ các văn bản cịn chồng chéo hoặc khơng cịn phù
hợp. Đồng thời ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn các vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn áp dụng luật. Để nâng cao hiệu quả các biện pháp tạm giữ ngồi việc
khơng ngừng hồn thiện các quy định của pháp luật,các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng cần phải kịp thời và tuân thủ triệt để các
quy định của pháp luật tránh việc sử dụng các biện pháp này như một phương
tiện hữu hiệu để chứng minh tội phạm và xác định sự thật của vụ án. Cần phải
xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm cơng tác tạm giữ có đủ trình độ, năng lực
và phẩm chất cần thiết đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.

11


D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015-Nxb Tư pháp
2. Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015
3. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015
4. Vũ Minh Phương, “Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí An ninh

nhân dân, số 98 (7/2020), Tr.97-99.

12



×