Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng xuất nhập khẩu việt nam thực trạng và các giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 108 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***






























KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG
XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM – THỰC TRẠNG
VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN




Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thu Trang
Lớp : Nhật 2
Khóa : 42G – KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : PGS.TS Nguyễn Thị Quy
















Hà Nội - 11/2007
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG 3
I. BẢO LÃNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 3
1. KHÁI NIỆM VỀ BẢO LÃNH VÀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 3
1.1 KHÁI NIỆM BẢO LÃNH 4
1.2 KHÁI NIỆM BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 5
2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 8
3. CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 11
3.1 CHỨC NĂNG PHÒNG NGỪA RỦI RO 11
3.2 CHỨC NĂNG ĐẢM BẢO PHÁP LÝ 12
3.3 CHỨC NĂNG THÚC ĐẨY 12
3.4 CHỨC NĂNG TÀI TRỢ 13
II. PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 14
1. THEO MỐI QUAN HỆ GIAO DỊCH 14
2. THEO TÍNH CHẤT BẢO ĐẢM 18
3. THEO TÍNH HIỆU LỰC CỦA BẢO LÃNH 19
4. THEO TÍNH CHẤT CHUYỂN NHƢỢNG 20
5. THEO ĐỐI TƢỢNG BẢO LÃNH 20
6. CÁC LOẠI BẢO LÃNH KHÁC 25
III. NỘI DUNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 28
1. CÁC NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH 28

1.1 NGUỒN LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO LÃNH 28
1.2 NGUỒN LUẬT QUỐC GIA 29
2. NỘI DUNG CỦA BẢO LÃNH 30
2.1 HÌNH THỨC PHÁT HÀNH BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 30
2.2 NỘI DUNG CỦA THƢ BẢO LÃNH 31
IV. VAI TRÒ CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 35
1. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG 35
2. ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 37
3. ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 38
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG
XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM (EXIMBANK) 40
I. TỔNG QUAN VỀ EXIMBANK 40
1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA EXIMBANK 40
2.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 42
2.1.1 TỔNG NGUỒN VỐN KINH DOANH VÀ VỐN HUY ĐỘNG 42
2.1.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 43
2.2. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐỐI NGOẠI 45
2.3. CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC 47
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP
KHẨU EXIMBANK 48
1. QUY CHẾ BẢO LÃNH CỦA EXIMBANK 48
1.1 ĐỐI TƢỢNG BẢO LÃNH 48
1.2 CÁC HÌNH THỨC BẢO LÃNH 49
1.3 ĐIỀU KIỆN BẢO LÃNH 49
1.4 BẢO ĐẢM CHO BẢO LÃNH 51
1.5 LỆ PHÍ BẢO LÃNH 51
1.6 THỜI HẠN BẢO LÃNH 53

1.7 ĐỒNG TIỀN SỬ DỤNG TRONG BẢO LÃNH 53
1.8 PHẠM VI BẢO LÃNH 53
1.9 THẨM QUYỀN KÝ BẢO LÃNH 54
1.10 QUỸ BẢO LÃNH 54
1.11 TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BÊN THAM GIA BẢO LÃNH 55
1.12 QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CHO DOANH NGHIỆP 57
2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG XUẤT
NHẬP KHẨU TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA 67
2.1 QUY MÔ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH 67
2.2 CƠ CẤU HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH 70
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 72
3.1 NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC 72
3.2 NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN 74
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT
NAM 81
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI EXIMBANK
TRONG THỜI GIAN TỚI 81
1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI EXIMBANK 81
2. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI
EXIMBANK TRONG THỜI GIAN TỚI 83
II. NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO
LÃNH TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM 84
1. HOÀN THIỆN VỀ LUẬT VÀ QUY TẮC ÁP DỤNG 85
2. ỨNG DỤNG CHÍNH SÁCH MARKETING VÀO NGHIỆP VỤ BẢO
LÃNH HỢP LÝ VÀ HIỆU QUẢ 85

3. NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CÁC YÊU CẦU
BẢO LÃNH 92
4. HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
BẢO LÃNH. 94
5. TĂNG CƢỜNG QUỸ NGOẠI TỆ TẠO ĐIỀU KIỆN BẢO LÃNH VỚI
NƢỚC NGOÀI 95
6. TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT 96
7. NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 96
8. TIẾP TỤC HIỆN ĐẠI HOÁ NGÂN HÀNG 97
III. KIẾN NGHỊ 97
1. ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC 97
2. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 99
3. ĐỐI VỚI EXIMBANK-NGÂN HÀNG BẢO LÃNH 100
4. ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP-NGƢỜI ĐƢỢC BẢO LÃNH 100
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

1
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, số lƣợng các ngân hàng thƣơng mại cổ phần của Việt Nam đã khá
nhiều, hơn 30 ngân hàng. Tuy nhiên, quy mô về vốn và hoạt động vẫn còn nhỏ bé,
do đó hạn chế khả năng mở rộng mạng lƣới trong nƣớc và quốc tế, đầu tƣ phát triển
công nghệ ngân hàng hiện đại để đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng nhƣ mở rộng
đối tƣợng khách hàng. Các ngân hàng trong nƣớc vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ
huy động và cho vay truyền thống, chất lƣợng dịch vụ chƣa cao. Trong khi đó,
trƣớc sự tham gia thị trƣờng ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nƣớc ngoài,
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng, các ngân hàng trong nƣớc
sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lƣới

các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Ngoài ra, mở cửa thị trƣờng tài
chính ngân hàng không chỉ buộc các ngân hàng trong nƣớc cạnh tranh thị trƣờng
với các ngân hàng nƣớc ngoài mà còn phải cạnh tranh thị trƣờng với các định chế
tài chính phi ngân hàng. Nhiều quỹ đầu tƣ, công ty bảo hiểm, công ty tài chính nƣớc
ngoài đang nghiên cứu thị trƣờng Việt Nam, một thị trƣờng đƣợc đánh giá là rất
nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trƣởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung
cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức này sẽ cạnh
tranh thị trƣờng mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn cũng nhƣ đầu
tƣ. Những thách thức trên đòi hỏi hệ thống ngân hàng thƣơng mại phải không
ngừng phát triển và đổi mới theo hƣớng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có và tiếp cận,
ứng dụng các dịch vụ mới.
Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời là một đòi hỏi khách quan của tiến trình phát triển
nền kinh tế hàng hoá gắn liền sự đa dạng và phức tạp của các quan hệ kinh tế. Bảo
lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ đƣợc các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam thực
hiện trong hơn chục năm gần đây, nó đã góp phần đa dạng hoá các dịch vụ ngân
hàng, thoả mãn nhu cầu của các doanh nghiệp muốn phòng ngừa rủi ro trong giao
dịch và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ thƣơng mại. Trong
điều kiện toàn cầu hoá và sự phát triển nhanh chóng của thƣơng mại quốc tế, nhu
cầu bảo lãnh của nền kinh tế là rất lớn trong khi khả năng đáp ứng của hệ thống
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

2
ngân hàng còn nhỏ bé, quá trình thực hiện gặp nhiều vƣớng mắc, gây ra nhiều tổn
thất cho ngân hàng. Những lý do trên đã dẫn đến việc vận dụng các nghiệp vụ bảo
lãnh còn ở mức hạn chế so với những đòi hỏi bức bách của nền kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Eximbank) đã thực hiện hoạt động bảo lãnh
đƣợc nhiều năm nhƣng so với các nghiệp vụ khác nhƣ nghiệp vụ tín dụng và kinh tế
đối ngoại thì bảo lãnh vẫn còn khá mới mẻ với quy mô hạn chế, chỉ chiếm một tỷ
trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu hoạt động kinh doanh của ngân hàng, điều đó

cho thấy hoạt động bảo lãnh ngân hàng thƣơng mại chƣa thực sự đƣợc mở rộng và
phát triển tƣơng xứng với tiềm năng của ngân hàng cũng nhƣ chƣa đáp ứng đƣợc
nhu cầu bảo lãnh ngày càng đa dạng của nền kinh tế trong thời mở cửa và hội nhập.
Mục tiêu và định hƣớng của ngành ngân hàng nói chung và của Eximbank
nói riêng là phát triển nghiệp vụ này cho xứng với vị trí và tiềm năng của nó.
Chính vì những nhu cầu cấp thiết và thời đại nhƣ vậy mà em xin đƣợc thực
hiện đề tài “Hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – thực
trạng và các giải pháp hoàn thiện”. Nội dung của khoá luận ngoài lời nói đầu và kết
luận, đƣợc chia thành 3 Chƣơng:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Eximbank Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng
Eximbank Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn PGS-TS Nguyễn Thị Quy đã tận tình chỉ bảo em
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn tất cả
các thầy cô giáo trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng đã nhiệt tình giảng dạy và dìu dắt
em trong những năm trên giảng đƣờng đại học.
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

3
CHƢƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG
I. BẢO LÃNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay thì hoạt động thƣơng mại đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, phục vụ cho nhu cầu ngày càng lớn của xã hội về các loại hàng
hoá, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Hàng loạt các tổ chức đƣợc thành lập, các
hiệp định thƣơng mại đƣợc ký kết nhằm thúc đẩy sự giao lƣu kinh tế, hoạt động

thƣơng mại phát triển. Các hàng rào thƣơng mại đƣợc dỡ bỏ và dự đoán thƣơng mại
quốc tế sẽ còn phát triển nhanh và mạnh hơn nữa. Tuy nhiên, điều này cũng ẩn chứa
rất nhiều rủi ro cho cac doanh nghiệp khi tham gia vào thƣơng mại quốc tế do
những biến động bất thƣờng về chính trị-kinh tế-xã hội trên toàn cầu. Khi thƣơng
mại mở rộng không biên giới thì cũng kéo theo những rủi ro về thông tin không đầy
đủ, làm xuất hiện sự thiếu tín nhiệm, thiếu tin cậy giữa các doanh nghiệp. Đây là
một cản trở rất lớn cho hoạt động thƣơng mại, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy rất cần có một sự đảm bảo để các giao dịch
thƣơng mại đƣợc diễn ra an toàn, tăng độ tin cậy giữa các đối tác kinh doanh.
Bên cạnh đó, khi kinh tế phát triển, cạnh tranh diễn ra quyết liệt thì nhu cầu
vốn tín dụng cũng tăng lên không ngừng. Hoạt động tín dụng là một công cụ cung
cấp phần lớn nhu cầu về vốn cho các quốc gia và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi đó thì hoạt động này cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do thông tin
không cân xứng, rủi ro về đạo đức, kinh tế-chính trị-xã hội. Để hạn chế những rủi ro
trên và giành thắng lợi trên thƣơng trƣờng sẽ đòi hỏi các doanh nghiệp phải mất rất
nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu đối tác, mà đôi khi điều này vƣợt ra ngoài
khả năng của một doanh nghiệp.
Do nhu cầu cần có đảm bảo trong giao dịch đã làm xuất hiện một loại giao
dịch mới, đó là giao dịch đảm bảo, dựa vào sự đảm bảo của một bên thứ ba có uy
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

4
tín, tín nhiệm , có khả năng và tƣ cách để đảm bảo cho các quan hệ. Đó chính là
hoạt động bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh sơ khai đã có từ rất sớm vào thời kỳ Trung cổ Hy lạp
trong những giao dịch thƣơng mại nhỏ lẻ. Nhƣng phải đến những năm 60 của thế kỷ
XX, bảo lãnh thƣ mới đƣợc áp dụng ở thị trƣờng Hoa Kỳ. Sau đó, vào đầu những
năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh bắt đầu đƣợc sử dụng trong các thƣơng mại quốc tế.
Vào thời gian này, các quốc gia mau chóng thịnh vƣợng nhờ sản xuất dầu lửa ở

Trung Đông, liên tục ký những hợp đồng kinh tế lớn với các nƣớc phƣơng Tây để
thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dự án canh tân nông nghiệp, quốc
phòng… Giá trị rất lớn của các hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các quốc gia
Trung Đông đã cho phép họ phải có một sự đảm bảo chắc chắn về phía đối tác khi
tham gia vào các thƣơng vụ giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do ngân hàng của
các nƣớc phƣơng Tây phát hành đã thực sự đáp ứng đƣợc yêu cầu về sự thuận lợi và
an toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Kể từ đó tới nay, với khả năng cung ứng rộng
rãi trong các giao dịch, vị trí của bảo lãnh ngân hàng ngày càng đƣợc củng cố một
các chắc chắn.
Tại Việt Nam sau năm 1990, hệ thống ngân hàng đã đƣợc đổi mới đáng kể
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng có sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc. Bắt đầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, hệ
thống ngân hàng cũng không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần
quan trọng trong việc tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc, trong đó nghiệp vụ bảo lãnh và
tái bảo lãnh đƣợc phát triển nhƣ là một tất yếu khách quan. Doanh số bảo lãnh ngày
càng tăng cho thấy tiềm năng lớn của loại hình dịch vụ này ở nƣớc ta.
1.1 Khái niệm bảo lãnh
Phƣơng thức bảo lãnh là bất cứ một sự bảo lãnh, một sự cam kết hay bất cứ
một sự cam kết thanh toán nào của trung gian tài chính hoặc của pháp nhân hay thể
nhân bằng văn bản là sẽ bồi thƣờng một số tiền nhất định, nếu đến hạn mà ngƣời
đƣợc bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ nhƣ quy định trên thƣ bảo lãnh
Theo luật Dân sự Việt Nam điều 336, khái niệm bảo lãnh đƣợc xác định
“Bảo lãnh là việc ngƣời thứ ba (gọi là ngƣời bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

5
(gọi là ngƣời nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là
ngƣời đƣợc bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà ngƣời đƣợc bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng chính là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng (bên đƣợc bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận
nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã đƣợc trả thay.
Cam kết bảo lãnh: Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:
- Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phƣơng bằng văn bản của tổ chức tín dụng
về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh: Là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và
bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và
các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn đƣợc xem nhƣ tấm
Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này
không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của doanh nghiệp mà các đối tác kinh
doanh cũng sẽ có cơ sở để tin tƣởng doanh nghiệp hơn.
Vì là một nghiệp vụ mới nên hiện có rất nhiều tranh cãi về đặc điểm của loại
hình dịch vụ này. Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) mang tính phái sinh. Vấn đề đƣợc đặt ra là quan hệ bảo
lãnh có phải là quan hệ hợp đồng hay chỉ là cam kết đơn phƣơng? Hợp đồng bảo lãnh
ngân hàng đƣợc ký kết giữa những chủ thể nào? Trong trƣờng hợp phát sinh tranh chấp
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo lãnh thì cơ quan tài phán có thể xem xét một cách
độc lập với quan hệ phát sinh nghĩa vụ đƣợc bảo lãnh hay không?
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42


6
Bộ luật dân sự của các nƣớc đều xác định các bên có thể thoả thuận về việc
ngƣời bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi ngƣời đƣợc bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Với nội dung quy định nhƣ vậy, Bộ luật dân sự
đã thể hiện rõ là quan hệ bảo lãnh phát sinh trên cơ sở thoả thuận từ việc đƣa ra cam
kết của ngƣời bảo lãnh. Sự thoả thuận giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (bên
chấp nhận hành vi bảo lãnh của bên bảo lãnh) là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan
hệ bảo lãnh. Vì vậy về bản chất pháp lý thì đó là văn bản dự thảo hợp đồng và nếu
không đƣợc bên nhận bảo lãnh chấp nhận thì quan hệ bảo lãnh không đƣợc thiết lập.
Việc xác định đúng bản chất pháp lý của bảo lãnh là cơ sở để phân định cơ
cấu chủ thể của nó. Dựa trên các biểu hiện bên ngoài, việc bảo lãnh có ba bên, bao
gồm bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên đƣợc bảo lãnh; nhƣng về mặt pháp lý,
quan hệ bảo lãnh chỉ đòi hỏi bắt buộc hai bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Theo quy định thì cam kết bảo lãnh đƣợc đƣa ra và chấp nhận giữa hai bên là
“ngƣời thứ ba” (ngƣời bảo lãnh) và “bên có quyền” (ngƣời nhận bảo lãnh). Còn việc
thực hiện nghĩa vụ của bên đƣợc bảo lãnh đƣợc quy định nhƣ sau: khi ngƣời bảo
lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu ngƣời đƣợc bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh, nếu không có thoả thuận khác.
Theo quan điểm pháp luật của nhiều nƣớc, thì Ngân hàng đƣợc phép sử dụng uy tín
và khả năng tài chính của mình để đảm bảo cho ngƣời nhận bảo lãnh.
Với các quy định trên đây, bên đƣợc bảo lãnh là bên thụ hƣởng lợi ích từ hợp
đồng bảo lãnh mà không phải là bên đóng vai trò thiết lập hợp đồng bảo lãnh là bên
bắt buộc ký kết hợp đồng bảo lãnh. Về mặt nguyên tắc, các bên có thể ký kết hợp
đồng bảo lãnh gồm 3 bên, là bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên đƣợc bảo lãnh.
Tuy nhiên, do bên nhận bảo lãnh và bên đƣợc bảo lãnh không phải là các chủ thể
thuộc cấu trúc chủ thể của hợp đồng bảo lãnh, nên họ không có các quyền và nghĩa
vụ tƣơng ứng nhƣ quan hệ giữa ngƣời bảo lãnh và ngƣời nhận bảo lãnh. Trong
trƣờng hợp bên nhận bảo lãnh và bên đƣợc bảo lãnh thƣa kiện lẫn nhau, thì tƣ cách
của họ không phải là tƣ cách của các bên ký kết hợp đồng bảo lãnh, mà là tƣ cách
của chủ thể quan hệ hợp đồng có nghĩa vụ của ngƣời đƣợc bảo lãnh đƣợc đảm bảo

bằng biện pháp bảo lãnh.
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

7
Khi ngân hàng thực hiện bảo lãnh thì các quan hệ sau đây phát sinh:
- Thứ nhất, quan hệ giữa ngân hàng với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh).
- Thứ hai, quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
(bên có nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh) phát sinh do thoả thuận giữa các bên trong
việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay khách hàng và nghĩa vụ hoàn trả
của khách hàng với tổ chức tín dụng.

Nhƣ vậy, căn cứ vào cấu trúc chủ thể ký kết và thực hiện hợp đồng trong
hoạt động bảo lãnh ngân hàng theo quy định của pháp luật, sẽ tồn tại 2 loại quan hệ
hợp đồng, là quan hệ hợp đồng bảo lãnh ngân hàng và quan hệ hợp đồng dịch vụ
bảo lãnh ngân hàng. Việc phân định rõ hai loại quan hệ tồn tại song song này có ý
nghĩa quan trọng trong việc hiểu rõ về bản chất cũng nhƣ đặc điểm của hoạt động
bảo lãnh ngân hàng.
Nếu căn cứ vào loại chủ thể và mục đích tham gia ký kết hợp đồng bảo lãnh
và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế, các quy định của Bộ luật dân sự thì hợp đồng bảo lãnh ngân hàng và hợp
đồng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng có thể là hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự.
Tuy các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự,
nhƣng pháp luật có các quy định mang tính phân biệt giữa hợp đồng kinh tế và hợp
đồng dân sự. Bởi vậy, nếu xác định tất cả các hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ (trong đó
có hợp đồng bảo lãnh ngân hàng) là hợp đồng dân sự sẽ không phù hợp với pháp
luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật về hợp đồng dân sự. Ví dụ, nếu xem là hợp
đồng dân sự thì sẽ không phù hợp với pháp luật hợp đồng kinh tế đối với trƣờng
hợp tổ chức tín dụng ký hợp đồng bảo lãnh với doanh nghiệp (bên nhận bảo lãnh)
để công ty cổ phần (bên đƣợc bảo lãnh) dự thầu. Căn cứ vào Pháp lệnh hợp đồng

Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

8
kinh tế thì cả hợp đồng bảo lãnh ngân hàng và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng
đều thoả mãn điều kiện của hợp đồng kinh tế, vì các bản hợp đồng trên đều đƣợc ký
kết giữa các chủ thể kinh doanh, đều thoả mãn điều kiện là phải có một bên tham
gia ký kết hợp đồng đủ tƣ cách pháp nhân và đều nhằm mục đích kinh doanh.
Bên cạnh đó, mặc dù cùng mang tính phái sinh và phụ thuộc vào hợp đồng
đƣợc bảo đảm (hợp đồng chính), nhƣng do hợp đồng bảo lãnh ngân hàng và hợp
đồng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng có cơ cấu chủ thể mà các quyền, nghĩa vụ tƣơng
ứng mang tính độc lập, nên nếu xem tất cả các quan hệ từ các hợp đồng này phụ
thuộc vào hợp đồng chính sẽ không hợp lý. Chẳng hạn, nếu có tranh chấp phát sinh
giữa tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh đƣợc xem là tranh chấp mang tính phái
sinh, thì rõ ràng tổ chức tín dụng hoặc bên nhận bảo lãnh không thực hiện đƣợc
quyền khởi kiện một cách độc lập. Mặt khác, nếu các bên tham gia hợp đồng bảo
lãnh ngân hàng hoặc hợp đồng dịch vụ bảo lãnh ngân hàng không có quyền khởi
kiện độc lập và toà án không xem xét tranh chấp một cách độc lập với hợp đồng
chính, thì vấn đề đặt ra là họ tham gia tố tụng với tƣ cách gì? Nếu xem họ là đồng
nguyên đơn, đồng bị đơn hoặc chỉ với tƣ cách là ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan
thì trong nhiều trƣờng hợp họ không thể chủ động thực hiện các hành vi trong tố
tụng nhƣ khởi kiện, tham gia phiên toà, kháng cáo để bảo vệ quyền lợi của mình.
Chẳng hạn, tổ chức tín dụng và bên đƣợc bảo lãnh tranh chấp về việc thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả thì rõ ràng tranh chấp này có tính độc lập về quyền, nghĩa vụ với
hợp đồng chính nên có thể giải quyết một cách độc lập.
Chính vì những tranh cãi nhƣ vậy mà đòi hỏi cần phải có nghiên cứu cụ thể
về loại hình dịch vụ mới này để có thể giải quyết đƣợc các tranh chấp phát sinh,
thúc đẩy dịch vụ bảo lãnh phát triển, phát huy vai trò to lớn của chúng trong việc
tăng tốc độ luân chuyển các nguồn vốn đầu tƣ.
2. Đặc điểm cơ bản của bảo lãnh ngân hàng

2.1 Tính chất độc lập
Mặc dù nội dung của bảo lãnh đƣợc xây dựng trên cơ sở nội dung của hợp
đồng thƣơng mại, hợp đồng vay vốn hay hợp đồng đấu thầu nhƣng đặc trƣng nổi bật
của bảo lãnh đó là nó độc lập và tách biệt với các quan hệ thƣơng mại và vay nợ.
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

9
Điều này có nghĩa là thƣ bảo lãnh độc lập và tách rời khỏi cơ sở hình thành ra nó.
Trong bất kỳ một bảo lãnh nào cũng tồn tại ít nhất ba mối quan hệ của ba hợp đồng,
và tính chất độc lập của của nó đƣợc thể hiện rõ nét trong từng mối quan hệ giữa
các bên liên quan.
Thứ nhất là quan hệ giữa ngƣời đƣợc bảo lãnh và ngƣời nhận bảo lãnh
(ngƣời thụ hƣởng) trong hợp đồng thƣơng mại, hợp đồng vay nợ hay đấu thầu. Đây
là hợp đồng đóng vai trò cốt yếu và là cơ sở cho việc xây dựng hai hợp đồng còn lại.
Thứ hai là quan hệ giữa ngƣời đƣợc bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo
lãnh trong hợp đồng cung cấp dịch vụ hay tài trợ giữa khách hàng và ngân hàng.
Thứ ba là quan hệ giữa ngƣời thụ hƣởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh
thể hiện qua cam kết bảo lãnh của ngân hàng đối với khách hàng của mình (ngƣời
đƣợc bảo lãnh).
Nhƣ vậy các hợp đồng đƣợc hình thành xuất phát từ những mối quan hệ giữa
các đối tƣợng riêng biệt, đồng thời do đƣợc chi phối bởi các mục đích khác nhau
nên tính pháp lý cũng nhƣ quyền lợi của các bên liên quan hoàn toàn mang tính độc
lập. Mặc dù giữa các hợp đồng đều có sự ràng buộc theo quan hệ liên đới, mỗi hợp
đồng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, song ngân hàng với vai trò là
ngƣời cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán sẽ phải thự hiện nghiệp vụ bảo lãnh
của mình trên cơ sở độc lập về quyền và nghĩa vụ riêng biệt trong hai hợp đồng.
Tuy nhiên tính độc lập của bảo lãnh không chỉ giới hạn ở quan hệ giữa các
bên liên quan mà còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát
hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với quan hệ giữa ngân hàng phát hành và

ngƣời đƣợc bảo lãnh. Mặc dù, mục đích của bảo lãnh là nhằm bồi hoàn cho Ngƣời
thụ hƣởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng đó. Nhƣng việc thanh
toán hoàn toàn chỉ căn cứ vào các điều khoản và điều kiện đã đƣợc quy định ở trong
bảo lãnh. Do vậy, Những vấn đề nảy sinh giữa các bên trong hợp đồng thƣơng mại
nhƣ các tranh chấp hợp đồng, hay các quyền kháng nghị từ hợp đồng đều không hề
ảnh hƣởng đến mối quan hệ giữa ngân hàng và bên ngƣời thụ hƣởng. Giữa ngân
hàng và bên thụ hƣởng chỉ có mối ràng buộc ở các điều kiện bảo lãnh. Một khi điều
kiện bảo lãnh của ngân hàng đƣợc tuân thủ thì ngân hàng phát hành không thể vì bất
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

10
kỳ một lý do nào đó nhƣ: ràng buộc giữa Ngƣời đƣợc bảo lãnh và ngân hàng phát
hành không chặt chẽ, Ngƣời đƣợc bảo lãnh bị phá sản, Ngƣời đƣợc bảo lãnh vẫn
còn nợ ngân hàng phát hành, Ngƣời đƣợc bảo lãnh và Ngƣời thụ hƣởng đang tranh
cãi về hình thức vi phạm và mức độ thiệt hại…mà từ chối hay cố tình trì hoãn việc
thanh toán. Trách nhiệm này đòi hỏi ngân hàng phải thực sự thận trọng và cân nhắc
kỹ trƣớc khi đƣa ra quyết định cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho một khách hàng nào
đó. Đồng thời cũng vì lý do này mà ngƣời đƣợc bảo lãnh để đƣợc ngân hàng bảo
lãnh cần tuân thủ chặt chẽ các cam kết của mình với bên yêu cầu bảo lãnh và với
ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng sau khi xem xét, kiểm tra các chứng từ cần thiết sẽ
phải thanh toán rồi mới đòi bồi hoàn từ ngƣời đƣợc bảo lãnh.
Tuy nhiên, tuỳ từng hình thức bảo lãnh mà đặc trƣng này đƣợc thể hiện rõ
nét hay không. Nếu điều kiện đòi tiền là do chính ngƣời thụ hƣởng lập và ghi
“Tuyên bố vi phạm”(Statement of default), thì tính chất độc lập ở đây là gần nhƣ
tuyệt đối. Ngƣợc lại, nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ từ phía bên thứ ba
nhƣ chứng thực của một cơ quan độc lập về sự vi phạm của ngƣời đƣợc bảo lãnh,
quyết định của trọng tài, thậm chí phán quyết của toà án hay văn bản của ngƣời
đƣợc bảo lãnh thì tính độc lập của nghiệp vụ bảo lãnh cũng đã ít nhiều bị điều chỉnh.
2.2.Bảo lãnh là một hoạt động ngoại bảng

Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại được quản lý
như một nghiệp vụ tín dụng
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi phát hành
một cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay đổi. Do
vậy, nghiệp vụ bảo lãnh đƣợc coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, trong
trƣờng hợp bên đƣợc bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo các điều khoản đƣợc nghi
trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu bên đƣợc bảo lãnh chƣa
hoàn trả ngay cho ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng bắt buộc cho
bên đƣợc bảo lãnh. Khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản
của ngân hàng, ảnh hƣởng đến khả năng thanh khoản và các chỉ tiêu tài chính của
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

11
ngân hàng. Bởi vây, tuy là một hoạt động ngoại bảng, bảo lãnh vẫn phải đƣợc giám
sát và quản lý một cách chặt chẽ nhƣ các hình thức cấp tín dụng khác.
2.3 Tính chất nội địa và quốc tế
So với nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ trong thập niên 30, hoạt động
bảo lãnh chỉ mới đƣợc áp dụng từ giữa những năm 60 bắt đầu từ thị trƣờng nội địa
của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, từ năm 1970, bảo lãnh đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong giao
dịch quốc tế nhƣ là một công cụ đảm bảo hữu hiệu góp phần thúc đẩy mậu dịch
giữa các nƣớc. Các đối tác làm ăn ở các quốc gia khác nhau thƣờng sử dụng nghiệp
vụ bảo lãnh của ngân hàng nhƣ là một hình thức đảm bảo, hạn chế các ruỉu ro
thƣờng gặp do sự thiếu thông tin, sự khác biệt về không gian, văn hoá, tôn giáo hay
do những biến động về môi trƣờng chính trị và xã hội khác nhau. Hàng loạt các quy
chế quốc tế về bảo lãnh nhƣ URCG 325 (1978), URDG 458 (1992) lần lƣợt xuất
hiện, góp phần đảm bảo việc áp dụng thống nhất các tập quán trên trên cơ sở bình
đẳng của các bên liên quan.
Cùng với sự phát triển của bảo lãnh quốc tế thì bảo lãnh cũng ngày càng phổ

biến trong thị trƣờng nội địa vì tính đa dạng của nó. Nếu nhƣ tín dụng thƣ chỉ đƣợc
sử dụng trong lĩnh vực thƣơng mại nhƣ là một phƣơng tiện thanh toán an toàn cho
cả hai phía, thì bảo lãnh thƣ là một công cụ đƣợc sử dụng rất năng động, có thể đáp
ứng các nhu cầu về thƣơng mại và phi thƣơng mại, tài chính và phi tài chính Tại
Việt Nam hiện nay, hoạt động bảo lãnh đã thực sự phát huy lợi thế của mình trong
mạng lƣới giao dịch đang diễn ra trên khắp đất nƣớc. Nghiệp vụ bảo lãnh rất thông
dụng không chỉ trong hoạt động ngân hàng (bảo lãnh trả nợ vay, bảo lãnh rut quá số
dƣ…) mà còn trong các giao dịch ở mọi lĩnh vực khác nhƣ trong lĩnh vực xây dựng
(bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh duy tu), thuế (bảo lãnh trả thuế), hoặc hải quan (bảo
lãnh hàng tạm nhập, tái xuất hay tạm xuất tái nhập)
3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
3.1 Chức năng phòng ngừa rủi ro
Đây là chức năng cơ bản của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Xuất phát từ sự
thiếu tin tƣởng lẫn nhau giữa các đối tác, sự rủi ro do khách quan cũng nhƣ chủ
quan, do đó bảo lãnh ngân hàng có chức năng là công cụ bảo đảm cho các giao dịch
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

12
diến ra.Tuy nhiên chức năng này không hoàn toàn trùng khớp với chức năng phòng
ngừa rủi ro trong hoạt động bảo hiểm. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong mục đích
và hình thức của bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng không bù đắp toàn bộ thiệt hại khi
có rủi ro mà nó chỉ trƣớc hết tạo ra sự đảm bảo tín nhiệm giữa các đối tác trong giao
dịch và cam kết đền bù ở một mức độ cụ thể đƣợc ghi trong thƣ bảo lãnh.
3.2 Chức năng đảm bảo pháp lý
Đây chính là mục tiêu và là chức năng tối quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh,
đó là cung cấp một sự đảm bảo cho ngƣời thụ hƣởng, không chỉ là bảo đảm về
thanh toán mà còn bảo đảm việc thực hiện hợp đồng và nhờ đó đảm bảo sự công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng: trong mối quan hệ dân
sự cũng nhƣ kinh tế, ai không thực hiện nghĩa vụ của mình thì ngƣời đó phải chịu

hậu quả phát sinh. Bảo lãnh tạo lập sự đảm bảo về nghĩa vụ tài chính và phi tài
chính., trong đó nghĩa vụ tài chính đó là ngƣời đi vay phải trả nợ cho ngân hàng
theo hợp đồng tín dụng, ngƣời mua phải trả tiền hàng cho ngƣời bán, chủ công trình
phải trả tiền thi công cho nhà thầu… còn nghĩa vụ phi tài chính đó là ngƣời bán phải
giao hàng theo hợp đồng thƣơng mại cho ngƣời mua hay nghĩa vụ nhà thầu phải
thực hiện đúng tiến độ xây dựng.
Nhƣ vậy có thể nói bảo lãnh ngân hàng thực chất là hình thức đảm bảo pháp
lý trong giao dịch chứ không hoàn toàn chỉ mang chức năng thanh toán. Đặc biệt
các thƣ bảo lãnh dùng trong hợp đồng thi công, hợp đồng bảo hành sản phẩm, dự
thầu công trình… là những thoả thuận không mang tính chất mua bán hay thanh
toán. Với chức năng đảm bảo pháp lý này, bảo lãnh có tác dụng đem lại sự tín
nhiệm cũng nhƣ an tâm cho các nhà cung cấp vốn, nhà tài trợ trong giao dịch với
đối tác.
3.3 Chức năng thúc đẩy
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chỉ đứng ra đảm bảo cho việc thực hiện
nghĩa vụ của các doanh nghiệp, tức là chức năng đảm bảo pháp lý. Và nhƣ vậy, bản
thân các doanh nghiệp sẽ tự mình quyết định cách thức thực hiện các nghĩa vụ đó,
tính toán sao cho có hiệu quả cũng nhƣ phải chịu trách nhiệm trƣớc những hành vi
vi phạm của mình. Điều này đã ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của n gƣời xin
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

13
bảo lãnh, buộc họ và các bên có liên quan phải nỗ lực trong việc thực hiện đúng các
nghĩa vụ theo yêu cầu của hợp đồng. Mặt khác, ngay cả đối với ngƣời đƣợc thụ
hƣởng bảo lãnh, họ sử dụng bảo lãnh chỉ nhƣ là một công cụ để đảm bảo việc thực
hiện hợp đồng của Ngƣời đƣợc bảo lãnh, hạn chế rủi ro nên cho dù họ có quyền
yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh thanh toán khi ngƣời đƣợc bảo lãnh vi phạm
hợp đồng, nhƣng về thực chất trƣớc và sau khi ký kết, ngƣời thụ hƣởng vẫn luôn
mong muốn ngƣời đƣợc bảo lãnh thực hiện đúng theo hợp đồng chứ không trông

chờ vào một khoản bồi hoàn tài chính từ phía ngân hàng phát hành bảo lãnh. Nên
chức năng đảm bảo thực hiện hợp đồng của bảo lãnh thƣờng đƣợc thực hiện hơn
chức năng đảm bảo tài chính.
3.4 Chức năng tài trợ
Chức năng này đƣợc thể hiện rõ nét trong việc cấp bảo lãnh cho ngƣời xin
bảo lãnh. Không phải bất cứ yêu cầu bảo lãnh nào cũng đƣợc ngân hàng chấp nhận,
nó còn phụ thuộc và nhiều điều kiện cụ thể. Do đó bảo lãnh ngân hàng có chức năng
tài trợ gián tiếp để các doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện các giao dịch, đƣợc
nhận các khoản tiền ứng trƣớc, nhận đƣợc các khoản tín dụng hàng hoá và tín dụng
tiền tệ. Bên cạnh đó, do bảo lãnh chủ yếu đƣợc sử dụng trong các hợp đồng thi công
và thậm chí một số hợp đồng buôn bán lớn, có tính phức tạp nhƣ các hợp đồng bảo
lãnh liên quan đến các công trình xây dựng lớn, hay các mua bán vật tƣ, thiết bị sản
xuất theo phƣơng thức trả chậm với các đối tác quốc tế Hầu hết các hợp đồng này
đều đòi hỏi phải có một khoảng thời gian dài mới hoàn tất. Nên Ngƣời đƣợc bảo
lãnh sẽ gặp nhiều rủi ro và gặp nhiều rủi ro về tài chính, cho nên khi một ngân hàng
đứng ra phát hành bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh hoàn tiền ứng trƣớc, bảo lãnh
vay vốn cho Ngƣời đƣợc bảo lãnh đồng nghĩa với việc ngân hàng cung cấp một
công cụ tài trợ, giúp Ngƣời đƣợc bảo lãnh có đƣợc khoản tài trợ ngắn hạn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện rất rõ trong việc thi công công trình
xây dựng, ngƣời thi công sẽ rất khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu nhƣ
phải làm hoàn tất công trình hay từng hạn mục công trình thì mới nhận đƣợc thanh
toán của ngƣời chủ công trình và công ty xây dựng, do vậy ngƣời thi công sẽ đề
nghị chủ công trình và công ty xây dựng ứng trƣớc cho một khoản tiền, ngân hàng
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

14
sẽ phát hành một bảo lãnh đảm bảo hoàn lại khoản tiền đó cho công ty xây dựng và
chủ công trình. Nhƣ vậy ngƣời thi công sẽ đƣợc tài trợ một khoản tài chính nhất
định khi thực hiên bảo lãnh ngân hàng.

Sự tài trợ này cũng có thể đƣợc cung cấp trực tiếp do uy tín và quan hệ lâu
dài của khách hàng với ngân hàng, hoặc do sự chỉ định của chính phủ để doanh
nghiệp có thể thực hiện đƣợc các dự án lớn, phát triển các ngành mũi nhọn trong
toàn bộ cơ cấu nền kinh tế.

II. PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Theo mối quan hệ giao dịch
1.1 Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành cam kết
không huỷ ngang, trực tiếp trả tiền cho ngƣời thụ hƣởng hay nói cách khác chịu mọi
trách nhiệm và nghĩa vụ trực tiếp đối với ngƣời nhận bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp
thƣờng đƣợc ngân hàng ngƣời xin bảo lãnh phát hành. Trong trƣờng hợp ngƣời
nhận bảo lãnh ở một nƣớc khác, bảo lãnh sẽ đƣợc thông báo qua ngân hàng đại lý
tại nƣớc sở tại của ngân hàng phát hành. Ngân hàng này chỉ đóng vai trò là ngân
hàng thông báo và chuyển nội dung thƣ bảo lãnh chứ không đƣợc coi là ngân hàng
thanh toán, không chịu trách nhiệm về nội dung thƣ bảo lãnh và các tranh chấp phát
sinh nếu có sau này.









Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

15

Sơ đồ Bảo lãnh trực tiếp

Trƣờng hợp đặc biệt của phƣơng thức bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh phát
hành trái phiếu. Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ trực tiếp với công ty thực
hiện phát hành trái phiếu nhƣng ngƣời yêu cầu bảo lãnh và ngƣời thụ hƣởng là một.
Ngân hàng và công ty phát hành trái phiếu sẽ ký kết hợp đồng bảo lãnh thanh toán
qua trái phiếu đối với ngƣời mua. Nếu công ty không thu đủ số tiền cần huy động
trong lần phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ bù đắp. Loại hình bảo lãnh này hiện
đang đƣợc sử dụng phổ biến và thông dụng không chỉ trong giao dịch tại thị trƣờng
nội địa mà cả trong giao dịch quốc tế. Tuy nhiên, bảo lãnh trực tiếp dễ gây rủi ro do
khoảng cách xa xôi và thủ tục đòi tiền phức tạp.
1.2 Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là một bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát
hành bảo lãnh theo chỉ thị của một nhân hàng trung gian phục vụ cho ngƣời đƣợc
bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Ngƣời đƣợc bảo lãnh
không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành mà chính ngân
hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn. Cũng tƣơng tự nhƣ bảo lãnh trực tiếp,
ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể thông báo trực tiếp tới ngƣời hƣởng thụ hay
thông qua một ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thứ nhất (hay còn gọi là ngân hàng chỉ dẫn) đồng ý phát hành một
thƣ bảo lãnh theo chỉ thị của ngƣời xin bảo lãnh đến ngân hàng thứ hai thụ hƣởng,
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hƣởng
(Beneficiary)
Bên đƣợc
bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng

Thông báo
(Advising bank)
Thông
báo
(1) Hợp đồng
thƣơng mại
(2) Yêu
cầu phát
hành bảo
lãnh
Bảo lãnh
(3) cam kết
bảo lãnh
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

16
đồng thời chỉ thị cho ngân hàng thứ hai (ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp)
phát hành thƣ bảo lãnh cho ngƣời thụ hƣởng. Quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và
ngân hàng thứ hai cũng tƣơng tự nhƣ quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và ngƣời
đƣợc bảo lãnh. Trong hình thức bảo lãnh này, ngân hàng thứ hai là ngân hàng cam
kết đảm bảo trực tiếp và chịu nghĩa vụ tài chính với ngƣời nhận bảo lãnh. Ngƣời
hƣởng không đƣợc quyền và không phải đòi tiền tại ngân hàng chỉ thị mà là tại ngân
hàng phát hành.
Khi nhận đƣợc đòi tiền, ngân hàng phát hành thanh toán cho ngƣời thụ
hƣởng và thu lại số tiền này từ tài khoản của ngân hàng chỉ thị theo cam kết trong
bảo lãnh đối ứng.
Sơ đồ Bảo lãnh đối ứng









Bảo lãnh đối ứng đƣợc sử dụng chủ yếu trong trƣờng hợp Bên thụ hƣởng là
ngƣời nƣớc ngoài, Ngân hàng phát hành là ngân hàng đại lý của Ngân hàng chỉ thị
tại quốc gia của Bên thụ hƣởng. Bảo lãnh đối ứng cũng đƣợc sử dụng khi Ngân
hàng phát hành là do Bên thụ hƣởng chỉ định, nhƣng lại không có quan hệ với Bên
đƣợc bảo lãnh. Khi đó, Bên đƣợc bảo lãnh có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
phát hành một bảo lãnh đối ứng cho Ngân hàng phát hành.
1.3 Xác nhận bảo lãnh
Sau khi nhận đƣợc thƣ bảo lãnh từ Ngân hàng phát hành, ngân hàng phục vụ
bên thụ hƣởng đóng thêm xác nhận đảm bảo khả năng thanh toán vào thƣ bảo lãnh
trƣớc khi thông báo cho bên thụ hƣởng.
Trong trƣờng hợp Bên đƣợc bảo lãnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết, Ngân
Ngân hàng phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hƣởng
(Beneficiary)
Bên đƣợc bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Thông báo
(Advising bank)
Thông
báo
(1) Hợp đồng
thƣơng mại

Bảo lãnh
(4)Cam kết
bảo lãnh
Ngân hàng chỉ thị
(Instructing bank)
(2) Yêu cầu phát hành
(3) Bảo lãnh đối ứng
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

17
hàng xác nhận sẽ thay mặt Bên thụ hƣởng tiến hành truy đòi đối với Ngân hàng phát
hành và Ngân hàng phát hành sẽ bồi thƣờng cho Bên thụ hƣởng thông qua Ngân
hàng xác nhận. Nếu Ngân hàng phát hành không thực hiện đƣợc nghĩa vụ bảo lãnh
thì Ngân hàng xác nhận phải thực hiện thay và coi đây là một khoản cho vay bắt
buộc đối với Ngân hàng phát hành.
Sơ đồ Xác nhận bảo lãnh

Với xác nhận bảo lãnh, Bên thụ hƣởng sẽ đƣợc đảm bảo chắc chắn hơn bằng
uy tín và khả năng tài chính của hai ngân hàng: Ngân hàng phát hành và Ngân hàng
xác nhận. Xác nhận bảo lãnh chủ yếu áp dụng trong trƣờng hợp Bên thụ hƣởng
thiếu thông tin về Ngân hàng phát hành hoặc khó khăn trong việc trực tiếp thực hiện
quyền truy đòi.
1.4 Đồng bảo lãnh
Đối với một số nghĩa vụ bảo lãnh có giá trị lớn vƣợt quá quy định an toàn vốn
tối thiểu của ngân hàng (15% vốn tự có), các ngân hàng buộc phải hợp tác với nhau
và thực hiện bảo lãnh dƣới hình thức đồng bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh là việc nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của
khách hàng thông qua một ngân hàng làm đầu mối
Trong nghiệp vụ đồng bảo lãnh, ngân hàng đầu mối - thƣờng là ngân hàng có

uy tín và giàu kinh nghiệm - đại diện đứng ra phát hành bảo lãnh và trả phí cho các
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)

Bên thụ hƣởng
(Beneficiary)

Bên đƣợc bảo lãnh
(Principal)

Ngân hàng
Xác nhận
(Confirming bank)
(4) Xác
nhận bảo
lãnh và
thông báo
(1) Hợp đồng
thƣơng mại
(2) Yêu
cầu phát
hành bảo
lãnh
(3) Tƣ bảo
lãnh
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

18

ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ. Nếu phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng
đầu mối sẽ đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ trên
cơ sở các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành cho ngân hàng đầu mối.
Sơ đồ Đồng bảo lãnh

2 Theo tính chất bảo đảm
2.1 Bảo lãnh vô điều kiện
Bảo lãnh vô điều kiện hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu là dạng bảo lãnh
có tính chất độc lập với các giao dịch khác, kể cả hợp đồng là cơ sở để bảo lãnh
đƣợc phát hành. Do vậy, nó đƣợc goi theo thuật ngữ chung là Independent
Guarantee. Ngƣời phát hành bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong
bảo lãnh ngay khi nhận đƣợc yêu cầu (first demand, on demand) thông qua việc
xuất trình một số chứng từ do ngƣời nhận bảo lãnh hay còn gọi là ngƣời thụ hƣởng
bảo lãnh phát hành, mà không đƣợc viện dẫn bất kỳ một lý do chủ quan hay khách
quan nào. Loại bảo lãnh này thƣờng đƣợc sử dụng rất phổ biến vì sự thuận tiện và
lợi thế cho ngƣời thụ hƣởng và phù hợp với tập quán và thông lệ giao dịch của ngân
hàng thƣơng mại trên thế giới. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà nó có một nhƣợc điểm là
có thể xảy ra gian lận, thậm chí lừa đảo nếu ngƣời thụ hƣởng là đối tác không trung
thực gian dối do việc đòi bồi thƣờng mang tính chủ quan.
2.2 Bảo lãnh có điều kiện
Ngân hàng đầu
mối
(Leading bank)

Bên thụ hƣởng
(Beneficiary)
Bên đƣợc bảo
lãnh
(Principal)
Thông

báo
(1) Hợp đồng
thƣơng mại
(2) Yêu
cầu phát
hành bảo
lãnh
Bảo lãnh
(4) Đồng
bảo lãnh
Ngân
hàng
1
Ngân
hàng
2

(3) Cam kết
đồng bảo
lãnh
Ngân hàng
Thông báo
(Advising bank)
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

19
Theo hình thức bảo lãnh này thì ngƣời hƣởng thụ bảolãnh nếu muốn đƣợc bồi
thƣờng thiệt hại thì phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của toà án chứng minh
sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của ngƣời đƣợc bảo lãnh. Do có những điều kiện xác lập

chứng từ nhƣ vậy nên bảo lãnh có điều kiện về bản chất rất tƣơng đồng với nghiệp vụ
bảo hiểm, theo đó ngƣời đƣợc bảo hiểm phải xuất trình các chứng từ chứng minh sự tổn
thất thì mới đƣợc bồi thƣờng. Mặc dù các điều kiện này gây khó khăn cho ngƣời thụ
hƣởng do việc bồi thƣờng không đƣợc thực hiện ngay, mà phải qua các thủ tục pháp lý
khác nhƣng phía ngƣời đƣợc bảo lãnh và ngân hàng phát hành lại hài lòng vì nó đảm
bảo tính khách quan. Tuy nhiên, quan trọng và có ý nghĩa hơn là nó có tác dụng ngăn
ngừa tối đa sự gian lận hoặc lừa đảo của phía ngƣời nhận bảo lãnh, điều có thể xảy ra và
đã xảy ra trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam.
Do tính chất kém linh hoạt và không phù hợp với thông lệ giao dịch của ngân
hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít đƣợc sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng. Ngƣời
ta cho rằng dạng bảo lãnh này không đúng với bản chất của bảo lãnh theo đúng
nghĩa của nó mà thuộc kiểu bảo đảm trong lĩnh vực bảo hiểm. Bảo lãnh có điều kiện
hiện nay chỉ đƣợc sử dụng nhiều ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi và rất ít đƣợc ƣa
chuộng tại Châu Âu. Một số nƣớc khác thì chấp nhận dạng bảo lãnh đƣợc pha trộn
tính chất của hai loại bảo lãnh vô điều kiện và bảo lãnh có điều kiện, miễn rằng các
bên chấp nhận và ngân hàng đồng ý phát hành.


3. Theo tính hiệu lực của bảo lãnh
Theo tính hiệu lực của bảo lãnh, bão lãnh đƣợc chia thành bảo lãnh theo
món, bảo lãnh theo hạn mức và bảo lãnh tuần hoàn:
- Bảo lãnh theo món là bảo lãnh do ngân hàng phát hàng theo hợp đồng bảo
lãnh ký kết từng lần. Theo đó hợp đồng bảo lãnh chỉ có hiệu lực một lần duy nhất.
Bảo lãnh theo món thƣờng đƣợc áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu
đƣợc bảo lãnh thƣờng xuyên.
- Bảo lãnh theo hạn mức là bảo lãnh do ngân hàng phát hành theo hợp đồng
bảo lãnh hạn mức đã đƣợc ký kết áp dụng trong một thời gian nhất định. Khi có nhu
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42


20
cầu đƣợc bảo lãnh, khách hàng chỉ cần trình các giấy tờ cần thiết và ký kết với ngân
hàng một hợp đồng bảo lãnh nhỏ căn cứ theo hợp đồng bảo lãnh chính. Bảo lãnh
theo hạn mức đƣợc áp dụng với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh thƣờng
xuyên, chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp xây lắp.
- Bảo lãnh tuần hoàn là loại bảo lãnh ngân hàng mà hiệu lực và giá trị của nó
tự động lặp lại sau một khoảng thời gian nhất định. Bảo lãnh tuần hoàn đƣợc áp
dụng chủ yếu với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh với giá trị ổn định theo
một chu kỳ nhất định ví dụ nhƣ bảo lãnh thanh toán để nhập khẩu nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất…
4. Theo tính chất chuyển nhƣợng
Theo tính chất chuyển nhƣợng của bảo lãnh, có hai loại: bảo lãnh có thể
chuyển nhƣợng và bảo lãnh không thể chuyển nhƣợng:
- Bảo lãnh có thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh có
thể chuyển quyền thụ hƣởng cho một đối tƣợng khác không giới hạn.
- Bảo lãnh không thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh
không đƣợc chuyển quyền thụ hƣởng cho đối tƣợng khác.
Tính chất chuyển nhƣợng của bảo lãnh phải đƣợc quy định rõ ngay khi phát
hành bảo lãnh.
5. Theo đối tƣợng bảo lãnh
Cách phân loại này dựa trên tính chất của hợp đồng cơ sở giữa ngƣời đƣợc
bảo lãnh và ngƣời thụ hƣởng bảo lãnh.

5.1 Bảo lãnh dự thầu
Đây là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để bảo đảm nghĩa
vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trƣờng hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi
phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên
mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Hiện nay đấu thầu là một hoạt động rất phổ biến trên thế giới, nó đƣợc áp
dụng trong mọi lĩnh vực nhƣ thƣơng mại, dịch vụ, đặc biệt là đối với các hợp đồng

xây dựng công trình lớn, các công trình công cộng. Qua đấu thầu chủ công trình sẽ
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thu Trang Lớp: Nhật 2 – K42

21
chọn đƣợc đối tác có đủ điều kiện tối ƣu nhất để ký hợp đồng nhằm tránh các rủi ro
trong quá trình đấu thầu nhƣ ngƣời dự thấu không có đủ khả năng thực hiện hợp
đồng, hoặc trúng thầu nhƣng tự bỏ cuộc do đặt giá quá thấp để trúng thầu. Do đó,
điều kiện của quy chế dự thầu là ngƣời dự thầu phải cung cấp một bảo lãnh dự thầu
(Tender Guarantee) do ngân hàng có uy tín phát hành để đảm bảo rằng ngƣời dự
thầu sẽ không bỏ dở đấu thầu, không thay đổi hồ sơ dự thầu trong thời gian đấu thầu
và đặc biệt là phải ký hợp đồng sau khi trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu thƣờng có giá trị 1%-5% giá trị hợp đồng với điều kiện
thanh toán là theo yêu cầu (on demand). Nếu ngƣời dự thầu hoạt động ở nƣớc ngoài,
chủ công trình sẽ yêu cầu bảo lãnh dự thầu gián tiếp. Ngƣời thụ hƣởng bảo lãnh
(chủ công trình) sẽ có quyền đòi tiền khi ngƣời dự thầu vi phạm cam kết dự thầu,
ngay cả trƣờng hợp ngƣời dự thầu không cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng sau
khi ký hợp đồng.
Thời hạn của bảo lãnh kết thúc tƣơng đƣơng với thời gian trúng thầu. Tuy
nhiên bảo lãnh cũng có thể đƣợc kéo dài trên nguyên tắc “rút hồ sơ hoặc gia hạn”
(withdraw or extend) nhằm đảm bảo các thủ tục ký kết hợp đồng và quan trọng hơn
là chủ thầu cung cấp kịp bảo lãnh thực hiện hợp đồng để tiếp tục hoàn chỉnh đấu
thầu đến thực hiện. Trƣờng hợp không trúng thầu thì bảo lãnh dự thầu tự động hết
hiệu lực và đƣợc trả lại ngân hàng phát hành.
5.2 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện
đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận
bảo lãnh. Trƣờng hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thƣờng cho bên
nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì bên nhận bảo
lãnh có quyền yêu cầu thanh toán bảo lãnh : không thực hiện đúng tiến độ giao hàng,

hay tiến độ xây dựng công trình và ngân hàng sẽ thanh toán thay.
Đây là loại bảo lãnh đƣợc sử dụng thƣờng xuyên và thông dụng nhất, có thể
đƣợc sử dụng cho bất kỳ loại giao dịch nào khi hai bên cần có sự đảm bảo của ngân
hàng đối với việc thực hiện cam kết. Thông thƣờng loại bảo lãnh này thƣờng đƣợc
dùng kèm với một bảo lãnh khác, chẳng hạn khi chủ thầu đƣợc cấp bảo lãnh thanh

×