Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam thực trang và triển vọng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.2 KB, 94 trang )

LỜI MỞ ĐẦU:
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Trong giai đoạn hiện nay với xu thế tồn cầu hóa, khu vực hóa, đầu tư trực
tiếp nước ngồi đóng vai trị rất quan trọng trong việc phát triển đất nước góp phần
đẩy nhanh quá trình hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới. Nhận thức rõ
điều này, liên tục trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam với mục tiêu đưa
Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thực hiện nhiều
chính sách, biện pháp nhằm đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam. Trong những năm gần đây, Việt Nam cùng với các nước
ASEAN đang là điểm đến đầy hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhật Bản là trong những nước phát triển nhất ở châu Á, là cường quốc kinh
tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Mặc dù là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên,
thiếu nguyên liệu cho sản xuất nhưng bù lại Nhật Bản lại có cơng nghệ hiện đại và
trình độ quản lý tiên tiến. Chính vì thế họ có xu hướng đầu tư ra bên ngồi, đặc biệt
là các nước đang phát triển ở châu Á, để khai thác các nguồn lực sẵn có của những
nước này. Với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm
trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là
đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Nhật Bản ln nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của
Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và
hiệu quả triển khai.
Khu vực phía Bắc Việt Nam với thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hóa, chính
trị , kinh tế của cả nước, với vùng đồng bằng sông Hồng là vùng trọng điểm kinh tế
của cả nước đã và đang thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
1


đặc biệt là từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong những năm qua, Nhật Bản đã đầu tư
một lượng vốn một lượng vốn đầu tư đáng kể góp phần vào sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của khu vực này. Tuy nhiên, quy mô đầu tư vẫn chưa thực sự tương
xứng với tiềm lực kinh tế của Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam và xuất hiện nhiều


khó khăn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản khi đầu tư trực tiếp vào khu vực này
Vì vây, nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh
nghiệp Nhật Bản tại khu vực phía Bắc Việt Nam nhằm phân tích thực trạng đầu tư
cũng như triển vọng của nguồn vốn đầu tư để rút ra một số giải pháp cho việc tăng
cường thu hút đầu tư vào miền Bắc Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy, em đã lựa
chọn “Hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc Việt Nam: thực trang
và triển vọng” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thứ nhất, khái quát một số vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước
ngoài và một số kinh nghiệm thu hút FDI Nhật Bản của một số nước.
Thứ hai, phân tích hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam và đi
sâu vào hoạt động tại miền Bắc thông qua một số tỉnh và dự án đầu tư tiêu biểu của
Nhật Bản tại khu vực này nhằm đánh giá chung về thực trạng đầu tư vào khu vực
phía Bắc Việt Nam trong những năm qua của các doanh nghiệp Nhật Bản.
Thứ ba, triển vọng của hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào khu vực
phía Bắc Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI Nhật
Bản vào khu vực này trong thời gian tới.
3. Kết cấu của khóa luận:
Ngồi lời mở đầu, kết luận, phần phụ lục, nội dung của khóa luận bao gồm 3
chương sau:
2


Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp
Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản
tại khu vực phía Bắc Việt Nam
Chương III: triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Nhật Bản vào khu vực phía Bắc Việt Nam.
Do hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như lượng kiến thức còn hạn chế nên
khóa luận chắc chắn vẫn cịn nhiều thiếu sót nhất định, Kính mong nhận được sự

góp ý, nhận xét của thầy cơ và độc giả để khóa luận được hồn chỉnh thêm.
Em xin chân thành cảm ơn cơ giáo – ThS Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình
giúp đỡ em trong q trình nghiên cứu và hồn thành khóa luận này.

3


Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp:
1.1 Cơ sở lý luận về FDI:
1.1.1 Khái niệm FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khái niệm quen thuộc đối với tất cả các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vận
động đa dạng, phong phú nên vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về đầu tư trực
tiếp nước ngoài giữa các tổ chức, các quốc gia trên thế giới.
Bởi vậy, nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đã đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm mục đích giúp cho các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ
mô về FDI, sử dụng trong công tác thống kế quốc tế.
Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đưa ra khái niệm về FDI. Theo đó thì “FDI là hoạt
động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh
nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu
tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”.(BPM5,
fifth edition). Theo khái niệm này, có thể thấy FDI gắn liền với hai yếu tố: lợi ích
lâu dài và quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. Lợi ích lâu dài chính là mối quan
tâm lâu dài của nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ
của một nền kinh tế khác. Để đạt được mục tiêu này địi hỏi phải có mối quan hệ
lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời
có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này. Quyền
4



quản lý thực sự doanh nghiệp chính là quyền kiểm soát doanh nghiệp. Cùng với
quyền kiểm soát doanh nghiệp, các nhà đầu tư có thể tham gia vào các quyết định
quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như thông qua
chiến lược hoạt động của công ty, thông qua, phê chuẩn kế hoạch hành động do
người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập ra, quyết định việc phân chia lợi
nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn góp giữa các bên.
Theo khái niệm do tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD đưa ra thì:
“FDI là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế
lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng
tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: thành lập
hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của
chủ đầu tư, mua lại tồn bộ doanh nghiệp đã có, tham gia vào một doanh nghiệp
mới, cấp tín dụng dài hạn (trên 5 năm), nắm quyền kiểm soát ( nắm từ 10% cổ
phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên)”. Khái niệm của OECD về cơ bản
cũng giống như khái niệm của IMF, cũng nhấn mạnh đến hai yếu tố cấu thành nên
đặc trưng của FDI là mối quan hệ lâu dài và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ ra cụ thể hơn các cách thức để nhà đầu
tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý doanh, đó là hoặc “ thành lập hoặc mở
rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu
tư” hoặc “mua lại tồn bộ doanh nghiệp đã có” hoặc “tham gia vào một doanh
nghiệp mới”. Về quyền kiểm soát doanh nghiệp FDI, OECD quy định rõ là từ 10%
cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên.
Luật Đầu tư năm 2005 được Quốc hội khóa XI nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thơng qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”,
“đầu tư nước ngoài” tại điều 3 nhưng không trực tiếp đưa ra khái niệm “đầu tư trực
tiếp nước ngồi”. Tuy nhiên, thơng qua các khái niệm đó, có thể gộp lại và hiểu
5


rằng: Đầu tư trực tiếp nước ngồi là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ

vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt
Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy
định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, qua
một số khái niệm về FDI, ta có thể kết luận đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn và
quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư
trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một
nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp
FDI hay doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hay chi nhánh nước
ngoài). FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với
việc quản lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác. Tiếng nói hiệu quả trong
quản lý phải đi kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được cơi là
FDI.
1.1.2 Đặc điểm của FDI:
1.1.2.1

FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi
nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư
Theo quan điểm về FDI của IMF, OECD và Việt Nam thì cho thấy FDI là

đầu tư tư nhân vì vậy nó có mục đích ưu tiên hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào một tổ chức trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác luôn muốn tối đa hóa lợi ích, muốn tối đa hóa lợi nhuận. Vì thế,
các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến
hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các
chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát

6



triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
1.1.2.2

Các chủ đầu tư nước ngồi phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn
pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư.
Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác. Quyền

kiểm sốt ở đây là quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển, sống còn của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư phải đóng góp một tỷ
lệ vốn nhất định thì mới có tiếng nói hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp nhận đầu
tư. Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời kéo theo đó là các quyền lợi, sự phân
chia lợi nhuận, rủi ro cũng theo tỷ lệ này. Tỷ lệ vốn tùy theo quy định của luật pháp
từng nước. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%. Trước đây,
trong điều 8 Luật đầu tư nước ngồi 1996 có quy định tỷ lệ này là 30%, trừ những
trường hợp do Chính phủ quy định thì nhà đầu tư nước ngồi có thể góp vốn với tỷ
lệ thấp hơn nhưng không dưới 20% (điều 14 mục 2 Nghị định 24/2000 NĐ-CP), tuy
nhiên, theo Luật đầu tư 2005 thì khơng quy định vốn tối thiểu của chủ đầu tư nước
ngoài nữa.
1.1.2.3

FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu
tư.Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể
tiếp nhận cơng nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý…

1.1.2.4

Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu

trách nhiệm về lỗ lãi
Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức

đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như cơng nghệ cho mình, do đó sẽ tự
7


đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả thi
và hiệu quả kinh tế cao, khơng có những ràng buộc về chính trị, khơng để lại gánh
nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
1.1.3 Hình thức của FDI:
1.1.3.1

Theo hình thức thâm nhập
Theo hình thức thâm nhập, FDI được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu

là: đầu tư mới(Greenfield Investment - GI) và Mua lại và sát nhập qua biên
giới(Cross-border Merger and Acquisition – M&A)
Đầu tư mới (Greenfield Investment): là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ
sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản
xuất kinh doanh đã tồn tại. Hình thức này được các nước tiếp nhận đầu tư ưu
chuộng hơn bởi hình thức đầu tư này tạo ra năng lực cạnh tranh mới, tạo ra nhà máy
sản xuất mới, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động ở trong nước, và
chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó hình thức GI cịn có ưu điểm là không tạo ra
hiệu ứng cạnh tranh gây ra tình trạng độc quyền trong ngắn hạn đe dọa đến các
thành phần kinh tế nước nhận đầu tư, nhất là nước đang và kém phát triển. Tuy
nhiên, hình thức này cũng có điểm hạn chế là trong thời gian dài, đầu tư theo hình
thức này sẽ làm cho nền sản xuất trong nước lao đao vì khơng có sức cạnh tranh,
làm mất thị phần của các công ty trong nước, tài nguyên thiên nhiên nước nhận đầu
tư cũng bị cạn kiệt trong khi lợi nhuận của hoạt động đầu tư chảy về nước đầu tư.

Mua lại và sáp nhập qua biên giới (M&A) là một hình thức FDI liên quan
đến việc mua lại hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động.
Theo Luật cạnh tranh năm 2004 điều 17 có đưa ra khái niệm sáp nhập và mua lại
như sau: Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
8


khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.Mua lại doanh
nghiệp được hiểu là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại. Nếu như GI phổ biến hơn ở các nước đang phát triển và
được các nước nhận đầu tư ưa chuộng hơn, thì M&A chủ yếu mạnh ở các nước phát
triển vì có mơi trường pháp lý tốt, thị trường vốn và tài chính được tự do hóa, các
doanh nghiệp trong nước cũng có tiềm lực mạnh, có danh tiếng. Hình thức này cũng
được các chủ đầu tư ưu tiên hơn bởi ưu thế tiết kiện thời gian tìm hiểu thị trường,
phân phối sản phẩm, đồng thời cũng tiết kiệm chi phí vì tận dụng được danh tiếng
vốn có của doanh nghiệp trong nước, quan trọng hơn cả là chủ đầu tư tận dụng
được các lợi thế sẵn có của các đối tác nước nhận đầu tư như hình ảnh doanh
nghiệp, hình ảnh sản phầm, mối quan hệ mới khách hàng, mạng cung cấp và hệ
thống phân phối sẵn có…
1.1.3.2

Theo quy định của pháp luật Việt Nam
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong điều 21, 22,

23, 24 và 25 Luật đầu tư 2005 của Việt Nam như sau:
• Thành lâp tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước.



Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngồi

• Đầu tư theo hình thức hợp đồng BBC, hợp đồng BOT, hợp đồng
BTO, hợp đồng BT.
• Đầu tư phát triển kinh doanh
• Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư
9


• Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
• Các hình thức đầu tư trực tiếp khác
1.1.4 Vai trị của đầu tư trực tiếp nước ngồi:
1.1.4.1

Đối với nước chủ đầu tư:
FDI giúp nước chủ đầu tư sử dụng lợi thế của nơi tiếp nhận vốn giảm chi phí,

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tỷ suất lợi nhuận, khắc phục được tình trạng
thừa vốn tương đối. Khi việc đầu tư ở nước mình khơng cịn mang lại hiểu quả đầu
tư, tỷ suất lợi nhuận đang giảm dần trong khi các nước khác lại xuất hiện lợi thế
mà có thể khai thác thì để thực hiện mục đích tối đa hóa lợi nhuận của mình, tất
yếu các chủ đầu tư sẽ chuyển vốn của mình ra đầu tư ở nước ngoài. Với việc
chuyển vốn đầu tư ra nước khác, nước chủ đầu tư sẽ tận dụng lợi thế sẵn có của
nước tiếp nhận đầu tư như nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên, nhân
công giá rẻ kèm theo thị trường tiêu thụ rộng lớn… để giảm chi phí sản xuất, đồng
thời hưởng những ưu đãi đầu tư của nước nhận đầu tư như được giảm chi phí vận
chuyển, giảm được chi phí cho ngân hàng, giảm đươc thuế, tránh được các rào cản
thương mại...từ đó sẽ tăng được lợi nhuận.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, khắc

phục tình trạng lão hóa sản phẩm. Hiện nay cùng với xu hướng tồn cầu hóa thì
chủ nghĩa bảo hộ cũng trỗi dậy. Bởi vậy FDI được coi là biện pháp tối ưu, được sử
dụng phổ biến để thâm nhập vào thị trường nước ngồi. Nhờ hệ thống các cơng ty
con, các chi nhánh được đặt tại chính nước sở tại, sản phẩm được thâm nhập một
cách dễ dàng hơn và tránh được các biện pháp bảo hộ mậu dịch của nước sở tại.
Đồng thời nhờ hoạt động đầu tư trực tiếp chủ đầu tư mở rộng được thị trường tiêu

10


thụ sản phẩm của mình khơng chỉ sang nước sở tại mà cịn có thể mở rộng thị
trường sang các nước trong khu vực hay khối hợp tác kinh tế với nước nhận đầu tư.
FDI giúp nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy
tín chính trị trên thị trường quốc tế. FDI giúp các nước chủ đầu tư mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài, đồng thời tăng mức độ ảnh hưởng đến nền
kinh tế của nước nhận đầu tư. Thơng qua đó tác động chi phối đến đời sống chính
trị nước nhận đầu tư theo hướng có lợi cho nước nhận đầu tư. Vì vậy mà uy tín
cũng như thế lực của họ ngày càng được mở rộng hơn. Hiện nay, cùng với xu
hướng tồn cầu hóa là sự hình thành các liên kết, hợp tác quốc tế song phương, đa
phương cùng với các khối hợp tác kinh tế như EU, NAFTA, AFTA…Trong điều
kiện này, khi các nhà đầu tư đầu tư trực tiếp vào một nước thành viên của khối nào
đó, thì họ cũng có thêm điều kiện để có thể mở rộng thị trường tiêu thụ hay đầu tư
với những nước cùng khối có quan hệ với nước nhận đầu tư. Như vậy, FDI đã trở
thành con đường hữu hiệu nhất giúp nước đầu tư nâng cao sức mạnh kinh tế cũng
như uy tín chính trị của mình trên thị trường quốc tế.
Các chủ đầu tư nước ngồi được cung cấp nguồn ngun, nhiên liệu ổn định.
Thơng qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư tận dụng được nguồn nguyên,
nhiên liệu dồi dào ở các nước tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các nước tiếp nhận đầu tư
là nước đang và chậm phát triển vì thế họ khơng có điểu kiện khai thác do thiếu
vốn và công nghệ. Khi đầu tư vào nước này, các chủ đầu tư có thể thu được nguồn

nguyên liệu thơ với giá rẻ sau đó chế biến và bán sản phẩm với giá cao.
FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công
nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Thông qua FDI, nước chủ đầu tư đã
chuyển một số bộ phận sản xuất công nghiệp mà phần lớn đã lạc hậu sang các
nước nhận đầu tư kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kỳ sống
11


sản phẩm ở thị trường mới, tăng sản xuất tiêu thụ, giúp thu hồi vốn. Nhờ vậy, mà
các chủ đầu tư có thể nhanh chóng đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ
mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.1.4.2

Đối với nước nhận đầu tư:
FDI giúp các nước nhận đầu tư bổ sung vốn để phát triển kinh tế. Trong thời

kì đầu mới phát triển, trình độ kinh tế của các nước đang phát triển thấp vì vậy khả
năng tích lũy vốn trong nội bộ nền kinh tế rất hạn chế. Trong khi đó nhu cầu vốn
đầu tư để phát triển nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát
triển lại rất lớn. Và đầu tư nước ngồi, với vai trị là một nguồn vốn bổ sung từ bên
ngoài, giúp các nước đang phát triển giải được bài toán về thiếu vốn đầu tư và dần
thốt ra khỏi vịng luẩn quẩn.
Trong các nguồn vốn nước ngồi thì nguồn vốn FDI được đánh giá là rất
quan trọng đối với nhiều nước. FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu
tư toàn xã hội của các nước đang và kém phát triển. FDI có nhiều ưu điểm nổi trội
hơn các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác. FDI là nguồn vốn đầu tư dài hạn, tồn
tại chủ yếu dưới hình thức cơng nghệ, đất đai, nhà xưởng… nên có độ ổn định cao
hơn rất nhiều so với đầu tư chứng khốn nước ngồi, vì vậy FDI ít khả năng gây
sốc cho nền kinh tế. Thêm vào đó. FDi chủ yếu là vốn đầu tư tư nhân, các chủ đầu
tư tự tiến hành hoạt động đầu tư và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động vì vậy

hiệu quả sử dụng nguồn vốn này (đặc biệt là hiệu quả tài chính) thường cao hơn
các nguồn vốn khác, đồng thời FDI không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách
nước nhận đầu tư như vay thương mại, cũng không gây ép về kinh tế, chính trị, xã
hội như ODA. Và đi kèm cùng với nguồn vốn này thường có cơng nghệ chảy vào
các nước nhận đầu tư, đây cũng là một yếu tố mà các nước đang và phát triển đang
thiếu và rất cần cho quá trình phát triển của mình.
12


Bên cạnh góp phần bổ sung vốn cho nền kinh tế, sự có mặt của nguồn vốn
FDI cịn góp phần tạo điều kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề
kinh tế xã hội ưu tiên như cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi xã hội…Nguồn
vốn này cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước.
Các nước nhận đầu tư có thể được tiếp nhận cơng nghệ, kỹ thuật hiện đại từ
nước ngoài. Các nước đang phát triển rất cần vốn cũng như công nghệ để phát triển
kinh tế và cơng nghệ có được thơng qua FDI có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, doanh
nghiệp có thể có được “cơng nghệ trọn gói”, thứ hai, nó giúp phá vỡ sự cân bằng
hiện thời của thị trường và buộc các hãng nội địa đổi mới, thứ ba, công nghệ mới
và hiện đại thường chỉ có được thơng qua quan hệ nội bộ công ty, thứ tư, lợi thế
của một công ty đa quốc gia giúp cho khai thác tiềm lực công nghệ hiệu quả. Bên
cạnh việc chuyển giao cơng nghệ sẵn có, hoạt động của các doanh nghiệp FDI cịn
góp phần tích cực đối với việc đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp trong nước.
FDI giúp phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm
FDI giúp các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế về nguồn lao động
dồi dào, ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho người
lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung, số lượng việc làm trong
khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ở các nước đang phát triển có
xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, FDI cịn góp phần vào việc đào tạo, nâng cao
trình độ cho người lao động. Các doanh nghiệp có vốn FDI có đội ngũ cơng nhân,

nhân viên lành nghề, có tác phong cơng nghệp, có kỷ luật cao. Phần lớn các lao
động cấp cao trong các dự án FDI được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và
ngoài nước, được tiếp thu những kinh nghiệm quản lý điều hành của các nhà kinh
doanh nước ngoài. Bộ phận lao động trong khu vực FDI đã tác động lan truyền
13


sang các bộ phận lao động khác trong nước. Các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật
trong nước được kích thích nâng cao trình độ khi giao dịch với các đối tác nước
ngoài. Người lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ, mong muốn tìm việc làm
trong các doanh nghiệp có vốn FDI để được thử sức trong một mơi trường năng
động hơn và có thu nhập cao hơn đã quan tâm hơn đến việc nâng cao trình độ và
tay nghề.
FDI giúp tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực ở các
nước nhận đầu tư. FDI chủ yếu được tiến hành bởi các TNCs và thường tập trung
vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu phát triển
các ngành này của các nước đang phát triển. Với tỷ trọng vốn FDI vào các ngành
công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, nguồn vốn này đã góp phần tăng nhanh tỷ
trọng về sản lượng, việc làm, xuất khẩu,…của các ngành công nghiệp, dịch vụ
trong nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tỷ trọng của các ngành kinh tế
truyền thống như nông nghiệp, khai thác,…giảm mạnh.
FDI góp phần tích cực vào các cán cân đối lớn của nền kinh tế.
Các dự án FDI góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển.
Các cân đối lớn của nền kinh tế như cung cầu hàng hóa trong nước, xuất nhập
khẩu, thu chi ngân sách đều thay đổi theo chiều hướng tích cực nhờ sự đóng góp
của FDI. Trong giai đoạn đầu mới phát triển, do trình độ phát triển thấp, cơng
nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu vốn…nên năng lực sản xuất của khu vực kinh
tế trong nước của các nước đang phát triển rất yếu kém, không đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Nguồn vốn
FDI vào đã giúp các nước giải quyết được khó khăn trên. Khu vực có vốn FDI đáp

ứng một phần nhu cầu hàng hóa trong nước, làm giảm căng thẳng cung cầu, giảm
sự phụ thuộc hàng nhập khẩu. Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, FDI ngày càng
14


hướng mạnh vào xuất khẩu. Nguồn ngoại tệ đáng kể từ xuất khẩu đã giúp các nước
đang phát triển cải thiện cán cân thương mại. Do nhu cầu hàng hóa trong nước
được đáp ứng tốt hơn và có nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu mà nhập khẩu cũng thay
đổi theo hướng tích cực. Ngồi ra, FDI cịn góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển
và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. FDI cũng
góp phần tăng thu cho ngân sách nước nhận đầu tư thông qua thuế và tiêu dùng các
dịch vụ công cộng.
FDI tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Sự xuất hiện của các dự án FDI đi kèm với cơng
nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nâng cao chất lượng và đa dạng
hóa các mặt hàng xuất khẩu. Các dự án FDI tạo ra những sản phẩm có chất lượng
cao hơn, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế hơn. Bên cạnh đó, thơng qua các mối quan hệ
sẵn có của các nhà đầu tư nước ngồi, hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn FDI
tiếp cận được thị trường thế giới. Như vậy, FDI đã vừa làm tăng năng lực xuất
khẩu vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho các nước nhận đầu tư.
FDI giúp củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong các hoạt đông kinh tế đối
ngoại, hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng có ý nghĩa và vai trị quan trọng.
Quan hệ đầu tư góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển.
Cam kết bảo đảm cho hoạt động FDI và hiệu quả của các dự án FDI là cơ sở để các
nước đang phát triển thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác như ODA, tín
dụng quốc tế…Quan hệ thương mại của các nước mở rộng theo quá trình phát triển
của các doanh nghiệp có vốn FDI. Thơng qua các dự án FDI, các nước đang phát
triển từng bước tham gia vào phân công lao động quốc tế và vào hệ thống sản xuất
thế giới. Nền kinh tế trong nước dần dần tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế


15


khu vực và thế giới. Điều này tạo điều kiện cho các nước tham gia vào các hiệp
định hợp tác kinh tế song phương, đa phương.
1.2 Kinh nghiệm thu hút FDI Nhật Bản của một số quốc gia:
1.2.1 Trung Quốc:
Trong những năm gần đây, Trung Quốc luôn đứng đầu trong danh sách đầu
tư của Nhật Bản. Theo Công tác điều tra trong 605 doanh nghiệp Nhật Bản được
tiến hành vào mùa hè năm 2010 về mảnh đất hứa đầu tư trung kỳ có triển vọng
trong 3 năm tới thì Trung Quốc giữ ngôi vị đầu tiên.
Để trở thành quốc gia thu hút nhiều vốn FDI trên thế giới như hiện nay,
Trung Quốc đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư thông qua việc cải tạo,
xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo dựng mội trường pháp lý cho đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trung Quốc chủ động bỏ vốn ra xây dựng và cải tạo đường sá, bến bãi, cảng
nước sâu, sân bay, hệ thống thông tin. Trung Quốc chú trọng xây dựng nhiều đặc
khu kinh tế và các thành phố duyên hải. Tại các đặc khu này, Trung Quốc tập trung
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị, nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm
công cộng. Nhà nước cho phép điạ phương tự khai thác mọi khả năng để có vốn đầu
tư cơ sở hạ tầng, để khuyến khích nhà đầu tư nước ngồi tham gia vào quá trình tái
cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Trung Quốc xây dựng một hệ thống phát luật đồng bộ, đảm bảo quyền lợi
cho các nhà đầu tư. Trung Quốc thể hiện sự quan tâm đến những quyền lợi của nhà
đầu tư nước ngoài bằng cách thường xuyên bổ sung, sửa đổi Luật đầu tư nước
ngoài, đảm bảo tính thực thi nghiêm túc. Những hoạt động thanh tra trái phép, thu
lệ phí hay áp đặt thuế sai quy định đối với các doanh nghiệp nước ngoài bị xử lý
nghiêm khắc.Nhiều quy định được xóa bỏ để phù hợp với pháp luật kinh doanh

16



quốc tế như tỷ lệ nội địa hóa, cân đối ngoại tệ. Phạm vi ngành nghề được phép đầu
tư được mở rộng, từ 186 lên đến 262 khoản mục được đầu tư.
Nhằm thu hút FDI, Trung Quốc đã đề ra nhiều chính sách ưu đãi thuế và luật
pháp hố chúng.
Ưu đãi đối với khu vực đầu tư: Biện pháp này được để ra theo chiến lược mở
cửa khu vực của Trung Quốc: Những doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mang tính
sản xuất có thể được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tới 24%.
Ưu đãi về kỳ hạn kinh doanh: Đối với những doanh nghiệp đầu tư nước ngồi
mang tính sản xuất, nếu kỳ hạn kinh doanh tren 10 năm, tính từ năm bắt đầu có lãi,
năm thứ nhất và năm thứ 2 được miễn thuế thu nhập, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5
học được giảm một nửa thuế thu nhập.
Đãi ngộ cho hành vi tái đầu tư
- Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: người đầu tư nước ngoài
dung số lợi nhuận thu được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp
dó hoặc đầu tư xây dựng doanh nghiệp khác nếu kỳ hạn kinh doanh khơng dưới 5
năm thì được trả lại 40% thuế thu nhập đã nạp đối với phần tái đầu tư
- Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: đối với một số lĩnh vực đặc
biệt, nhà đầu tưcó thể được trả lại tồn bộ số thuế thu nhập đối với phần tái đầu tư
Ngồi ra, trong chiến lược thu hút FDI của mình, Trung Quốc còn dành ưu
đãi khác cho các doanh nghiệp FDI như các dự án đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu
công nghệ cao sẽ được ưu đãi về thuế, các dự án đầu tư vào các vùng kinh tế khó
khăn như miền Tây, miền Trung - sẽ được th đất miễn phí, miễn thuế thu nhập
trong vịng 10 năm. Trung Quốc còn mở rộng các quy định về ngoại hối, vay ngoại
tệ: Doanh nghiệp FDI được cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối, mở tài khoản
17


ngoại tệ, vay vốn từ các ngân hàng Trung quốc nếu được bảo lãnh bởi các cổ động

nước ngoài. Ngoài ra, nước này còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ
phần của doanh nghiệp nhà nước như các ngân hàng (ngoại trừ các doanh nghiệp
đặc biệt quan trọng đến kinh tế và an ninh quốc gia)
1.2.2 Malaysia:
Theo đánh giá của UNCTAD, Malaysia lọt vào Top 10 nước thu hút FDI nhiều
nhất trong số các nước đang phát triển. Malaysia được coi là một trong những quốc
gia có môi trường đầu tư hấp dẫn bởi: sự ổn định của chính trị xã hội, sự phát triển
của kết cấu hạ tầng cơ sở, sự nhanh nhạy linh hoạt của chính phủ trong việc ban
hành các chính sách kinh tế phù hợp với đặc điểm thực tế của từng thời kỳ. So với
nhiều nước đang phát triển ở khu vực và trên thế giới, chính sách mở cửa và hội
nhập KTQT của Malaysia diễn ra khá sớm. Để thu hút được nguồn vốn FDI, Malaixia
đã xây dựng và không ngừng hồn thiện hệ thống chính sách thu hút FDI tương đối đồng
bộ, thơng thống, nhất qn và minh bạch. Bên cạnh những cam kết bảo đảm sở
hữu, Malaixia có những chính sách khuyến khích ưu đãi về tài chính tiền tệ; tạo lập mơi
trường chính trị - xã hội ổn định; nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; chú
trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao công nghệ… Qua đó, đã tạo được mơi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Về chế độ ưu đãi đầu tư, chính phủ Malaysia đã căn cứ vào đặc điểm, vị trí,
trình độ cơng nghệ, danh mục khuyến khích của ngành nghề, quy mơ xuất khẩu sản
phầm, quy mô và khu vực đầu tư để đề ra các chính sách, trong đó quy định rõ các
mức ưu đãi.
Ưu đãi thuế dành cho lĩnh vực sản xuất gồm 2 loại: ưu đãi dành cho doanh
nghiệp đi tiên phong và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư . Các ưu đãi này được cấp cho
18


doanh nghiệp trên cơ sở giá trị gia tăng của hoạt động sản xuất, công nghệ áp dụng,
hay mức độ liên kết công nghiệp mà dự án đầu tư đem lại. Các dự án được hưởng ưu
đãi được coi là các hoạt động hay sản phẩm khuyến khích đầu tư.

Doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đi tiên phong sẽ được
giảm thuế TNDN trong vòng 5 năm, theo đó, doanh nghiệp chỉ phải nộp 30% số thu
nhập chịu thuế bắt đầu từ ngày đi vào sản xuất ngày mà số lượng sản phẩm đạt ít
nhất 30% cơng suất.
Ngồi các ưu đãi cơ bản như trên, doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sản
xuất còn được hưởng một số ưu đãi đặc thù theo ngành như: (i) Ưu đãi dành cho
việc chuyển các hoạt động sản xuất vào địa bàn ưu đãi đầu tư; (ii) Ưu đãi dành cho
doanh nghiệp công nghệ cao; (iii) Ưu đãi dành cho các dự án chiến lược có tầm
quan trọng quốc gia; (iv) Ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; (v) Ưu đãi đối với
các dự án có tính chất liên kết công nghiệp; (vi) Ưu đãi cho công nghiệp sản xuất
máy móc và thiết bị; (vi) Ưu đãi dành cho cơng nghiệp chế biến vùng cọ ngun
liệu. Ngồi ra, cịn có một số ưu đãi khác dành cho lĩnh vực sản xuất như hỗ trợ tái
đầu tư, hỗ trợ mua sắm trang thiết bị để duy trì chất lượng nguồn điện (nhằm giảm
chi phí sản xuất cho doanh nghiệp do sự cố mất điện gây ra)
Hiện nay, Malaysia áp dụng chính sách đào tạo lao động theo yêu cầu của
chủ đầu tư tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động. Thêm vào đó, mọi thủ tục
nên sự phiền hà về đầu tư nước ngoài dần dần được loại bỏ và thay vào đó là cơ
chế, thủ tục nhanh, gọn, thơng thống và hiệu quả. Với chiến lược thu hút FDI hiệu
quả, dòng vốn FDI vào Malaysia ngày càng tăng lên trong những năm gần đây và
những năm sắp tới.
1.2.3 Ấn Độ:

19


Với ưu thế là những thị trường lớn, lại đang nổi lên, Ấn Độ rất hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư nước ngồi, trong đó có Nhật Bản. Theo kết quả điều tra “vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2010” các doanh nghiệp chế tạo do Ngân hàng hợp
tác Quốc tế Nhật Bản thực hiện cho thấy, Ấn Độ là vùng đất đầu tư có triển vọng
trong 10 năm tới và sẽ vượt qua Trung Quốc chiếm ngôi vị số 1.

Để thu hút được lượng vốn FDI lớn từ các nước phát triển, Ấn độ đã có một
quá trình hoạch định chính sách theo một quy trình thống nhất, đứng đầu là Chính
phủ, sau đó đến Bộ Cơng thương, tiếp theo là Uỷ ban thúc đẩy đầu tư nước ngồi.
Ngồi ra cịn có Uỷ ban chun trách về phát triển công nghiệp thực hiện. Cơ chế
này được thực hiện thông suốt, một cửa, không chồng chéo, tạo nhiều thuận lợi cho
việc phê chuẩn, cấp giấy phép, giám sát việc thực hiện. Mặt khác, các chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài được điều chỉnh hàng năm cho phù hợp với tình hình
thực tiễn.
Ấn Độ đã có nhiều nỗ lực điều chỉnh, cải thiện các thủ tục đầu tư hàng năm
để thúc đẩy thu hút đầu tư FDI. Năm 1991, Chính phủ đã chính thức huỷ bỏ sự
kiểm sốt hành chính đối với các ngành cơng nghiệp. Việc cấp giấy phép cho các
ngành công nghiệp năm 1951 đã được huỷ bỏ hoàn toàn trừ một số ngành như năng
lượng nguyên tử, đường sắt, sản xuất rượu, hoá chất độc hại, thiết bị cháy nổ,
thuốc lá, thiết bị quốc phòng. Năm 1994 Chính phủ tiến hành tự do kiểm sốt ngoại
hối, thời hạn phê chuẩn đầu tư nước ngoài giảm từ 90 ngày xuống chỉ còn 4 đên 6
tuần . Năm 1998, RBI thơng báo đơn giản hố hố các thủ rục phê chuẩn tự động
các dự án FDI, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong các hoạt
động giao dịch ngoại hối.
Ấn Độ cũng chú trọng tạo điều kiện thuận lợi về thuế cho các nhà đầu tư
nước ngồi. Thuế nhập khẩu hàng hố, vốn trong các dự án FDI hầu như được miễn
hoàn tồn, đồng thời danh mục các hàng hố được miễn thuế nhập khẩu tăng lên
hàng năm. Những thay đổi vể thuế nhập khẩu được thực hiện thơng qua chương
trình như Giấy phép Nhập khẩu đặc biệt (SIL) và Giấy phép Nhập khẩu chung mở
(OGL), áp dụng miễn thuế cho cả nhập khẩu hàng hố sản xuất và tiêu dùng. Chính

20


phủ áp dụng chế độ miễn giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài trong thời hạn 3-5 năm tuỳ từng ngành ưu tiên.

Để thúc đẩy dòng vốn FDI chảy vào, Ấn Độ cũng đã chú trọng phát triển cơ
sở hạ tầng, xây dựng nhiều khu kinh tế. Các khu kinh tế này chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu và được hưởng các ưu đãi đặc biệt, trong đó có việc cho phép sở hữu của
người nước ngồi lên 100%.
Ngồi ra, Chính phủ Ấn Độ đã nới lỏng luật lệ đối với các tiêu chuẩn về thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc nới lỏng chủ yếu thuộc về các lĩnh vực
thơng tin tài chính, chứng khốn, hàng khơng dân dụng và tăng mức trần đầu tư cho
lĩnh vực dầu khí.
Ấn Độ là tiên phong tiến hành các thủ tục phê chuẩn vốn đầu tư tự động
khơng thơng qua giấy phép do Chính phủ trực tiếp phê chuẩn, ngoại trừ một số dự
án đặc biệt. Đơn xin đầu tư được gửi lên Ban thư ký hỗ trợ Công nghiệp hoặc thông
qua các cơ sở ngoại giáo Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ cũng đạt hộp thư để tiếp nhận
đơn xin đầu tư thông qua mạng Internet, đồng thời qua mạng Internet cung cấp cho
các nhà đầu tư nước ngồi những hiểu biết về chính sách và thủ tục đầu tư tại Ấn
Độ. Ban thư ký Hỗ trợ cơng nghiệp sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Hình thức phê
chuẩn tự động này được đánh giá là mang tính chất tự do nhất trên thế giới.
Trong chiến lược thu hút FDI của mình, Ấn Độ cũng chú trọng phát triển
nguồn nhân lực trình độ cao. Số người tốt nghiệp đại học ở Ấn Độ chỉ sau Trung
Quốc và Mỹ. Và đặc biệt, Ấn Độ được coi là cái nơi của nguồn nhân lực có trình độ
cao trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin.
1.2.4 Thái Lan:
Là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, nhưng Thái Lan
đã sớm có những nhận thức đúng đắn về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
đã tận dụng nó để phát triển đất nước. Để tăng cường thu hút FDI, Thái Lan đã tiến
hành thúc đẩy cải cách chính trị, tăng cường đồn kết quốc gia, thu hẹp khoảng
cách về thu nhập và củng cố pháp quyền nhằm hạn chế tham nhũng, tăng cường
21


tính minh bạch hóa, phát triển cơ sở hạ tầng với những dự án khổng lồ, tìm nguồn

tài chính từ lĩnh vực tư, cải thiện giáo dục.
Thái Lan đã tiến hành đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư, công khai các
kế hoạch phát triển kinh tế. Thủ tục đầu tư đều là thủ tục một cửa đơn giản, với
những hướng dẫn cụ thể tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ở Thái Lan có Luật xúc
tiến thương mại quy định rõ ràng cơ quan nào, ngành nào có nhiệm vụ gì trong việc
xúc tiến đầu tư. Thái Lan thực hiện tốt công tác quy hoạch và công khai các kế
hoạch phát triển đất nước từng giai đoạn, ngắn và trung hạn.
Để thu hút FDI, Thái Lan đã đưa ra các chính sách cắt giảm thuế hấp dẫn
đối với các dự án đầu tư nước ngoài Thái Lan miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3
đến 8 năm, miễn thuế nhập khẩu 90% đối với nguyên liệu, 50% đối với máy móc
mà Thái Lan chưa sản xuất được... Ngồi ra Thái Lan cịn có các chính sách ưu đãi
về dịch vụ như: giảm giá thuê nhà đất, văn phịng, cước viễn thơng, vận tải...Giá
dịch vụ ở Thái Lan thuộc loại hấp dẫn nhất với việc thu hút FDI.
Trong chiến lược thu hút FDI, Thái Lan cũng tập trung xây dựng cơ sở hạ
tầng: nhà xưởng, đường giao thông, viễn thông, dịch vụ...nhằm tạo môi trường hấp
dẫn và dễ dàng cho các nhà đầu tư khi hoạt động trên đất nước mình.Thái Lan chú
trọng đầu tư cơ sở hạ tầng: hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ thống sân bay, bến
cảng, khu công nghiệp, kho bãi hiện đại, thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch.
Nước này cũng xây dựng thành công hệ thống viễn thông, bưu điện, mạng internet
thông suốt cả nước phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế.
Cũng giống như một số nước châu Á khác, Thái Lan cũng coi trọng việc
phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao nhằm thu hút FDI. Hiện nay, Thái Lan có
tới 21% sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành tốn, máy tính.
Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập
khẩu đối với các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngồi vào lĩnh vực nơng nghiệp.
Các dự án FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu đối với
22


các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan quản lý đầu tư công

nhận là thuộc loại thiết bị được khuyến khích đầu tư. Riêng đối với các dự án đầu tư
vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất khẩu, được miến hoàn toàn
thuế thu nhập doanh nghiệp trong vịng 5 năm. Là một quốc gia có nền nơng nghiệp
tương đồng với Việt Nam,thậm chí có những điều kiện còn hạn chế hơn so với Việt
Nam, tuy nhiên, Thái Lan đã vươn lên trở thành một nước đứng đầu về xuất khẩu
nông sản và với giá trị nông sản xuất khẩu cao hơn hẳn so với Việt Nam. Nguyên
nhân có được điều đó là do Thái Lan đã biết định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào việc khai thác đặc sản của từng vùng thậm chí cả những vùng khó khăn nhất.
Chính chính sách này đã làm cho nền nơng nghiệp Thái Lan có được những lợi thế
về chất lượng và giá cả trên thị trường nông sản thế giới và hơn nữa, nông sản Thái
Lan đã tạo được một thương hiệu tốt trên thị trường, điều mà nơng sản Việt Nam
vẫn đang tìm kiếm.
Ngồi ra, để thúc đẩy dịng vốn FDI chảy vào nước mình, Thái Lan cịn tập
trung phát triển cơng nghiệp. Chính phủ đã có sự kết hợp khéo léo giữa mục tiêu
cơng nghiệp hố và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thu hút các nhà đầu tư nước
ngồi, chính phủ Thái Lan đã có những chính sách nhằm giảm thiểu chi phí đầu vào
như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá th đất chi phí
lưu thơng hàng hố, nới lỏng chính sách thuế thu nhập của người nước ngồi. Một
đặc điểm nữa trong chính sách cơng nghiệp phục vụ thu hút FDI của Thái Lan đó là
Chính phủ rất chú ý phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Thái Lan đã thành
lập ủy ban hỗ trợ về vấn đề này và cùng với các tổ chức chuyên mơn lo phát triển,
xây dựng, hình thành những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Hiện nay,
Thái Lan có tới 19 ngành cơng nghiệp phụ trợ ở ba cấp: Lắp ráp, cung cấp thiết bị –
phụ tùng – linh kiện và dịch vụ.

23


Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào miền Bắc
Việt Nam:

2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI của Nhật Bản vào Việt Nam:
2.1.1 Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam:
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội khóa XI đã thơng
qua Luật đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, áp dụng đối với nhà đầu tư trong
nước, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, và nhà đầu tư Việt Nam đầu tư
ra nước ngoài. Luật đầu tư 2005 thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngồi năm 2000 và
Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998. Sự ra đời của luật đầu tư này đã
đánh dấu sự phát triển đặc biệt của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước
ngoài. Luật đầu tư 2005 đối xử bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp, đầu tư nước
ngoài, đầu tư trong nước hay doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, Luật đầu tư 2005
đảm bảo tự do trong kinh doanh, theo đó doanh nghiệp được phép kinh doanh tất cả
những gì mà pháp luật Việt Nam không cấm, chuyển từ cách tiếp cận “các ngành
được phép” sang “danh sách loại trừ và hạn chế”. Hơn nữa, hệ thống ưu đãi đầu tư
theo hướng đơn giản hóa thủ tục cũng trở thành một điều khoản bổ sung cơ bản.
Tiếp theo sau sự ra đời của luật này, ngày 22 tháng 9 năm 2006, Nghị định
108/NĐ-CP được ban hành hướng dẫn cụ thể Luật Đầu tư 2005. Sự ra đời của bộ
luật này đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của Nhà
24


nước đối với hoạt động đầu tư. Việc ban hành Luật đầu tư 2005 đã là mốc quan
trọng trong định hướng phát triển đối ngoại Việt Nam, phù hợp với thời kỳ hội nhập
và tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động FDI tại Việt Nam cũng như thúc đẩy nền
kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
2.1.2 Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản (2003)
Ngày 7 tháng 4 năm 2003, Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Nhật Bản
Junichiro Koizumi đã thống nhất và quyết định thực hiện Sáng kiến chung Nhật
Bản - Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư và tăng cường sức cạnh tranh của

Việt Nam, đồng thời giúp giải quyết tốt các vướng mắc của các nhà đầu tư Nhật
Bản. Kế hoạch hành động Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản được thơng qua
và đã được báo cáo lên thủ tướng Chính phủ Nhật Bản, Việt Nam tại cuộc hội đàm
cấp cao Nhật Việt diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm 2003 nhân dịp Hội nghị
thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN tại Tokyo. Trong giai đoạn I thực hiện sáng kiến
chung Việt Nam – Nhật Bản (2003-2005), hai bên đã cùng nhau đề xuất 125 giải
pháp để giải quyết 44 vấn đề vướng mắc của môi trường đầu tư như: thủ tục hành
chính, đất đai, tài chính…
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, sau hai năm thực hiện, cuộc họp lần thứ hai của
Ủy ban đánh giá – xúc tiến sáng kiến chung đã được họp và tại đây đã tiến hành các
đánh giá cuối cùng về Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản. Kết quả được cơng bố
cho thấy có 105 hạng mục trong số 125 mục đã được thực hiện theo tiến độ. Kế
hoạch hành động đã thu được kết quả lớn với tỷ lệ hoàn thành đạt 85%(báo cáo việc
thực hiện sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn I, đại sứ quán Nhật Bản tại
Việt Nam).
Giai đoạn II(2005-2007), hai bên sẽ cùng nhau giải quyết 7 vấn đề lớn khác là
46 giải pháp về thuế, luật pháp, tài chính, sở hữu trí tuệ, xây dựng kết cấu hạ tầng…
25


×