Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tính Tích Cực Học Tập Trong Học Phần _Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác - Lênin_ Của Sinh Viên Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh.docx.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.78 KB, 130 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu
đồ
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP HỌC
PHẦN “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN”.......................................................... 7

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 7
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi.......................................... 7
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước.........................................13
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tích cực học tập.......................... 16
1.2.1. Tính tích cực..................................................................................16
1.2.2. Tính tích cực học tập......................................................................... 22
1.2.3. Tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin”................................................................ 28
1.2.4. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh viên............................................... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP HỌC PHẦN
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN” CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 40
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng..............................................................40
2.1.1. Bước khảo sát thăm dò....................................................................40


2.1.2. Bước khảo sát thực trạng.................................................................41


2.2. Vài nét về trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố

Hồ

Chí Minh................................................................................................42
2.3. Đặc điểm đặc thù của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
thành phố Hồ Chí Minh.........................................................................43
2.4. Việc giảng dạy học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin” ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh................................................................................................44
2.5. Kết quả khảo sát thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh............................. 44
2.5.1. Kết quả đánh giá về tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh..................... 44
2.5.2. Những yếu tố tác động đến tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của
sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh....................................................................................... 61
2.5.3. Kết quả học tập học phần của sinh viên trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.................................................. 76
2.6. Đề xuất biện pháp phát huy tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin” của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh............................. 78
2.6.1. Cơ sở đề xuất biện pháp.................................................................. 78
2.6.2. Đề xuất một số biện pháp cụ thể..................................................... 78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................91
PHỤ LỤC

1


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:

Yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của sinh viên

Bảng 2.2:

Hoạt động của sinh viên đối với học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”

Bảng 2.3 : Xếp hạng các yếu tố theo tầm quan trọng
Bảng 2.4:

49
52
61

Ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập của sinh viên
63

Bảng 2.5:

Đánh giá của sinh viên về các yếu tố


Bảng 2.6:

Tầm ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập học phần

Bảng 2.7:

65

của sinh viên

66

Các yếu tố hội tụ nên một giờ giảng tích cực hóa người học

68

Bảng 2.8:
Tầm ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực học tập học phần
Bảng 2.9:

của sinh viên

68

Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên

69

Bảng 2.10: Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên


73

Bảng 2.11: Mức độ thực hiện hoạt động dạy của giảng viên

74

Bảng 2.12: Kết quả học tập của sinh viên

77

Bảng 2.13: Học lực của sinh viên

77

Bảng 2.14: Các biện pháp phát huy tính tích cực của sinh viên.

80

Bảng 2.15: Mức độ cần thiết của việc áp dụng các yếu tố

81

Bảng 2.16 : Biện pháp phát huy tính tích cực học tập của sinh viên

84


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Tầm quan trọng của học phần


45

Biều đồ 2.2 : Học phần là nền tảng cho môn học sau

46

Biểu đồ 2.3 : Học phần đem đến hiểu biết lịch sử, chính trị, xã hội

47

Biểu đồ 2.4 : Học phần giúp hình thành thế giới quan cho sinh viên

47

Biểu đồ 2.5 : Việc đến lớp của sinh viên

50

Biểu đồ 2.6 : Mức độ thực hiện việc phát biểu xây dựng bài của sinh viên 51
Biểu đồ 2.7 : Mức độ tập trung trong giờ học của sinh viên

55


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đà đi lên hội nhập với nền kinh tế thế giới, nội
lực mạnh mẽ phải kể đến là nhờ có đội ngũ trẻ đang được sử dụng ngày một
hiệu quả. Những sản phẩm của giáo dục chính là nguồn nhân lực dồi dào cho

đất nước, như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy rằng: “Một năm bắt đầu
bằng mùa xuân, đời người bắt đầu bằng tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội”.
Sinh viên là những tri thức tương lai của đất nước, họ là những người
đóng vai trị chủ chốt trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Thế kỷ XXI là thế kỷ
của văn minh trí tuệ, sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên rất cần những con
người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp nhận cái mới
rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh
chóng của xã hội hiện đại. Họ cũng là những người làm chủ vận mệnh của đất
nước tương lai. Với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng
bước hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, trong những năm gần đây chính
phủ đã khơng ngừng gia tăng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và cải cách
giáo dục, tạo môi trường thuận lợi để sinh viên tham gia học tập.
Tuổi trẻ là nền tảng cho một đời người. Với những sinh viên, những
người đang ngồi trên ghế giảng đường Đại học, đây là khoảng thời gian vô
cùng quan trọng để tích lũy lâu dài kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư
duy và bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát này, con người trưởng thành và
bước vào đời. Nếu điểm xuất phát tốt họ sẽ đạt được những bước đi dài ổn
định và vững chắc trong tương lai, ngược lại con đường đi sẽ gặp khó khăn
trở ngại. Do đó, vấn đề học tập của người sinh viên mà đặc biệt là sự thích
thú, tích cực và sáng tạo trong học tập sẽ là yếu tố quyết định đến sự thành đạt
trong tương lai.


Trước những khó khăn, thử thách mà cuộc sống mới đặt ra, người sinh
viên càng phải thể hiện tính chủ động tích cực của mình khơng chỉ trong hoạt
động học tập ở nhà trường mà trong hoạt động sống nói chung. Tính tích cực
học tập là chủ đề được nhiều trường Đại học hiện nay quan tâm vì nó như một
minh chứng phản ánh tình hình học tập của sinh viên và trên cơ sở đó có thể
dự đốn được kết quả học tập của sinh viên. Từ đó có thể hình dung ra chất

lượng đầu ra của nhà trường.
Thực tế cho thấy nhiều nhà tuyển dụng cho rằng sinh viên sau khi tốt
nghiệp còn thiếu nhiều tri thức và kỹ năng cần thiết cho công việc một phần là
do sinh viên thiếu tích cực trong học tập và hoạt động sống nói chung ngay từ
khi cịn ngồi trên ghế giảng đường. Vì thế việc tìm hiểu tính tích cực trong
học tập của sinh viên là điều rất cần thiết.
Trong quá trình học tập tại Đại học hầu hết sinh viên các trường đều
phải học tập các môn thuộc chương trình đại cương, và một trong những mơn
học đại cương mà các em sinh viên chưa tìm được sự hấp dẫn thực sự đó là
học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”. Đây không
chỉ là học phần bắt buộc về mặt đào tạo chính quy mà nó cịn có ý nghĩa trang
bị cho người học những kiến thức nền tảng cho việc nhận thức ở mức độ cao
hơn về các mơn học nói riêng và về tự nhiên và xã hội nói chung. Do đó việc
học tập mơn học này một cách tích cực sẽ đem lại hiệu quả cho người học
trong việc đánh giá, nhìn nhận, tư duy logic và là tiền đề thuận lợi cho một kỹ
sư hay một giáo viên kỹ thuật trong tương lai.
Thực tế cho thấy, sinh viên kỹ thuật hiện nay chưa thực sự u thích
các mơn học xã hội nói chung và học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin” nói riêng mặc dù các em đã ý thức được phần nào tầm
quan trọng của nó. Vì thế việc tìm hiểu về tính tích cực học tập học phần này
là việc làm cần thiết không chỉ đối với việc phát triển nhận thức cho người


học mà cịn có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược phát triển toàn diện
người học của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh
Tính tích cực học tập của sinh viên đã có nhiều tác giả nghiên cứu
nhưng nghiên cứu về tính tích cực học tập đối với học phần “Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh thì chưa có ai nghiên cứu.
Từ những lý do nêu trên, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tính

tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin” của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài đề xuất một số
biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mac – Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
● Đối tượng nghiên cứu:
Tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh.
● Khách thể nghiên cứu:
- 330 sinh viên thuộc các Khoa: Điện – Điện Tử, Cơ Khí Động Lực, Cơ Khí
Chế Tạo Máy, Cơng Nghệ Thơng Tin, Hóa Thực Phẩm, Cơng Nghệ May
& Thiết Kế Thời Trang.
- Giảng viên khoa Lý luận chính trị.


4. Giả thuyết nghiên cứu
- Sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật hiện nay đã thể hiện được
tính tích cực học tập đối với học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác –Lênin” nhưng chưa cao.
- Có nhiều yếu tố khách quan có tác động đến tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin” nhưng yếu tố về nội
dung chương trình và phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác động
trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
- Khảo sát thực trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh và xác định các yếu tố chủ quan và khách
quan tác động đến tính tích cực học tập học phần. Từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập học phần cho sinh viên
trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài chỉ đề cập đến các chỉ báo thuộc về mặt nhận thức, thái
độ và biểu hiện hành vi của sinh viên trong tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
- Khách thể khảo sát: sinh viên thuộc các Khoa: Điện- Điện Tử, Cơ Khí Chế
Tạo Máy, Cơng Nghệ Thông Tin và Công Nghệ May - Thiết Kế Thời
Trang và giảng viên khoa Lý luận chính trị.
- Thời gian nghiên cứu: đề tài được thực hiện từ tháng 1/2012 đến tháng
8/2012.


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
✔ Phương pháp thu thập tài liệu:
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan và xác định được khái niệm cơng cụ
của đề tài để từ đó xác định phương pháp nghiên cứu và công cụ nghiên cứu.
Cụ thể nghiên cứu các cơng trình nghiên cứu khoa học, các tài liệu có liên
quan đến tính tích cực học tập và tính tích cực học tập của sinh viên từ nhiều
nguồn đáng tin cậy. Nhằm xây dựng đề cương nghiên cứu và làm những vấn
đề lý luận làm cơ sở công cụ cho các giai đoạn nghiên cứu sau.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Sử dụng các bảng hỏi dành cho sinh viên và bảng hỏi dành cho giảng
viên nhằm tìm hiểu những biểu hiện của tính tích cực học tập của sinh viên và
những nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến tính tích cực học
tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh
viên.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn sinh viên và giảng viên ngẫu nhiên và bất kỳ về các nội
dung đã chuẩn bị trước liên quan đến biểu hiện của tính tích cực đối với học
phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” và những ngun
nhân của nó nhằm thu thập thơng tin.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Thực hiện quan sát theo mẫu phiếu nhằm thu thập thông tin một cách
khách quan thông qua việc quan sát hoạt động học tập của sinh viên trong giờ
học ở trên lớp.
7.3. Phương pháp thống kê: sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử
lý số liệu đã thu thập từ các phương pháp trên.


8. Đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần:
8.1. Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về tính tích cực học tập học phần
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”
8.2. Đưa ra những minh chứng cho việc nhìn nhận và đánh giá về thực
trạng tính tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ
Thuật hiện nay.
8.3. Là căn cứ để đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc phát huy tính
tích cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin” của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật hiện
nay.

9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 2 phần chính:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý luận về tính tích cực học tập học phần “Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát huy tính tích
cực học tập học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin” của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh.
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
HỌC PHẦN “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN”
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Những nghiên cứu về tính tích cực học tập của các tác giả trên thế giới
chủ yếu xuất hiện trong các tác phẩm nghiên cứu về Tâm lý học hoạt động và
nhân cách…Có thể thấy trong các trường phái Tâm lý học, các tác giả đã
nghiên cứu về tính tích cực ở mặt nguồn gốc, nội dung và biểu hiện. Theo
trường phái Tâm lý học Hoạt động, Tác giả A.N.Lêơnchiep cho rằng: nếu
khơng có hoạt động thì cá nhân khơng thể tồn tại trong mơi trường tự nhiên và
xã hội. Tính tích cực của cá nhân được bộc lộ, nảy sinh và hình thành trong
hoạt động [23].
Thuyết Hành vi mới của Tolman cho rằng tính tích cực chỉ là tính kiên
trì đạt tới mục đích và tính tích cực này được xem xét trong mối liên hệ nhân

quả của khách thể và mục đích. Cịn Skinner lại cho rằng tính tích cực của chủ
thể được tạo ra trong hệ thống hành vi, một chuỗi phản ứng tạo tác nhắm tới
các củng cố đối với một nhu cầu nào đó của cơ thể.[13]
Theo X.L.Rubinxtein thì bất kỳ hoạt động nào của con người cũng xuất
phát từ chỗ nó như là một cá nhân, một chủ thể của hoạt động đó. Học tập là
một hoạt động mang tính tích cực. Nó có nguồn gốc là động cơ cá nhân. Nó là
q trình thích nghi của cơ thể với mơi trường. Nó chính là sự chuyển hóa các
kích thích của mơi trường thành tính cách của cá nhân. Nó là q trình tái tạo
những năng lực và chức năng người ở thế hệ trước, ở nhân loại thành cái riêng
của học sinh [dẫn theo 16].
A.N.Lêônchiep cho rằng hoạt động có đối tượng thực hiện mối liên hệ
giữa chủ thể và thế giới xung quanh bao giờ cũng là hoạt động có chủ thể.


Tính chất có chủ thể của tồn tại sống trước hết biểu hiện trong tính tích cực
của chủ thể, như vậy tính tích cực của chủ thể chính là việc chủ thể vươn tới
chiếm lĩnh đối tượng và thực hiện một cách đam mê [10].

Học tập là một

hoạt động đòi hỏi tính tích cực của chủ thể trong q trình cá nhân chiếm lĩnh
tri thức.
K.D.Usinxki cho rằng cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả
là tính tích cực độc lập trong q trình dạy học. Như vậy tính tích cực được
xem là hiện tượng diễn ra ở bên trong. Sự khác nhau giữa hoạt động nói
chung và tính tích cực nằm ở chỗ có hoặc khơng có hiệu quả của sự tác động
làm thay đổi cái bị tác động. Hoạt động được coi là quá trình hướng ra bên
ngồi cịn tính tích cực là q trình diễn ra ở bên trong. Do đó, tính tích cực
của hoạt động là do nhu cầu kích thích và nó hướng tới việc chủ thể tác động
vào đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể đặt ra để

thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Đối tượng của hoạt động học tập là tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo…chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu nhận thức, học tập
của con người nên nó trở thành động cơ đích thực thúc đẩy con người tích cực
học tập [ dẫn theo 3].
Trong tác phẩm “Dạy trẻ học”, tác giả Robert Fisher đã giới thiệu cơng
trình nghiên cứu 10 chiến lược dạy học và đưa ra khung hình cho một chính
sách học tập tích cực cho học sinh, sinh viên. Đó là “1. Tư duy để học; 2. Đặt
câu hỏi; 3. Lập kế hoạch; 4. Thảo luận; 5. Vẽ sơ đồ nhận thức; 6. Tư duy đa
hướng; 7. Học tập hợp tác; 8. Kèm cặp; 9. Kiểm điểm; 10. Tạo nên một cộng
đồng học tập”. Tác giả đã nêu lên cách thức học tập hiệu quả và một hệ thống
bài tập để học sinh, sinh viên bộc lộ, hình thành và phát triển cách thức học
tập đó đồng thời tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của nhân loại và
biến nó thành kiến thức của bản thân [31].


V. Ơcơn trong tác phẩm “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề”
cho rằng tính tích cực là lịng mong muốn hành động được nảy sinh một cách
khơng chủ định và gây nên những biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của sự
hoạt động [30].
Theo Kharlamơp: "Tích cực trong học tập có nghĩa là hồn thành một
cách chủ động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến và đầy
hào hứng, những hành động trí óc và tay chân nhằm nắm vững kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo, vận dụng chúng vào học tập và thực tiễn.". Như vậy tích cực là
một đức tính quý báu rất cần thiết cho mọi quá trình nhận thức, là nhân tố
quan trọng tạo nên hiệu quả dạy học [20].
Theo quan điểm của các nhà Triết Học cổ đại thì tính tích cực là sự thỏa
mãn của cơ thể với mơi trường. Theo quan điểm của Democrit (460-370
TCN) thì tính tích cực chịu sự tác động của các trạng thái tâm lý bên trong.
Theo quan điểm của Platon (428- 348 TCN) thì ý thức ln mang tính tích
cực. Theo quan điểm của Arixtole (384-322 TCN) thì tính tích cực xuất phát

từ quá trình thỏa mãn của cơ thể đối với khách thể bên ngồi và mang tính tự
nhiên. Ơng giải thích bản chất của lý trí và tính tích cực của lý trí bằng
phương pháp quyết định luận. Ơng cho rằng tính tích cực của chủ thể thể hiện
ở việc cải tạo lại các hình thức của sự vật. như vậy tính tích cực gắn với việc
tạo ra các sự vật hiện tượng [13].
Các nhà Triết học Duy vật về sau như C.Mác, Ph.Ăngghen, B.A.
Bronơvic [13], …khi nói về tính tích cực đều cho rằng tính tích cực là thuộc
tính chung của vật chất, là sự tự biểu hiện của hoạt động, gắn liền với sự phát
triển. Tính tích cực có 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn
chuyển biến từ tính cực là thuộc tính chung của vật chất đến tính tích cực là
đặc trưng của từng sự vật. Nó đảm bảo sự sống, tự tồn tại của sự vật, trong đó
sự khác biệt giữa hoạt động của loài người và hành vi của lồi vật là tính tích


cực của con người gắn với sự sáng tạo trên cơ sở nhận thức và thích nghi từ tự
nhiên đến xã hội. Tính tích cực nhấn mạnh tính chủ thể của sự vật.
Giai đoạn tiếp theo là sự vận động tự thân của sự vật hiện tượng nhằm
thoát khỏi trạng thái nằm yên, quân bình để tạo ra những biến đổi mới. Lúc
này tính tích cực thể hiện trong sự biến đổi trong mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể.
Cuối cùng, tính tích cực là sự biến đổi các trạng thái bên trong dưới ảnh
hưởng của các tác động bên ngoài. Như vậy, sự vật hiện tượng nào cũng chứa
đựng tính tích cực và nhờ tính tích cực mà sự vật hiện tượng khơng ngừng
phát triển. Nó là động lực thúc đẩy bên trong của mỗi sự vật hiện tượng.
Bên cạnh đó các nhà Tâm lý học Xơ Viết cịn đưa ra 4 xu hướng về tính
tích cực [10].
Xu

hướng thứ nhất, với các đại diện như: V.P.Ditrencô,


V.L.Rômanốp…cho rằng sự phát triển tính tích cực là sự phức tạp hóa các
chức năng của tính tích cực của chủ thể [10]. Biểu hiện đầu tiên của tính tích
cực là tính chủ định trong ý thức của chủ thể đối với thế giới bên ngồi. Mặt
khác tính tích cực của con người gắn với việc tiêu hao năng lượng trong hoạt
động, do đó tính tích cực ln gắn với hoạt động sinh lý và hoạt động tâm lý.
Hơn thế nữa tính tích cực là sự sáng tạo của chủ thể đối với thế giới bên
ngoài.
Xu hướng thứ hai, với các đại diện như: P.I.Ganpêrin, A.Aliublinxkaia,
B.G.Iarơxepxki…cho rằng tính tích cực được thể hiện trong mức độ lĩnh hội
hành động. Ganpêrin [10 ] đưa ra 4 mức độ hành động thể hiện mức độ của
tính tích cực như sau:
1. Mức độ hành động đầu tiên chưa có tính tích cực.
2. Mức độ hành động sinh lý, bắt đầu có tính tích cực và được thể hiện
thông qua điều chỉnh hành động và tác động vào nguồn gốc phát sinh


hành động.
3. Mức độ hành động mang tính chủ thể, thể hiện tính tích cực rõ nét trong
việc thích nghi của chủ thể đối với điều kiện và hoàn cảnh mới.
4. Mức độ hành động của con người mang tính xã hội với sự ý thức rõ
ràng và đầy đủ về hành động xã hội của mình.
Theo Liublinxkaia [10] có 3 mức độ thể hiện tính tích cực. Đó là:
1. Hành động bắt chước
2. Hành động theo mẫu
3. Hành động độc lập và sáng tạo.
Như vậy tính tích cực của con người luôn gắn với hoạt động và mức độ
của nó tăng dần theo sự thích nghi và trưởng thành làm chủ của con người đối
với tự nhiên và xã hội. Trong đó mức độ cao nhất là hành động mang tính
sáng tạo và độc lập, gắn với việc tạo ra cái mới được nảy sinh từ sự nỗ lực và
phát huy khả năng làm việc trí não của chủ thể.

Xu hướng thứ 3, với các đại diện như: M.I.Lixina, A.N.Lêơnchiep,
A.V.Dapơrơzet…[ 11] đưa ra biểu hiện của tính tích cực, đó là:
1. Tính tích cực ln gắn với hành động cụ thể.
2. Tính tích cực phản ánh sự sẵn sàng thực hiện nhu cầu của chủ thể.
3. Nhu cầu là nguồn gốc và tạo ra động lực cho tính tích cực. Khơng có
nhu cầu thì khơng có tính tích cực.
Như vậy theo xu hướng thứ 3 thì tính tích cực chỉ là sự sẵn sàng và nỗ
lực thực hiện các nhu cầu của bản thân chủ thể mà chưa có sự đánh giá về tính
chất của nhu cầu và cấp độ của nhu cầu.
Xu hướng thứ 4, với các đại diện: L.M.Ackhanghenxki (Liên Xô),
R.Mile (CHDC Đức), I.A.Nhetophilic (Tiệp Khắc), M.Mikhalich (Ba Lan),
I.Lich (Hungary) [1] cho rằng tính tích cực có 4 chỉ số là:
1. Tính giá trị của hành động và tính tự nguyện.


2. Tính hiệu quả của hoạt động mà tính tích cực hướng tới.
3. Tính sáng tạo trong hoạt động
4. Tính phát triển.
Có thể nói theo xu hướng thứ 4, tính tích cực được phân định theo 4 chỉ
số nhấn mạnh đến tính chủ thể và tính sáng tạo trong hoạt động. Đây là những
yếu tố nằm bên trong chủ thể và nó do chủ thể quyết định.
Kết luận về 4 xu hướng trên theo các nhà Tâm lý học Xô Viết có thể
thấy tính tích cực được bàn đến ở đây có các dấu hiệu như: ln gắn với hoạt
động cụ thể của con người, nhu cầu là nguồn gốc bên trong của tính tích cực,
ln gắn với tính chủ động của chủ thể và kết quả của hoạt động phản ánh
mức độ của tính tích cực.
Các nhà Triết học Mácxít thừa nhận rằng con người có khả năng nhận
thức được thế giới và con người. Tính tích cực của con người được thể hiện
trong việc chinh phục, cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
V.I.Lênin khẳng định “Tính tích cực là thái độ cải tạo thế giới của chủ

thể đối với khách thể, đối với đối tượng, sự vật xung quanh, là kinh nghiệm
của mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh nhân cách và năng
lực của họ thông quan các mối quan hệ xã hội” [22].
C.Mác cho rằng bản chất của con người mang tính lịch sử xã hội và
tính tích cực hoạt động. Trong đó Mác nhấn mạnh tính tích cực hoạt động của
con người là phương thức để con người tồn tại và con người hoạt động tích
cực sẽ đem lại sự hoàn thiện của giác quan. Kết quả của hoạt động hay sản
phẩm lao động sẽ phản ánh tính tích cực của chủ thể. Nó phản ánh các phẩm
chất tâm lý của chủ thể [26].
S.Freud cho rằng tính tích cực của con người được hiểu như một sức
mạnh tự nhiên giống như bản năng động vật. Ông nhấn mạnh 3 khối của đời
sống tinh thần của con người là khối cái tơi, cái nó, cái siêu tơi trong đó cái nó




cái vơ thức có sức mạnh ghê gớm trong việc thúc đẩy con người hoạt

động để thỏa mãn nhu cầu của bản thân [13].
Theo quan điểm của thuyết Hành vi thì cơng thức S-R (stimulate –
reaction) có ý nghĩa chứng tỏ tính tích cực của con người là hành vi mang tính
máy móc nhằm đáp trả lại những kích thích từ mơi trường. Con người bị bỏ
qn tính ý thức trong việc lựa chọn các kích thích cũng như mức độ tích cực
của việc đáp trả, điều chỉnh hoạt động [13].
Các nhà Tâm lý học Mácxít lại cho rằng ý thức, tâm lý người bao giờ
cũng mang tính tích cực, hơn nữa, tính tích cực này là tính tích cực hoạt động
đặc thù người, nghĩa là nó mang tính chất say sưa vì nó ln gắn bó với sự
thực hiện mục đích của hoạt động. Theo quan điểm của họ, cuộc sống của con
người là một chuỗi các hoạt động ln ln thay thế lẫn nhau. Tính tích cực
của con người là sự tác động vào thế giới tự nhiên và xã hội để làm chủ thế

giới đó. Tính tích cực của con người được thể hiện ở những hoạt động muôn
màu, muôn vẻ và đa dạng nhằm biến đổi, cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo
bản thân con người và những đặc trưng tâm lý của con người [13].
Như vậy các nhà nghiên cứu đều cho rằng tính tích cực của học sinh
được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động và được thể hiện
trong kết quả của hoạt động. Đó là sự chiếm lĩnh đối tượng dựa trên cơ sở huy
động các chức năng tâm lý ở mức độ cao.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước
Các Tác giả trong nước khi nghiên cứu về tính tích cực học tập thường
đứng ở các góc nhìn khác nhau về nguồn gốc và các thành tố tâm lý của tính
tích cực. Các nhà Tâm lý học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Phạm Tất
Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Ngơ Cơng Hồn đều cho rằng
tính tích cực là thuộc tính của nhân cách, nó bao gồm các thành tố tâm lý như
nhu cầu, động cơ, hứng thú, niềm tin…và được biểu hiện trong hoạt động đa


dạng nhằm cải tạo và chinh phục tự nhiên, xã hội và bản thân con người [9].
Tác giả Hoàng Thị Tuyết trong bài viết về “Đặc điểm tâm lý của tính
tích cực” đã phân tích và làm rõ hoạt động tích cực học tập, những biểu hiện
của tính tích cực về mặt nhận thức, tình cảm, xúc cảm…đồng thời cũng đưa
ra các nhân tố giáo dục có ảnh hưởng đến việc phát huy tính tích cực nhận
thức của người học [ 35 ].
Tác giả Ngơ Thị Dung cho rằng tính tích cực là tồn bộ những biểu
hiện của sự hoạt động cá nhân riêng lẻ có mục đích thỏa mãn nhu cầu của
riêng mình. Như vậy có hoạt động là có tích cực. sự khác nhau về tính tích
cực giữa các cá nhân là ở mức độ tính tích cực cao hay thấp. Mức độ tính tích
cực phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân. Về bản chất tính tích cực học tập là trạng
thái các mức độ sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập để đạt được mục tiêu
hoạt động cá nhân và cùng giải quyết nhiệm vụ học tập chung của tập thể, của
nhóm [ 7 ].

Tác giả Thái Duy Tuyên trong tác phẩm “Phát huy tính tích cực hoạt
động nhận thức của người học” đã nhấn mạnh những nhân tố ảnh hưởng đến
tính tích cực nhận thức của học sinh [ 34 ].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng: con người là chủ thể của hoạt
động và con người càng tích cực hoạt động thì tính chủ thể càng cao và do đó
con người sẽ dần dần hồn thiện [36].
Trong luận án Phó tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Thức với đề tài
“Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động
vui chơi” đã làm rõ cơ sở lý luận của tính tích cực và tính tích cực giao tiếp
đồng thời đi sâu vào nghiên cứu đối tượng trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi để đưa ra
những minh chứng cho việc thể hiện tính tích cực giao tiếp của chúng trong
hoạt động vui chơi [33].


Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh rằng: bí quyết quan
trọng nhất là phương pháp học tập, người dạy phải làm cho học sinh, sinh
viên luôn suy nghĩ, huy động tiềm năng của chúng cịn người học thì phải say
mê, kiên trì, học có phương pháp và biết tư duy hiệu quả [8].
Tác giả Đặng Vũ Hoạt cho rằng tính tích cực biểu hiện ở chỗ huy động
ở mức độ cao các chức năng tâm lý, đặc biệt là chức năng tư duy. Trong đó sự
kết hợp thống nhất giữa các yếu tố tâm lý nhận thức, tình cảm và ý chí càng
linh hoạt bao nhiêu thì tính tích cực càng cao bấy nhiêu [16].
Có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn
Văn Thàng, Phan Trọng Ngọ, Phạm Thành Nghị đã khẳng định hoạt động học
tập là một quá trình nhận thức tích cực. Đó là hoạt động đặc thù chỉ có ở con
người nhằm lĩnh hội tri thức nhân loại và chuyển thành tâm lý, ý thức của bản
thân nên muốn đạt được mục đích dạy học thì phải tạo ra được tính tích cực
học tập. Các tác giả cũng chỉ ra việc hình thành tính tích cực học tập ở học
sinh, sinh viên là quá trình hình thành hoạt động học ở họ [14].
Tác giả Trần Bá Hoành lại cho rằng tính tích cực học tập của học sinh,

sinh viên nằm ở khát khao khoa học hay nêu lên thắc mắc, sự tập trung chú ý
hay tinh thần vượt khó để đạt được mục đích. Biểu hiện của tính tích cực
được thể hiện ở những mức độ khác nhau : tìm tịi, tái tạo và sáng tạo [15].
Tác giả Lê Thị Xuân Liên trong bài báo“ Phát huy tính tích cực của học
sinh, sinh viên trong dạy toán học ở các trường Cao Đẳng Sư Phạm” đã đưa ra
các hình thức biểu hiện của tính tích cực sau khi phân tích đặc điểm và
phương diện của tính tích cực được thể hiện trong các dạng hoạt động phong
phú và đa dạng [21].
Luận án Tiến Sỹ Giáo Dục Học của Tác giả Nguyễn Thị Hường với đề
tài “Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh bằng quan sát kết hợp
thảo luận nhóm trong dạy học mơn Tự nhiên và Xã hội ở bậc Tiểu học” đã


đưa ra dấu hiệu nhận biết về tính tích cực học tập của học sinh [19].
Luận án Tiến Sỹ Tâm lý học của Tác giả Đỗ Thị Coỏng với đề tài
“Nghiên cứu tính tích cực học tập mơn Tâm lý học của sinh viên Đại Học Sư
Phạm Hải Phòng” đã nghiên cứu các vấn đề thuộc về mặt nhận thức, biểu
hiện hành vi trong hoạt động học và mối quan hệ giữa tính tích cực học tập và
kết quả mơn học [4].
Như vậy trong các cơng trình nghiên cứu của mình các tác giả chủ yếu
đề cập đến tính tích cực học tập của sinh viên là sự say mê, tìm tịi, khám phá
tri thức vì vậy người dạy phải có phương pháp thích hợp để kích thích tính
chủ động và phát triển óc sáng tạo cho người học.
Xét riêng về những cơng trình nghiên cứu về tính tích cực học tâp học
phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” thì chỉ có một số
đề tài nghiên cứu về tính tích cực học tập các mơn Lý Luận Chính Trị nói
chung. Như vậy việc nghiên cứu tính tích cực học tập học phần “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” của sinh viên là việc làm cần
thiết và có tính thiết thực, đặc biệt là việc đi sâu vào việc tìm hiểu các thành
phần cơ bản của tính tích cực như nhận thức, thái độ và hành vi học tập của

sinh viên để từ đó kích thích họ tích cực hơn với học phần này.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tích cực học tập
1.2.1. Tính tích cực
1.2.1.1. Khái niệm về tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt [39] tính tích cực bao gồm 3 nghĩa:
Một là, có ý nghĩa có tác dụng khẳng định thúc đẩy sự phát triển trái
với tiêu cực.
Hai là, có tính chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra biến đổi theo
hướng phát triển.
Ba là, có sự hăng hái nhiệt tình với nhiệm vụ với công việc.


Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã coi cá nhân là sản
phẩm của quan hệ xã hội và cho rằng cá nhân tích cực tác động vào đời sống
xã hội và trở thành con người hoạt động làm phát triển xã hội. tính tích cực
thể hiện ở sức mạnh của con người trong việc chinh phục và cải tạo thế giới tự
nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Theo V.I. Lênin tính tích cực là
thái độ cải tạo của chủ thề đối với khách thể, đối với đối tượng xung quanh; là
khả năng của mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh nhu cầu,
năng lực của họ thông qua các mối quan hệ xã hội [22]. Đây là cơ sở phương
pháp luận để chúng tơi nghiên cứu tính tích cực học tập của sinh viên đối với
học phần “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”
Theo Tâm lý học Mácxít thì tính tích cực của con người được xem xét
trên lập trường quyết định luận xã hội. tính tích cực được đề cập đến và nhấn
mạnh như là một đặc điểm của sinh vật sống, là động lực đặc biệt của mối liên
hệ giữa sinh vật sống, hoàn cảnh, là khả năng đặc biệt của tồn tại sống giúp cơ
thể thích ứng với mơi trường [26].
Tính tích cực gắn liền với hoạt động và hoàn cảnh bên ngồi, nó được
biểu hiện như sau:
- Gắn liền với sự hoạt động được thể hiện như là động lực để hình

thành và hiện thực hóa hoạt động.
- Thể hiện ở sự thích ứng một cách chủ động với hồn cảnh, mơi
trường sống bên ngồi.
Như vậy tính tích cực được nghiên cứu trong mối quan hệ với hoạt
động, nó làm xuất hiện động lực thúc đẩy con người hoạt động hiệu quả. Vì
vậy tính tích cực có các tính chất sau:
- Hoạt động phản ứng của chủ thể với môi trường.
- Hoạt động ý chí thể hiện tính độc lập của chủ thể đối với mơi trường.
- Tính chất vượt khó khăn, trở ngại trong mọi hồn cảnh theo mục đích


của chủ thể.
-

Tính ổn định bền vững của hoạt động tạo thành kiểu phản ứng của

chủ thể đối với môi trường [26].
Xét về mặt Tâm lý học theo quan điểm tiếp cận hoạt động - nhân cách


giao tiếp có thể khái qt về tính tích cực của cá nhân có nội dung tâm

lý cơ bản là :
- Tính tích cực gắn liền với hoạt động hay nói cách khác tính tích cực phải
thể hiện trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những hành
động, hành vi cụ thể của con người.
- Tính tích cực để chỉ nhu cầu sẵn sàng với hoạt động, là nhu cầu của chủ
thể đối với hoạt động. Nhu cầu chính là nguồn gốc của tính tích cực.
- Tính tích cực để chỉ tính chủ động, hành động một cách có ý thức theo chủ
ý của chủ thể. Nó đối lập với tính thụ động và bị động.

Từ những phân tích trên, chúng tơi nhận thấy có khá nhiều quan điểm
về tính tích cực song tựu chung lại có thể khai thác tính tích cực với các đặc
điểm sau: tính tích cực ln gắn với hoạt động, nảy sinh và phát triển trong
hoạt động của con người, nó phản ánh tính chủ động, sự nỗ lực, cố gắng, tự
giác và sự sáng tạo của chủ thể mà kết quả cao nhất của nó là sự chiếm lĩnh
đối tượng, sự sảng khoái về tinh thần trong hoạt động có mục đích của chủ
thể. Tính tích cực của cá nhân là một thuộc tính của nhân cách được đặc
trưng bởi sự chi phối mạnh mẽ của các hành động đang diễn ra đối với đối
tượng, tính bền vững tương đối của hành động trong sự tương quan với mục
đích đã thơng qua. Tính tích cực thể hiện ở sự nỗ lực cố gắng của bản thân, ở
sự chủ động, tự giác và cuối cùng là kết quả cao của hoạt động có mục đích
của chủ thể.
1.2.1.2. Nguồn gốc và sự phát triển của tính tích cực
C.Mác cho rằng bản chất của con người được thể hiện trong hoàn cảnh


xã hội và chính hồn cảnh đã tạo ra con người. Nhưng đồng thời Mác cũng
khẳng định: trong một chừng mực nhất định con người cũng tạo ra hoàn cảnh.
Như vậy hoàn cảnh sống của con người quyết định đến sự hình thành các đặc
điểm tâm lý và góp phần thúc đẩy con người hoạt động tích cực. Mặt khác
hồn cảnh tạo ra mục đích để con người vươn tới và nỗ lực để thực hiện mục
đích đó của mình [26]
Nói cách khác, để tồn tại trong hồn cảnh sống đó, con người phải hoạt
động vì hoạt động là phương thức tồn tại của mỗi cá thể sống.
Xét riêng trong bản thân con người có nhiều dạng hoạt động khác nhau
trong đó hoạt động tâm lý là quan trọng nhất. Đó là hoạt động nhận thức của
con người. V.I.Lênin đã nhận xét về tính chất tích cực, sáng tạo của hoạt động
nhận thức rằng: ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà
còn tạo ra thế giới khách quan [22].
Trong cuộc sống, con người không chỉ phản ánh đơn thuần và máy móc

các hiện tượng trong thế giới khách quan mà còn chủ động lựa chọn việc phản
ánh theo mục đích của mình. Đó là tính chủ thể của con người, nó là lăng kính
để chuyển biến thế giới khách quan vào đầu óc con người và điều diễn ra
trong đó khơng thực sự lặp lại ở cá nhân khác. Đó là bản sắc riêng của mỗi cá
nhân vì thế tính tích cực trong mỗi cá nhân khơng thực sự giống nhau. Ngồi
ra, sự vật hiện tượng mang một ý nghĩa nào đó thiết thực đối với cá nhân sẽ
gây ra ở cá nhân có thái độ tích cực trong việc nhận thức và chiếm lĩnh.
N.F.Đơbrưnin [10] đã vạch rõ tính chất biện chứng trong mối quan hệ giữa ý
nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân, giữa ý nghĩa chủ quan và ý nghĩa khách
quan. Và trong đó ý nghĩa khách quan mà chuyển biến thành ý nghĩa chủ quan
thì sức mạnh của ý nghĩa đó tăng lên gấp bội, trở thành động lực để thúc đẩy
con người hoạt động một cách tích cực. Đó là nhu cầu của con người.


Bàn về nhu cầu của con người thì nhu cầu bao gồm nhu cầu vật chất và
nhu cầu tinh thần. Nhu cầu là cái cơ sở, khởi đầu cho con người trong quá
trình hoạt động. Con người khởi đầu từ nhu cầu cụ thể rồi chuyển thành hành
động để thỏa mãn nhu cầu và tiếp tục nảy sinh nhu cầu khác. Nhu cầu thể hiện
sự sáng tạo trong ý thức của con người.
Mặt khác, cái thôi thúc con người hoạt động khơng chỉ có nhu cầu bản
thân cá nhân mà còn là sự đánh giá của xã hội trong quá trình cá nhân hoạt
động để thỏa mãn nhu cầu. Việc đánh giá tốt của xã hội biểu thị một dư luận
lành mạnh của tập thể sẽ kích thích mạnh mẽ và có thể là nguồn gốc thúc đẩy
tính tích cực hoạt động của cá nhân. Lý tưởng và niềm tin của cá nhân sẽ giúp
cá nhân kiên định với mục tiêu để vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Sự phác
họa trong trí tưởng tượng về một tương lai tươi sáng sẽ giúp cá nhân hoạt
động có ý thức hơn và có kết quả cao hơn.
Sự phát triển mạnh mẽ của việc thỏa mãn nhu cầu hình thành nên hứng
thú của con người đối với hoạt động. Hứng thú là cơ sở hình thành nên động
cơ và động cơ có tác dụng kích thích lớn lao đối với tính tích cực của con

người.
Như vậy nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu, hứng thú, động cơ
nằm ngay trong hoạt động của mỗi cá nhân. A.G.Côvaliốp [5] đã nhấn mạnh
vai trị của nhu cầu đối với tính tích cực: một nhu cầu đã được con người phản
ánh sẽ trở thành một trạng thái chủ quan, một thái độ của cá nhân; nó có xu
hướng điều chỉnh hành vi và hoạt động, xác định hướng suy nghĩ, tình cảm và
ý chí của người đó. Tính tích cực đã giúp hiện thực hóa nhu cầu.
Như mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan có sự phát triển,
tính tích cực của con người cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ thụ động đến chủ động sáng tạo. Tính tích cực được hình thành
và phát triển theo sự phát triển của lứa tuổi gắn với hoạt động chủ đạo của


từng lứa tuổi. Đó là sự phát triển của ý thức và tự ý thức. Hoạt động ý thức là
con đường phát triển mạnh mẽ nhất của tính tích cực. Hoạt động của con
người vốn đa dạng và một cá nhân tích cực là một cá nhân hoạt động đến mức
cao nhất.
A.G.Cơvaliốp và P.A.Ruđích khẳng định: “Tính tích cực được phát
triển và hoàn thiện nhất trong lao động. Lao động tác động đến việc hình
thành các phẩm chất của tính cách như tính bền vững của ý chí, khả năng duy
trì chú ý lâu dài vào một đối tượng hoặc một hoạt động nào đó [32].
I.M.Xêsênốp đã nhận xét ngay rằng trong tri giác, con người đã thể
hiện tính tích cực hoạt động của mình. Ơng cho rằng, chúng ta lắng nghe chứ
không phải nghe thấy, chúng ta để mắt nhìn chứ khơng phải là trơng thấy, tức
là chúng ta tích cực tìm tịi, chọn lọc và kiểm nghiệm [10].
Tóm lại, chúng ta có thể thấy q trình phát triển của tính tích cực
chính là q trình thích ứng và cải tạo của cá nhân đối với môi trường. điều
này được thể hiện trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới
khách quan của con người.
1.2.1.3. Các cấp độ của tính tích cực

Dựa vào những nghiên cứu của G.I.Shukina và Trần Bá Hồnh có thể
chia tính tích cực thành 3 loại [15] :
Thứ nhất, tính tích cực tái hiện, bắt chước: dựa vào trí nhớ để tái hiện,
thể hiện lại những gì chủ thể nhận thức được: kiến thức, thực hiện lại các thao
tác, kỹ năng.
Thứ hai, tính tích cực tìm tịi: được thực hiện bởi tư duy phê phán, thể
hiện óc sáng tạo, lịng đam mê và khao khát học tập của chủ thể. Nó khơng bị
hạn chế trong bất cứ khn khổ nào.
Thứ ba, tính tích cực sáng tạo: đặc trưng bởi sự tự khẳng định của chủ
thể bằng việc tìm ra cái mới mà không lệ thuộc vào cái cũ, cái đã được thừa


×