Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(Skkn 2023) một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi ở trường mầm non (khối 3t)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.59 KB, 24 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ
TRƯỜNG MẦM NON THỤY AN
--------------------------------

Sáng kiến kinh nghiêm
Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 3-4 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo
Cấp học: Mầm non

Tác giả

: Hoàng Thị Hạnh

Chức vụ

: Giáo viên

Đơn vị công tác : Trường mầm non Thụy An
Huyện

: Ba Vì

NĂM HỌC 2022 - 2023


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1


2. Mục đích của đề tài.......................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thực hiện đề tài.......................................1
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2
PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................3
1. Thực trạng khi chưa thực hiện.......................................................................3
a) Cơ sở lý luận
b) Cơ sở thực tiễn
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.......................................................................5
2.1. Thuận lợi....................................................................................................5
2.2. Khó khăn....................................................................................................5
2.3. Khảo sát đầu năm.......................................................................................5
3. Biện pháp thực hiện.......................................................................................6
3.1. Biện pháp 1: Xác đinh vai trò quan trọng của giáo viên trong hoạt động phát
triển ngôn ngữ.........................................................................................6
3.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc dạy trẻ với ngơn ngữ
truyền cảm của cơ và dạy trẻ nói đủ câu..................................................8
3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động.................9
3.4. Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ thơng qua việc khuyến khích trẻ mạnh dạn
trong giao tiếp..........................................................................................18
3.5 Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ...................................................................................................................21
PHẦN III: HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM............................23
PHẦN IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...........................................................23
I. Kết luận........................................................................................................23
II. Khuyến nghị và bài hoạc kinh nghiệm.......................................................24
1) Bài học kinh nghiệm...............................................................................24
2) Khuyến nghị...........................................................................................24
PHẦN V. TÀI LIỆU THAM KHẢ



PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Có thể thấy ngơn ngữ giữ một vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc sống của
con người, nó như một thước đo để đánh giá mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của
xã hội loài người, như một nhà văn người Pháp đã nói "Ngơn ngữ như là chiếc
gương để ta soi mình vào đó"
. Con người được gọi là động vật bậc cao bởi con người
có ngơn ngữ, nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể thơng báo, trao đổi thông tin với
nhau, giúp người khác hiểu mình và ngược lại từ đó làm cho mối quan hệ giữa người
với người trở nên gần gũi, thân thiết hơn.
Ở trường mầm non việc hình thành và phát triển ngơn ngữ cho trẻ đóng vai trị vơ
vùng quan trọng vì ngơn ngữ giúp trẻ phát triển tư duy, trí tuệ và các q trình tâm lý
khác. Điều này địi hỏi các bậc cha mẹ cùng thầy cô cần quan tâm, chú trong nhiều
hơn để giúp trẻ có thể phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất, đúng thời điểm nhất. Tuy
nhiên trong xã hội hiện đại, đời sống ngày càng được nâng cao đòi hỏi con người phải
lao động tích cực hơn, bận rộn hơn để mưu sinh nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của gia
đình. Chính vì vậy không phải đứa trẻ nào cũng được quan tâm, chăm lo kịp thời đúng
cách. Vì cơng việc bận rộn cha mẹ sẵn sàng đưa cho con một phương tiện hiện đại như
chiếc điện thoại, máy tính, iphone.... để con ngồi im một chỗ chơi và xem cái gì mình
thích, do khơng có thời gian họ ít đưa con đi chơi chỗ đông người... Đây là một trong
những nguyên nhân khiến trẻ bị hạn chế giao tiếp và khơng có nhu cầu giao tiếp bằng
ngôn ngữ đồng thời dẫn đến những căn bệnh của thời hiện đại: Tự kỷ, tăng động... và
khi trẻ mang những căn bệnh này thì ngơn ngữ lại càng hạn chế dẫn đến việc trẻ nhận
thức chậm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống lâu dài của trẻ…
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ đối với trẻ lứa
tuổi mầm non, đặc biệt là trẻ 3 - 4 tuổi vì đây là giai đoạn ngơn ngữ của trẻ phát triển
mạnh và địi hỏi sự chính xác khơng chỉ về câu từ mà cần đúng cả về ngữ pháp. Điều
này khiến cá nhân tơi ln suy nghĩ, tìm tịi làm sao để giúp trẻ được phát triển một
cách tốt nhất, đúng thời điểm nhất. Xuất phát từ những trăn trở đó tơi nghiên cứu, tìm
tịi, thực nghiệm giảng dạy, vận dụng sáng tạo trên lớp, tôi đã đúc kết được đề tài

"Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi ở trường mầm non"
2. Mục đích của đề tài:
Tìm ra một số biện pháp nhằm giúp 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ qua
3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ 3- 4 tuổi ở trường mầm non
Thời gian thực hiện từ tháng 9/2022 – tháng 3/2023
4. Phương pháp nghiên cứu

1/27


- Phương pháp quan sát
- Phương pháp dùng lời
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm.

2/27


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng khi chưa thực hiện
a) Cơ sở lý luận
* Ngơn ngữ có vai trị gì? Cần đổi mới hình thức tổ chức như thế nào?
Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, bởi vì sự phát
triển trí tuệ ở trẻ chỉ diễn ra khi trẻ lĩnh hội những tri thức về sự vật và hiện tượng
xung quanh, song sự lĩnh hội những tri thức đó lại khơng thể thực hiện được khi khơng
có ngơn ngữ.
Ngơn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy, trẻ có
nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh.
Để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ có rất nhiều các lĩnh vực và hoạt động khác
nhau. Nhưng hiệu quả nhất là cho trẻ tiếp cận với tác phẩm văn học.

Ngơn ngữ có vai trị quan trọng trong xã hội lồi người, cũng như đối với con
người. Theo Lênin "Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp
là một đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất". Nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau hành
động vì mục đích chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội. Mặt khác
ngơn ngữ chính là nơi chứa đựng những kho tàng văn hoá, những tri thức, những kinh
nghiệm lịch sử. Với trẻ nhỏ ngôn ngữ là phương tiện để điều khiển, điều chỉnh các
hành vi giúp trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực. Ngơn ngữ chính là
một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ nhỏ trở thành một thành viên trong xã hội
lồi người. Ngơn ngữ là một cơng cụ hữu hiệu để có thể bày tỏ nguyện vọng của mình
từ khi cịn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều
kiện quan trọng để trẻ tham gia vào hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân
cách trẻ.
Theo khái niệm của nhà giáo dục Nga "Vovremia": Giai đoạn từ 0 - 6 tuổi nhất là
giai đoạn 3 - 6 tuổi, là giai đoạn siêu tốc phát triển ngôn ngữ. Thành tựu tối ưu nhất
địi hỏi phải có sự giáo dục ngôn ngữ "kịp thời", " đúng lúc". Những thành tựu phát
triển ngôn ngữ ở giai đoạn này là rất to lớn. Trường mầm non là trường học đầu tiên, ở
đây có điều kiện, có cơ hội lớn hơn để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ.
b) Cơ sở thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao,
trẻ em ngày càng được chăm lo nhiều hơn, cẩn thận hơn đòi hỏi người giáo viên cần
đáp ứng được nhu cầu cao của xã hội. Tuy nhiên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
xã hội, các khu công nghiệp mọc lên thu hút lực lượng lao động trẻ ngày càng nhiều
và đa phần thời gian của họ đều là ở chỗ làm vì ngồi giờ hành chính họ thường tăng
3/27


ca để tăng thu nhập, trẻ con thường ở nhà với ông bà hoặc gửi ở trường mầm non. Tối
về nhà có thể do mệt mỏi, bận rộn và do trào lưu của mạng xã hội, ảnh hưởng của
công nghệ thông tin, nhiều bậc cha mẹ đã quên mất nhiệm vụ của mình trong việc

chăm sóc, vui đùa cùng con. Họ có thể say mê với các tin tức trên điện thoại, một trò
chơi mới hoặc chỉ để chát với bạn bè. Đây là một căn bệnh đang ăn sâu vào máu thịt
của các bậc phụ huynh điều này đã được minh chứng trong bài văn của em bé lớp 1 “
Ước mơ của con là trở thành chiếc điện thoại di động” một bài văn đã gây xôn xao
cộng đồng mạng và cho thấy sự ảnh hưởng to lớn của cơng nghệ thơng tin đến tình
cảm, cũng như sự giao tiếp của cha mẹ đối với con cái. Bài văn như sau: “Bố con yêu
điện thoại di động lắm. Đến mức con cảm thấy bố mẹ quan tâm đến điện thoại di động
còn hơn quan tâm đến con. Khi đi làm về, dù rất mệt mỏi nhưng bố vẫn chỉ ngồi bấm
điện thoại di động chứ chẳng nhớ gì đến con. Khi bận bịu gì quan trọng, nếu bất chợt
có chng điện thoại reo, bố sẽ ngay lập tức nhấc máy nghe. Thế nhưng những lúc
con khóc thì bố mẹ chẳng sốt sắng đến thế. Bố mẹ thích chơi trò chơi trên điện thoại
di động chứ chẳng muốn chơi cùng con. Khi nói chuyện với ai đó trên điện thoại bố
mẹ chẳng bao giờ thèm nghe những gì con nói, cho dù con có việc quan trọng rất
muốn được chia sẻ. Vì thế, con chỉ ước được làm một chiếc điện thoại di động”. Tuy
nhiên có nhiều ơng bố bà mẹ sẵn sàng bỏ một món tiền rất lớn để mua cho con những
chiếc điện thoại, iphone với nhiều tiện ích để trẻ sau khi tan trường về nhà ngồi chơi
với nó. Họ khơng nghĩ được rằng một chiếc máy vô tri, vô giác sẽ chẳng bao giờ
mang đến cho con họ tình u thương. Có thể thấy ảnh hưởng của công nghệ thông tin
là vô cùng to lớn, nó như một con dao 2 lưỡi đối với con người. Nếu sử dụng đúng
cách thì cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng và tiện lợi hơn, ngược lại thì chúng ta sẽ bị điều
khiển và phụ thuộc vào nó. Như vậy nếu tình trạng trên kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ do trẻ hạn chế về giao tiếp. Như vậy ngẫu nhiên
hoặc do điều kiện bất khả kháng thì hầu như các gia đình giao phó con mình cho giáo
viên trên lớp.
Hiện nay việc chú trọng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nói chung và mẫu
giáo bé nói riêng đã được chú trọng rất nhiều ở trường mầm non, tuy nhiên việc tổ
chức, hướng dẫn cho trẻ còn chưa đượcc linh hoạt, hợp lý. Tiết học cịn khơ cứng, gị
bó và chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, hơn nữa đa phần các lớp đều bị quá
tải, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại, chưa có sự thống nhất cao giưa
phụ huynh với giáo viên do vậy vẫn còn nhiều hạn chế. Là một giáo viên tôi nhận

thức rõ tầm quan trong của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi mạnh dạn chọn đề tài
"Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi ở trường mầm non"
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
4/27


2.1. Thuận lợi:
Môi trường vật chất, môi trường xã hội, thuận lợi để phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Đội ngũ giáo viên trong trường ln đồn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển
chuyên môn.
Lớp học luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đầu tư cơ sở vật
chất như mua sắm đồ dùng cho trẻ.
Trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên
môn. Vào các dịp hè, chúng tôi được đi học bồi dưỡng chuyên môn do các cấp các
ngành tổ chức. Dự các buổi chuyên đề của phòng, của trường, dự giờ đồng nghiệp tạo
điều kiện cho tôi được học tập, củng cố kiến thức nghiệp vụ.
Bản thân tơi có lịng u nghề mến trẻ ln nhiệt tình với cơng việc, đặc biệt
ln có sự đam mê đối với ngơn ngữ của trẻ. Tơi ln khơng ngừng tìm tịi học hỏi để
sáng tạo các tiết dạy hấp dẫn, đạt kết quả cao. Có kế hoạch chương trình ngay từ đầu
năm học.
Soạn bài chi tiết, sắp xếp hợp lý các nội dung cần truyền đạt, phân bố thời gian
cho từng phần phù hợp, nghiên cứu bài và dạy đúng phương pháp bộ mơn, có chuẩn bị
đủ và sử dụng đồ dùng cho cô và trẻ trong hoạt động.
Phụ huynh quan tâm đến cơng tác chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ.
2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, trong q trình thực hiện giáo viên cũng gặp khơng ít
những khó khăn sau:
Cơng tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường của giáo viên trong q trình
giáo dục phát triển ngơn ngữ cho trẻ chưa giúp trẻ có được cơ hội rèn luyện khả năng

ngôn ngữ một cách chưa liên tục.
Chưa linh hoạt tận dụng tích hợp hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ trong
các hoạt động khác một cách hợp lý tại các thời điểm, các sự kiện phù hợp để khai
thác vốn hiểu biết của trẻ.
Một số trẻ còn nhút nhát nên việc thể hiện hết tình cảm, biểu lộ cảm xúc của
nhân vật còn chưa mạnh dạn, thiếu tự tin.
Khả năng cảm thụ, thích hoạt động văn học của trẻ khơng nhiều.
Một vài trẻ cịn hiếu động chưa tập trung chú ý.
2.3. Khảo sát đầu năm:
100% phụ huynh nhận thức được ngơn ngữ có vai trị quan trọng trong cuốc
sống của trẻ. Đa số phụ huynh đều cho rằng ngôn ngữ ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt
hằng ngày của mỗi đứa trẻ, có ngơn ngữ tốt đứa trẻ sẽ tự tin để giao tiếp với mọi người

5/27


và ngược lại. Vì vậy việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ trong độ tuổi ở trường mầm non
mà là rất quan trọng và cần được phát triển sớm kịp thời và đúng giai đoạn
Sau khi khảo sát từng trẻ tôi đã ghi lại cụ thể như sau:
STT
Nội dung khảo sát
1
Trẻ mạnh dạn trong giao tiếp

Kết quả
7/25

Tỷ lệ
28.0%


2

Trẻ nói đủ câu

6/25

24.0%

3

Trẻ thích tham gia các hoạt động

10/25

40.0%

3. Biện pháp thực hiện
Sau khi xác định đề tài nghiên cứu, tôi đã tiến hành một số biện pháp đổi mới tổ
chức hoạt động phát triển ngôn ngữ thông qua tác phẩm văn học tại lớp mình như sau.
3.1. Biện pháp 1: Xác định vai trò quan trọng của giáo viên trong hoạt động
phát triển ngôn ngữ.
Như chúng ta đã biết đối với trẻ đi học thời gian trẻ tiếp xúc với cô giáo ở
trường còn nhiều hơn thời gian trẻ ở nhà. Do vậy là giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến
trẻ. Vì thế giáo viên phải xác định được vai trò của bản thân khi tổ chức hoạt động cho
trẻ hàng ngày nói chung và hoạt động phát triển ngơn ngữ nói riêng:
Giáo viên phải là người sử dụng ngơn ngữ rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, phát âm
chuẩn: Đây là yêu cầu bắt buộc khi dạy trẻ mầm non vì đặc điểm của trẻ mầm non là
“bắt chước” rất nhanh, giáo viên chính là tấm gương để trẻ làm theo. Nếu giáo viên có
hạn chế về phát âm, cần tự rèn luyện khắc phục hạn chế, đảm bảo phát âm chuẩn để
dạy trẻ. Do vậy khi được lựa chọn là giáo viên dạy lớp 3 tuổi cái tuổi học ăn học nói,

tơi ln rèn luyện mình khi nói với trẻ 3 tuổi thì phải nói chậm, cường độ vừa đủ nghe,
từ ngữ gần gũi với trẻ để trẻ dễ nghe, dễ hiểu, nói phải rõ ràng mạch lạc.
- Giáo viên lập kế hoạch hoạt động, đưa ra ý tưởng hoạt động, trong đó xác định
mục đích phát triển ngơn ngữ cụ thể phù hợp với khả năng, nhu cầu của trẻ, cùng trẻ
giải quyết vấn đề liên quan đến ngôn ngữ. Lựa chọn nội dung, hoạt động nhằm đáp
ứng tối đa các mục tiêu phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đây được coi như một “nguyên
tắc” vì mỗi đứa trẻ là một sự khác biệt, chúng khác nhau về mức độ tiếp thu kiến thức
và mức độ hình thành kỹ năng, vì vậy khơng nên ép trẻ làm việc ở mức độ cao hơn
khả năng của trẻ, không nên so sánh trẻ này với trẻ khác. Để lập kế hoạch tổ chức hoạt
động giáo viên cần tìm hiểu kỹ nhu cầu, sở thích, khả năng của trẻ trong lớp và cá
nhân từng trẻ để xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, hoạt động phù hợp, có ý nghĩa.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm khi nhận lớp tôi luôn giành nhiều thời gian trò chuyện
cùng cá nhân trẻ nhiều hơn để qua đó nắm bắt tình hình nhận thức chung của trẻ và sự
6/27


phát triển ngơn ngữ của trẻ lớp mình như thế nào. Từ đó xây dựng kế hoạch giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ phù hợp với trẻ. Đối với những trẻ ít nói, vốn từ ít, nói ngọng thì
sẽ gần gũi trị chuyện với trẻ nhiều hơn, tạo mơi trường cho trẻ tiếp xúc với các bạn
nhiều hơn. Còn đối với những trẻ vốn từ phong phú, tự tin mạnh dạn tơi khuyến khích
động viên trẻ phát huy hơn nữa khả năng của mình. Và hướng những trẻ đó cùng chơi
với những bạn nhút nhát vốn từ hạn chế để trẻ giúp bạn phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
- Giáo viên tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc và trải nghiệm các kiến thức, kỹ năng về
ngôn ngữ một cách hiệu quả nhất dưới nhiều hình thức khác nhau: Tiếp cận các tác
phẩm thơ (truyện); dự đốn, đặt câu hỏi, mơ tả sự kiện, đóng kịch, kể chuyện sáng tạo,
nhận biết mở đầu, kết thúc một câu chuyện, sắp xếp các dữ kiện theo một trình tự hợp
lý…
Giáo viên phải biết cách tạo môi trường vật chất, môi trường xã hội, không
gian, thời gian, phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Nắm bắt được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi

nên ngay từ đầu năm học tôi luôn chú ý đến môi trường, phương tiện giúp trẻ phát
triển ngơn ngữ tốt nhất.
Ví dụ: Khi trang trí lớp tơi ln giành ưu tiên góc đẹp nhất, thuận tiện nhất cho
góc văn học 1 góc chơi mà hỗ trợ rất lớn cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hay
như bên cạnh lớp tôi có khoảng trống khơng gian để khơng.Tơi đã xin phép nhà
trường cho lớp tơi tạo thêm mơi trường góc thư viện của bé để cho trẻ lớp tơi có thêm
mơi trường giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Vậy là cùng 1 hoạt động nhưng được thường
xuyên thay đổi môi trường hoạt động trẻ sẽ thấy hứng thú hơn rất nhiều và kết quả về
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ lớp tơi rất tốt.
(Hình ảnh góc thư viện)
Giáo viên tận dụng mọi cơ hội, thời điểm trong ngày, tình huống thực tế để phát
triển và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho trẻ. Nếu chỉ dạy trẻ học nói trên các tiết học
thì thực sự khơng đủ, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ hạn chế nên việc phát triển ngôn
ngữ của trẻ phải được rèn luyện thường xuyên, mọi lúc mọi nơi. Có như vậy ngơn ngữ
của trẻ mới được phát triển một cách tốt nhất.
Khi xác định được những vai trị trên, bản thân tơi đã nỗ lực thực hiện, xác định
từng vai trò, sắp xếp thời gian để thực hiện: vai trò nào làm trước - làm sau; vai trò
nào làm thường xuyên - làm theo giai đoạn; vai trò nào áp dụng cho tập thể lớp - cho
cá nhân trẻ; vai trò nào chỉ cá nhân thực hiện và vai trò nào cần phối kết hợp 2 giáo
viên trong lớp và huy động phụ huynh cùng tham gia…

7/27


Nhờ vậy mà trong thời gian vừa qua bản thân tơi đã có được hiệu quả tốt trong
việc tổ chức hoạt động cho trẻ nói chung và hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ nói
riêng.
3.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc dạy trẻ với
ngôn ngữ truyền cảm của cô và việc dạy trẻ nói đủ câu:
Ở độ tuổi này vẫn cịn có nhiều trẻ cịn nói ngọng và nói được ít từ vì trẻ ở nhà

xem ti vi, điện thoại nhiều, ít được giao tiếp mà chỉ là độc thoại, do vậy trẻ hạn chế
ngôn ngữ và trẻ chủ yếu bắt chước người lớn nói. Vì vậy là cơ giáo khi nói chuyện với
trẻ nhất là khi dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện giọng của cô phải chuẩn xác diễn đạt trôi
chảy phù hợp với từng hồn cảnh, từng bài, cơ phát âm không ngọng, truyền cảm. Lúc
trước tôi không để ý giọng đọc của mình cứ nghĩ đọc đúng thơi khơng cần truyền cảm
và tôi nhận thấy không thu hút được trẻ, trẻ không tập trung, gây mất trật tự. Trẻ đọc
theo cơ cũng hời hợt. Từ đó tơi chú ý cách đọc, giọng đọc , giọng nói của mình truyền
cảm hơn. Khi áp dụng trẻ lớp tơi rất thích thú nghe cô đọc thơ, kể chuyện, thu hút
được sự chú ý của trẻ trong mọi hoạt động.
Khi nói chuyện hay dạy trẻ đọc thơ cơ chú ý nghe trẻ nói, đọc và phát hiện ra
trẻ ngọng, để sửa sai cho trẻ cô đọc lại để cho trẻ đọc nhiều lần và động viên trẻ “con
đọc gần giỏi rồi”. Thi đua giữa các tổ với nhau để phát hiện tổ nào đọc tốt hơn dẫn đến
nhiều trẻ học tốt.
Ví dụ: Dạy trẻ đọc bài thơ “Nghe lời cơ giáo” thì cơ phải đọc thật diễn cảm và
chậm rãi và phát âm đúng từ, dạy trẻ đọc theo cô từ câu 1 cho đến hết cả bài, đọc theo
từng tổ, đọc nối tiếp theo, đọc theo cá nhân và khi đọc thì cơ chú ý lắng nghe để sửa
sai cho trẻ. Từ nào khó trong bài cơ giải thích, cho trẻ đọc và đọc lại nhiều lần.
Dạy trẻ kể chuyện hoặc kể chuyện cho trẻ nghe thì cơ phải phát âm rõ, như
chuyện “Tích Chu” cơ phải thể hiện rõ hai giọng nói của “bà”, “cháu” “Bà tiên” khi
trẻ kể lại thì cơ cùng giúp trẻ kể giọng đúng với nhân vật đó.
Dạy trẻ nói đủ câu, cơ nói trước và cho trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác
giúp đỡ bạn và trong giờ học cô luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của
từng trẻ để gần gũi động viên giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ vào hoạt động
với các bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn.
Ví dụ: Cơ kể cho trẻ nghe câu chuyện “Chó sói và cừu non”.
Cơ hỏi trẻ: Cơ vừa kể cho các con nghe câu chuyện có tên là gì. Trẻ trả lời, dạ
thưa cơ, cơ vừa kể cho con nghe câu chuyện “Chó sói và cừu non”. Nếu trẻ nói chưa
đủ câu cơ u cầu trẻ nói lại.
Cịn đối với thơ: Cơ dạy trẻ bài thơ “Cơ giáo của con” cô hỏi trẻ khi giọng cô giáo
như thế nào? Trẻ trả lời dạ thưa cô giọng cô ấm áp ạ.


8/27


Khi dạy thơ cô phải chú ý những trẻ yếu, cô phải cho trẻ luyện tập nhiều lần để
những trẻ yếu cùng đọc cho thuộc, nếu trẻ khơng thuộc thì cơ có thể cho các bạn giỏi
hơn giúp những trẻ yếu trong giờ hoạt động góc, ngồi trời, hoạt động chiều.
3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động
Lứa tuổi mầm non, đặc biệt là tuổi mẫu giáo bé, các cháu bắt đầu hiểu biết và lĩnh hội
những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tuy mới chỉ
là những khái niệm ban đầu nhưng lại vơ cùng quan trọng, có tính chất quyết định
những nét tính cách riệng biệt của mỗi con người trong tương lai. Muốn cho các con
hiểu, và lĩnh hội những khái niệm đạo đức này, chúng ta không thể thông qua những
hoạt động cụ thể hoặc qua những sự vật hiện tượng trực quan đơn thuần, mà phải có
ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ mà trẻ có thể hiện được đầy đủ những nhu cầu và nguyện
vọng đầy đủ của mình. Cũng nhờ có ngơn ngữ mà các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục có
điều kiện hiểu con cháu mình hơn, để từ đó có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho
các cháu những tình cảm và những hình vi đạo đức trong sáng nhất.
=> Ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng trong q trình giáo dục giúp con người phát
triển tồn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngơn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển
toàn diện của trẻ. Cho nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tiến hành mọi lúc,
mọi nơi
Thơng qua hoạt động đón trẻ và trò chuyện sáng
Với chủ đề năm học: “Xây dựng trường, lớp mầm non hạnh phúc” ngay từ đầu
năm học tôi đã xây dựng hoạt động: “Giờ đón trẻ hạnh phúc”. Giờ đón trẻ của lớp tơi
khơng chỉ lễ giáo với tác phong nghiêm chỉnh khoanh tay cúi đầu chào cô, chào bố
mẹ. Ngồi ra cịn có cách thể hiện tình cảm của trẻ với cơ theo cách mà trẻ thích. Qua
hoạt động này trẻ khơng chỉ thể hiện tình cảm với cơ mà trẻ sẽ nói lên tình cảm và cảm
xúc của trẻ. Sau đó trẻ sẽ đến bên bảng gắn cảm xúc của bé hơm nay. Qua đó cơ có thể
phần nào nắm bắt tình trạng sức khỏe hay cảm xúc của trẻ ngày hôm nay. Điều này rất

quan trọng cho phần trị chuyện sáng vì cơ nắm bắt được cảm xúc của trẻ và trò
chuyện đúng trọng tâm vào cảm xúc của trẻ hơn. Thấy trẻ gắn vào mặt buồn, hay tức
giận cơ trị chuyện với trẻ tại sao trẻ lại có cảm xúc như vậy. Hay thấy trẻ gắn cảm xúc
của mình vào khn mặt vui thì cơ hỏi trẻ: “hơm nay con có chuyện gì vui cùng kể,
chia sẻ cho cô và các bạn cùng nghe nào?” Trẻ sẽ nói lên những điều mà khiến trẻ bộc
lộ những cảm xúc như vậy. Giúp cô nắm bắt được cảm xúc của trẻ từ đó giúp trẻ giãi
bày những niềm vui, nỗi buồn để trẻ có những cảm xúc tích cực. Trong hoạt động
ngày và việc trị chuyện với trẻ giúp trẻ phát triển tốt hơn về mặt ngôn ngữ.

9/27


(Hình ảnh giờ đón trẻ)
Vậy qua việc xây dựng giờ đón trẻ hạnh phúc trẻ lớp tơi khơng chỉ được chào
theo cách mình thích bước vào lớp tâm trạng vơ cùng thoải mái mà cịn giúp cơ biết
nắm bắt tâm trạng của trẻ từ đó trị chuyện đúng với những điều trẻ đang gặp khó
khăn. Chỉ chờ cơ hỏi trẻ nói ra những tâm sự của mình. Trẻ nói ra những cảm xúc và
nguyên nhân gây ra và mong muốn của trẻ được lặp lại hàng ngày chắc chắn vốn từ
trở nên phong phú, lối diễn đạt rõ ràng mạch lạc hơn.
Thông qua hoạt động làm quen với văn học.
* Trị chơi đóng kịch:
Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể. Qua
hoạt động đóng kịch trẻ truyền đạt lại nội dung câu chuyện, làm sống lại tâm trạng,
hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng thời trẻ biết thể
hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm
được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu chuyện, điều này
góp phần đẩy mạnh sự phát triển tư duy, cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở trẻ. Để
đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng kịch giáo viên phải cho trẻ ôn lại nội dung
câu chuyện và đàm thoại với trẻ về nội dung. Giúp trẻ hiểu sâu hơn về nội dung truyện
và lời thoại của các nhân vật trong truyện. Để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái

khác nhau về ngữ điệu, tính cách tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Nhằm giúp
trẻ phân biệt được giọng điệu lời nói của các nhân vật. Qua đó trẻ khắc hoạ được tính
cách nhân vật. Để trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời thoại của các nhân vật trong truyện để
đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai
theo tổ hoặc nhóm. Tiết đóng kịch trẻ sẽ nói nhiều hơn điều đó giúp cho ngơn ngữ của
trẻ chắc chắn sẽ phát triển tốt hơn. Tôi đã lựa chọn các câu chuyện có nhiều nhân vật,
nhiều lời thoại nhưng những lời thoại ngắn gọn, dễ nhớ. Tưởng rằng chỉ có trẻ 5 – 6
tuổi mới có thể nhớ được lời thoại, diễn suất được đúng với tính cách của nhân vật.
Nhưng không chỉ trẻ 5 - 6 tuổi mà ngay cả trẻ 3 - 4 tuổi cũng có thể đóng kịch và diễn
suất rất giỏi khơng kém gì các anh chị 5- 6 tuổi thậm chí cịn ngộ nghĩnh và vô cùng
đáng yêu.

10/27


Ví dụ: Trong truyện “Nhổ củ cải” nội dung hay, lời thoại đơn giản, dễ thuộc,
nhiều nhân vật. Lúc này cô giáo là người dẫn truyện và trẻ tự diễn theo nội dung câu
chuyện. Khi trẻ diễn xong nên cho trẻ tự nhận xét về vai diễn của mình, của bạn, từ đó
trẻ xác định được thái độ của trẻ đối với nhân vật trong truyện là thích hay khơng
thích.
Sau mỗi hoạt động đóng kịch tơi nhận thấy ngơn ngữ của trẻ lớp tôi phong phú
và trẻ diễn đạt ý tốt hơn rất nhiều. Nên mỗi hoạt động đóng kịch tơi khơng chỉ cho trẻ
đóng trên tiết văn học mà cịn cho trẻ thay nhau vào các vai đóng kịch ở các hoạt động
khác như hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động chiều. Nhờ vậy mà hầu hết
trẻ lớp tôi cũng được rèn luyện ngôn ngữ, diễn suất tiến bộ rõ rệt thơng qua hoạt động
đóng kịch.

Hình ảnh trẻ đóng kịch nhổ củ cải
Thơng qua hoạt động đọc sách, đọc truyện, đọc thơ cho trẻ nghe
Thông qua hoạt động đọc sách, đọc truyện

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngơn ngữ là hình thức được sử dụng nhiều nhất
trong giao tiếp, những trẻ được đọc sách từ nhỏ sẽ có xu hướng cảm nhận tốt về sự
thay đổi của âm thanh, điều này tác động tích cực đến khả năng ngôn ngữ của trẻ, giúp
trẻ làm giàu vốn từ, đặc biệt là khi trẻ được tham gia vào việc trả lời câu hỏi và thảo
luận về nội dụng của sách. Và những tác động của sách trong việc phát triển toàn diện

11/27


của trẻ sẽ đến thật tự nhiên, trẻ càng được nghe, được đọc nhiều thì vốn từ, suy nghĩ
của trẻ ngày càng được mở rộng.
Mặc dù trẻ lớp tôi mới 3- 4 tuổi nhưng tôi thấy đa số trẻ lớp tơi có khả năng ghi
nhớ rất tốt, chính vì vậy mà ngồi các giờ học chính tơi ln cố gắng đọc sách, thơ, kể
chuyện cho trẻ nghe
Những tranh ảnh trong những cuốn sách, truyện, thơ cũng là cơ hội tốt để
khuyến khích trẻ nói, kể, thể hiện về những điều xảy ra trong những hình ảnh.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc trẻ đọc sách và giáo viên đọc, kể
cho trẻ nghe tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Giáo viên cần chọn sách phù hợp với lứa tuổi. Đối với trẻ 3 - 4 tuổi thì nên chọn sách
có những bài thơ, câu chuyện cổ tích hoặc câu chuyện gần gũi, quen thuộc với cuộc
sống hằng ngày của trẻ.
Chọn loại sách với nhiều tranh ảnh, màu sắc tươi sáng, bắt mắt, mỗi bức tranh
để có một nội dung cụ thể, dễ thu hút sự chú ý của trẻ. Những cuốn sách này giúp trẻ
làm quen với sự vật hiện tượng xung quanh mình và mơi trường sống xung quanh, tuy
trẻ không biết chữ nhưng trẻ có thể ghi nhớ từng từ một thơng qua các hình ảnh, màu
sắc minh hoạ trong cuốn sách.
Bên cạnh đó tơi lựa chọn một số cuốn sách của nước ngồi nhưng có nội dung
gần gũi, mang tính giáo dục cao như những cuốn truyện tranh của Nhật và của các
nước phát triển khác có nội dung, hình ảnh phù hợp với trẻ 3 - 4 tuổi.
Ngồi ra tơi bổ sung thêm cho học sinh lớp tôi các loại sách phát triển kỹ năng,

phát triển tư duy được chọn lọc cũng là cách để trẻ tiếp cận và học hỏi tốt nhất các kỹ
năng cần thiết trong cuộc sống như về giao tiếp, an tồn, vệ sinh, sức khoẻ.
Tơi cần dạy trẻ cách cầm sách, mở sách, lật trang sao cho đúng.
Hướng dẫn trẻ cách bảo quản sách, tôn trọng sách. Hình thành cho trẻ thái độ u
thích đối với việc đọc sách truyện và thái độ khi lắng nghe người khác.
Tôi luôn lựa chọn khoảng thời gian hợp lý để đọc truyện, đọc thơ cho trẻ nghe và tôi
luôn dành rất nhiều thời gian và tạo điều kiện cho các con được làm quen với sách ở
các thời điểm khác nhau như: Giờ đón trả trẻ, hoạt động góc tại góc văn học, giờ hoạt
động chiều, trẻ được nghe cơ đọc chuyện vào giờ hoạt động góc, hoạt động chiều,
trước giờ ngủ hoặc sau khi trẻ thức dậy.
(Ảnh góc văn học) (ảnh cô và trẻ cùng ngồi đọc chuyện)
Tôi đã dành ít nhất khoảng 10 phút hàng ngày để đọc sách cho cả lớp nghe. Và
đọc ít nhất hai câu chuyện mỗi ngày cho trẻ.
Khi đọc cho trẻ nghe tôi luôn chú ý đọc to, hào hứng. Cố gắng lắng nghe giọng
đọc của mình, đừng để giọng đọc của mình trở lên nhạt nhẽo, thiếu sức hút và trở nên
nhàm chán. Khuôn mặt khi đọc cần thả lỏng, vui vẻ và cười thật nhiều nếu là các câu
chuyện vui vẻ.
Khi đọc đi đọc lại một cuốn sách tôi luôn nhắc mình giữ ngun giọng điệu chứ
khơng nên thay đổi.

12/27


Trước khi đọc cho trẻ nghe tôi cho trẻ xem trang bìa và cho trẻ nhận xét về hình
ảnh của các bức tranh, từ đó giáo viên yêu cầu trẻ dự đốn nội dung của câu chuyện
sau đó mới đọc cho trẻ.
Không bao giờ tôi bắt trẻ đọc hoặc nghe một cách căng thẳng với những
cuốn sách. Tạo hứng thú và niềm u thích sách cho trẻ thơng qua việc cho trẻ chơi
một số trị chơi có liên quan đến cuốn sách đó.
Ví dụ như: Đốn tình tiết sai trong câu truyện, đốn xem câu nói này là của

nhân vật nào. Đoán về nội dung của bức tranh
Khi đọc cho trẻ nghe có những lúc tơi chia nhỏ thành 2-3 nhóm, mỗi giáo viên
sẽ phụ trách một nhóm, điều đó sẽ giúp giáo viên quan tâm được đến từng cá nhân trẻ,
trẻ ngồi gần cô hơn sẽ tạo cảm giác gần gũi thoải mái từ đó trẻ sẽ ghi nhớ vốn từ tốt
hơn.
Qua gần một năm giúp trẻ hình thành thói quen đọc sách tơi thấy rằng trẻ lớp tơi
u thích những cuốn sách hơn, có ý thức tơn trọng và giữ gìn sách, hào hứng khi đến
giờ đọc sách và rất chú ý lắng nghe cô đọc, hào hứng bàn luận sơi nổi về những câu
chuyện, bài thơ, hình ảnh trong sách và qua đó trẻ lớp tơi đã có vốn từ được mở rộng
hơn, đọc thơ, kể chuyện diễn cảm hơn, và tự tin hơn trong giao tiếp hằng ngày với mọi
người xung quanh. Và điều đó góp phần không nhỏ trong việc giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách tích cực
Thơng qua hoạt động vui chơi ngồi trời và lao động.
Với trẻ, việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc là điều rất quan trọng, thông qua ngôn ngữ
trẻ có thể thể hiện những điều mong muốn của mình đối với người lớn. Chính vì vậy
ngồi những hoạt động học trên lớp tơi đã tận dụng những hình ảnh, bức tranh được
treo trên tường để trẻ được khám phá và phát triển nhận thức cùng ngôn ngữ của mình,
những hoạt động đó đã giúp trẻ rất nhiều trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ.
Như chúng ta đã biết hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo thơng
qua các trị chơi trẻ phát triển ngơn ngữ một cách tồn diện. Đây có thể coi là một
hình thức quan trọng nhất bởi vì giờ chơi chiếm nhiều thời gian nhất trong sinh hoạt
của trẻ, trẻ được thoải mái chơi với các đồ chơi của lớp mà cơ đã chuẩn bị sẵn và
những đồ chơi ngồi trời. Trẻ tự mình giải quyết mọi tình huống xảy ra khi chơi, trẻ tự
suy nghĩ cách chơi với bạn, tự mình sử dụng ngơn ngữ của chính mình để chơi cùng
bạn.
Thơng qua trị chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận trước đây được chính xác hóa
bằng ngơn ngữ. Qua trò chơi, trẻ còn tập trung vận dụng các tri thức đã thu nhận được.
Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngơn ngữ, đồng thời tạo ra các tình huống về trẻ sử dụng vốn
từ nhữ đã tích lũy được.
Ngồi những trị chơi tự do, trị chơi có luật cơ giáo sử dụng chơi sáng tạo để phát

triển ngôn ngữ cho trẻ. Qua trò chơi sáng tạo trẻ được giao tiếp với nhau vì vậy ngơn
ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ trong khi chơi.

13/27


Năm học này tơi đã thực hiện đổi mới hình thức hoạt động ngoài trời bằng hoạt động
giao lưu . Đó là trong 1 tháng có từ 1 đến 2 buổi hoạt động trải nghiệm hoặc giao lưu
thời gian cho hoạt động dài hơn. Trẻ có nhiều thời gian tham gia các hoạt động có ý
nghĩa. Được trị chuyện giao lưu với các bạn ngôn ngữ của trẻ phát triển rất tốt.
Ví dụ: Quan sát cây bưởi tơi đã cho trẻ nói lên đặc điểm từng phần của cây bưởi và
cho trẻ nhắc lại.
Phát triển ngôn ngữ qua hoạt động lao động.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non nói chung và mẫu giáo bé nói riêng chưa phải lao
động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng chúng ta phải giáo dục ý thức
lao động cho trẻ, cho trẻ tham gia vào các hoạt động lao động nhẹ nhàng, lao
động tự phục vụ mình. Khi tham gia vào các hoạt động lao động trẻ được tiếp
xúc với thế giới thiên nhiên, với đồ dùng lao động, đồ dùng sinh hoạt,....Như
vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng chưa có và khắc sâu các biểu
tượng đã có. Từ đó trẻ biết sử dụng ngơn ngữ trong sinh hoạt lao động và vốn
ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trẻ giúp bác lao cơng cùng lau lá cây. Qua hoạt động này mở rộng
nhiều vốn từ như biết tên loại cây đó, dụng cụ để lau cây là gì? Ngồi ra trẻ
trong q trình lau trẻ cịn trị chuyện với bác lao cơng. Biết hỏi han tình hình
sức khỏe của bác như: “Bác có mệt khơng?” “Cháu lau sạch chưa ạ”Rất rất
nhiều câu hỏi, câu nói được trẻ nói ra trong khi thực hiện hoạt động này nên
ngôn ngữ, vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn nhờ hoạt động này. Ngoài ra
hoạt động này giúp trẻ phát triển tình cảm quan hệ xã hội biết yêu quý sức lao
động của người khác, biết giúp đỡ mọi người để từ đó trẻ phát triển tồn diện
hơn.

(Hình ảnh trẻ giúp cô lau lá cây)
đ) Thông qua hoạt động ca hát, nghe nhạc, hoạt động ngày lễ hội và tham
quan, xem phim
Ca hát luôn hấp dẫn trẻ thơ. Nếu như những yếu tố hợp thành của âm nhạc là âm tiết,
âm điệu và âm sắc thì đối với ngơn ngữ các yếu tố có tác động trực tiếp chính là thính
giác và thị giác. Hai yếu tố này góp phần kích thích não bộ của trẻ nhỏ, tạo tiền đề cho
sự phát triển ngơn ngữ. Do đó, cho trẻ nhỏ nghe nhạc thường xuyên cũng chính là
cách giúp các bé rèn luyện khả năng nghe, cảm nhận và rèn luyện phát âm cho trẻ.
Vậy nên tơi tích cực cho trẻ nghe nhạc nhiều ở mọi lúc mọi nơi nhất là giờ đón trẻ.

14/27


Thông qua hoạt động lễ hội. Ngày lễ ngày hội là một hoạt động rất đặc biệt với trẻ
giúp trẻ phát triển hài hòa các mặt thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã
hội. Thơng qua các ngày lễ hội trẻ sẽ vẽ, kể lại cho ông bà ,bố mẹ nghe về những gì
diễn ra trong ngày lễ hội và những cảm xúc bản thân khi được tham dự. Hoặc ngày
hôm sau cô giáo sẽ hỏi lại trẻ để trẻ có thể kể lại một số hoạt động trong ngày hội. Từ
đó ngơn ngữ củ trẻ phát triển ngày càng phong phú, hồn thiện hơn.
(Hình ảnh trẻ thích thú khi được xem kịch bảo vệ mơi trường)
Thơng qua hoạt động tham quan , xem phim. Tham quan là con dường đưa trẻ đến gần
sự vật, hiện tượng. Trẻ có thể quan sát các sự vật, hiện tượng.... và mở rộng nhận thức
của mình. Nội dung tham quan phải đáp ứng được sở thích của trẻ. Buổi tham quan
khơng mang tính chất của một bài học. Sau buổi tham quan cần tổ chức ngay các biện
pháp củng cố các nhận thức và ấn tượng thu lượm được thông qua việc trao đổi trị
chuyện.
Ví dụ: Khi cho trẻ tham quan vườn trường, trẻ sẽ được quan sát các loại hoa, cây cối ,
rau....., giáo viên yêu cầu trẻ gọi tên các bộ phận của cây...Nếu trẻ chỉ vào cành cây mà
nói là cằn cây hoặc trẻ chỉ và lá mà nói thành ná thì giáo viên sẽ phải sửa ngay lỗi phát
âm sai từ đó rèn luyện cách phát âm cho trẻ .

Xem phim cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ khi giáo viên lựạ chọn phim phù
hợp với nhận thức , sở thích... của trẻ kết hợp với tổ chức trị chuyện , đàm thoại sau
đó. Biết được tầm quan trọng của việc xem phim đối với sự phát triển ngôn ngữ cho
trẻ như vậy nhưng khơng có điều kiện dẫn trẻ đi xem phim ngài rạp nên tôi xin phép
nhà trường thỉnh thoảng cho trẻ lên hội trường có máy chiếu phơng cho trẻ xem. Cũng
cùng là xem nhưng khi xem ti vi ở lớp trẻ chỉ tập trung một lúc là chán. Nhưng khi
thay đổi hình thức xem trên hội trường như rạp chiếu phim trẻ rất thích thú, hào hứng,
chăm chỉ xem, trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức. Sau buổi xem phim trẻ rất trị
chuyện rất sơi nổi.
Ví dụ: Giáo viên lựa chọn bộ phim về thế giới động vật, sau khi trẻ xem xong giáo
viên trò chuyện với trẻ , hỏi trẻ trong bộ phim có những con vật nào, con vật đó như
thế nào, yêu cầu trẻ kể lại những gì đã xem được. Muốn kể lại , trẻ phải huy động từ
ngữ và sử dụng từ chính xác qua đó hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ
Với biệp pháp này tơi nhận thấy rất có hiệu quả , trẻ được tham gia các hoạt động, sự
kiện nhưng khơng đơn thuần chỉ là xem, nhìn, mà qua đó trẻ cịn được thể hiện , suy
nghĩ, phỏng đốn, được thể hiện những cảm xúc thật , được hóa thân thành những
nhân vật mà mình muốn, được phát huy một cách tối đa những sở trường, khả năng và
không thể không thấy được sự tác động của những hoạt động này tới việc giúp trẻ

15/27


phát triển ngôn ngữ tốt hơn rất nhiều. Vậy muốn ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt đạt
hiệu quả cao, không gây áp lực cho cô và trẻ nên rèn trẻ mọi lúc mọi nơi.
3.4: Biện pháp 4: Phát triển ngơn ngữ thơng qua việc khuyến khích trẻ mạnh dạn
trong giao tiếp và quan tâm đến những trẻ đặc biệt
* Khuyến khích trẻ mạnh dạn trong giao tiếp
Vậy giao tiếp là gì? Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, thể
hiện sự tiếp xúc tâm lí giữa người và người, thơng qua đó con người trao đổi với nhau
về thông tin về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Mỗi

quan hệ giữa con người với nhau có thể xảy ra với các hình thức khác nhau:
Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân
Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm
Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng…
Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất cá
nhân là phong cách riêng của mỗi người, tính chất xã hội được nảy sinh và hình thành
trong xã hội, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giao tiếp có chức năng gì?
Giao tiếp bao gồm các chức năng: chức năng thông tin, chức năng cảm xúc, chức
năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau, chức năng điều chỉnh hành vi và chức năng phối
hợp hoạt động
Tóm lại giao tiếp là q trình quan hệ, tác động qua lại giữa con người và con
người, trong đó con người trao đổi thơng tin, cảm xúc, nhận thức và điều chỉnh hành
vi của chính mình. Giao tiếp chính là một hoạt động, khơng có hoạt động con người
khơng thể trưởng thành.
Vì sao phải làm cho trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp?
Trong đề tài nghiên cứu trước đây của tôi “Một số biện pháp giúp trẻ mạnh dạn,
tự tin cho trẻ 3- 4 tuổi ở trường mầm non” đã thấy rằng vì nhút nhát, các em không
dám phát biểu ý kiến trước chỗ đông người, khi gặp người lạ hoặc ở trong môi trường
xa lạ, các em thường tỏ ra xấu hổ, ngại ngùng, lo lắng, không thể giao tiếp với mọi
người một cách thoải mái, cởi mở. Trong cuộc sống và học tập các em ln thiếu tính
chủ động, tự tin, ít giao tiếp dẫn đến ngôn ngữ bị hạn chế, khi ngôn ngữ kém thì việc
tiếp thu của trẻ lại trở nên chậm hơn. Vì vậy trẻ có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội trong cuộc
sống.
Như vậy để trẻ có giao tiếp tốt thì trẻ phải mạnh dạn, tự tin trong cuộc sống,
nhằm giúp trẻ luôn mạnh dạn tự tin trong giao tiếp đỏi hỏi cô giáo cần quan tâm, động
viên, tạo cơ hội cho trẻ thể hiện được bản thân để trẻ tự tin khi giao tiếp
Ví dụ: Trong trị chơi “Cáo ơi ngủ à?”, khi tham gia trẻ sẽ vừa đi vừa đọc
Trên đồng cỏ
16/27



Các chú thỏ
Đi ăn cỏ
Thỏ nhớ nhé
Có cáo gian
Đang ngủ đấy.
Khi thấy cáo tỉnh dậy các chú thỏ phải chạy về chuồng, ai bị cáo bắt sẽ phải lên
làm cáo. Trẻ vừa được vui chơi, giao tiếp vừa được phát triển ngôn ngữ một cách nhẹ
nhàng, hiệu quả. Song với trẻ nhút nhát lại sợ không dám tham gia, thời gian càng kéo
dài thì khả năng giao tiếp càng trở nên hạn chế, như vậy đồng nghĩa với việc vốn từ
của trẻ bị thiếu hụt, trẻ sẽ càng khó khăn hơn khi diễn tả về một điều gì đó hoặc để
mọi người hiểu mình.
Ví dụ: Bé Gia Hân rất nhút nhát nên khi tổ chức các trò chơi cháu thường sợ và
khơng dám tham gia. Để kéo cháu thốt ra khỏi tình trạng như vậy, tơi thường quan
tâm, gần gũi cháu những lúc chơi. Để giúp cháu tham gia hòa nhập với bạn bè. Tơi
thường lựa chọn các trị chơi theo mức độ khó tăng dần để giúp Gia Hân có thể thích
nghi được. Lần đầu tiên Tơi cho cháu ngồi xem các bạn chơi, lần thứ 2 tôi cho cháu
tham gia có sự hỗ chợ của cơ, khi Gia Hân đã quen với trị chơi thì tơi để cháu tự tham
gia cùng các bạn. Khi trẻ làm được một lần, lần sau trẻ sẽ thấy tự tin hơn. Dần dần trẻ
sẽ mạnh dạn tham gia. Như vậy giao tiếp của trẻ càng nhiều thì ngơn ngữ của trẻ cũng
tăng theo.
Biện pháp quan tâm đến những trẻ đặc biệt
Thế nào là “Trẻ đặc biệt”?
Theo cuốn tạp chí giáo dục mầm non số 1/2014 do bộ giáo dục và đào tạo phát
hành thì trẻ đặc biệt là những trẻ có những khác biệt hoặc nhu cầu khiếm khuyết ở
mức nhà trường phải thay đổi các hoạt động để đáp ứng nhu cầu và khả năng của
chúng. “Trẻ đặc biệt”? để miêu tả một hiện tượng thông minh vượt trội hoặc miêu tả
một trẻ có đặc điểm cơ thể khơng bình thường hay trẻ có biểu hiện của tật ngơn ngữ:
Nói ngọng, nói lắp, nói khó, nói khơng được….

Ngơn ngữ là cơng cụ chính của tư duy và là phương tiện chính trong giao tiếp.
Mấu chốt của sự phát triển con người là sự phát triển ngôn ngữ, con đường để giúp trẻ
hòa nhập cộng đồng, vươn xa hơn nữa là hội nhập và giao lưu quốc tế, thụ hưởng
những thành quả về văn hóa, khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới
chính là phát triển ngơn ngữ tiếng việt cho các em.
Hiện tại ở lớp tôi phụ trách, một số trẻ thuộc diện khuyết tật về mặt ngơn ngữ
như: nói ngọng (Ngọc Huyền, Nhật Linh, Đăng Khơi, Hoàng Anh, Gia Hân, Đức
Phúc, An Phú, Đức Đại, Hoàng Anh, Phúc Anh…), nói khó (Lâm Tùng). Những trẻ có
17/27


khiếm khuyết về ngôn ngữ nếu không được uốn nắn kịp thời, thường xuyên sẽ ảnh
hưởng đến quá trình phát triển nhân cách, học tập và làm việc như bình thường. Và
cũng vì khơng có ngơn ngữ hay bị tật về ngôn ngữ nên trẻ sẽ ngại giao tiếp, lâu dần trẻ
sẽ bị cô lập. Là một giáo viên phụ trách nhận thấy được điều này, tôi cùng đồng
nghiệp luôn ln động viên, khuyến khích để kích thích trẻ nói đúng, nói chuẩn và
phát triển ngơn ngữ cho trẻ
Ở lớp tơi cháu Phúc Anh, nói rất ngọng, nhưng cháu lại là đứa trẻ thông minh,
hiếu động nên cháu rất hay nói, nếu khơng lắng nghe cháu nói sẽ rất khó hiểu. Hằng
ngày bản thân tơi thường xun tranh thủ trị truyện cùng cháu khi đón- trả trẻ, uốn
cho cháu từng câu nói khi phát âm để cháu nói bớt ngọng, mọi người dễ hiểu hơn
Ví dụ: Con thưa cơ/ Phúc Anh: Ton thưa tô
Những lúc như vậy tôi lại nhắc Anh phát âm lại: “Con” tơi rèn cháu nói 2-3 lần, tuy
nhiên tôi sẽ không nhắc lại từ mà cháu phát âm sai, trách để cháu khác nghe tiếng nói
nhại, đồng thời cơ thường xun tổ chức các trị chơi để hướng dẫn, uốn nắn trẻ nói
đúng, nói chuẩn.
Ví dụ: Cháu Hải Yến là trường hợp đặc biệt, khả năng nói rất kém, khi nói khơng
dám nhìn vào người đối diện, nhiều lúc cháu muốn nói nhưng khơng nói được, khi đến
lớp cháu chào cũng rất khó khăn
- Con.Chao… chào…cơ

Để rèn phát âm tơi dạy cháu khoanh tay và nói từng từ một: Con/chào/cơ.
Khi muốn lấy cái gì cháu thường chỉ tay để ra hiệu cho cô biết. Những lúc đó tơi
thường u cầu cháu nói theo cơ từng câu:
- Yến nói theo cơ nào: Cơ/ lấy/cho/con/…
Tơi dạy cháu nói chậm, từng từ một để cháu có thể làm được thì tơi mới lấy giúp.
Và ở bất kì đâu, trong mọi lúc, mọi nơi tôi đều chú trọng đến cháu để giúp cháu phát
huy tối đa về ngôn ngữ.
Phát triển ngơn ngữ cho trẻ bình thường khơng phải dễ, với trẻ có khuyết tật về
ngơn ngữ lại càng khó hơn, đòi hỏi người giáo viên phải tận tâm, tận tụy, yêu trẻ như
con để giúp trẻ một cách tốt nhất.
3.5. Biện pháp 5: Phối hợp với hụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ

18/27



×