Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5

Đề mục
Mục lục
I. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu.

Trang
1
2
2
2
3

6

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

3

7

II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm



3

8

2.1. Cơ sở lí luận

3

9

2. 2. Thực trạng vấn đề.

4

10
11
12

2. 3. Các giải pháp.
2.4. Hiệu quả
III. Kết luận, kiến nghị.

5
17
18

13

- Kết luận


18

14

- Kiến nghị

18

15

Tài liệu tham khảo

20

16

Phụ lục

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể
hiểu nhau được hơn, có thể trao đổi với nhau những kinh nghiệm quý báu trong
1


cuộc sống. Đặc biệt trong chương trình giáo dục Mầm non chúng ta thấy rõ vai
trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ.
Đối với trẻ em ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ bày tỏ nguyện vọng của
mình, là điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào các hoạt động hình thành nhân

cách trẻ.
Ngôn ngữ còn giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ một cách toàn
diện cả về mặt đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa, giúp trẻ có thể phân biệt
được điều gì tốt, điều gì xấu và cách ứng xử giao tiếp với mọi người xung quanh
sao cho phù hợp. Đặc biệt ngôn ngữ còn giúp cho giáo viên dễ dàng hơn trong
việc giải thích, nêu gương, thuyết phục trẻ, giáo dục những hành vi đạo đức cho
trẻ (1).
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và
là phương tiện để giáo dục tình cảm thẩm mỹ cho trẻ, giúp trẻ sớm tiếp thu
những giá trị thẩm mĩ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn
từ đầu tiên người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Sự tác động
của lời nói nghệ thuật như một phương tiên hữu hiệu giáo giục thẩm mĩ cho trẻ
(1).Như vậy ngôn ngữ có vai trò lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề
phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô
cùng quan trọng.
Đối với trẻ 25 – 36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên
đặc biệt quan trọng vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát
triển và hoàn thiện. Trẻ đã có khả năng phát âm đúng hầu hết các âm đơn và
thanh điệu, số lượng từ tăng nhanh, hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các
từ của trẻ (3). Tuy nhiên trong những trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa
chính xác, sự chậm chễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
trẻ, đặc biệt là trẻ nhà trẻ.
Là một cô giáo Mầm Non tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy
các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con
thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các
hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về
thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu
kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát
triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36
tháng” nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách
có logich, có trình tự, chính xác.
- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người
- Làm phong phú vốn từ cho trẻ.
- Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2


- Trẻ 24 -36 tháng trường Mầm non Hà Ngọc
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ.
- Phương pháp quan sát các hoạt động dạy và học.
- Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với
sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ,
mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí.
Có thể nói rằng trong bất kì lình vực hoạt động nào của con người cũng cần đến
ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp cho người trao đổi tư tưởng tình cảm, bộc lộ những
cảm xúc và xác lập những mối quan hệ giữa thành viên này với thành viên khác
trong xã hội.Ngôn ngữ có thể nói là một thứ công cụ để tổ chức xã hội, để duy
trì mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quá trình phát triển ngôn ngữ
là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần là phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh
quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ, Có thể nói rằng rèn
luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào việc

trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm
quý báu của thế hệ cha anh, đồng thời tạo điều kiện cho các cháu lĩnh hội các
kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng như vậy trong cuộc sống, nhưng là thế nào
để ngôn ngữ phát triển và muốn có ngôn ngữ phát triển thì chúng ta không thể
nói đến việc phát triển vốn từ cho trẻ. Từ là đơn vị có sẵn và cơ bản của ngôn
ngữ, là vật liệu chủ yếu tạo nên câu, xây dựng lời nói. Trong cuộc sống không có
vốn từ thì không có ngôn ngữ hoặc vốn từ chậm phát triển thì ngôn ngữ cũng
chậm phát triển và ngược lại. Vốn từ phát triển phong phú thì ngôn ngữ cũng
phát triển phong phú. Khi con người biết sử dụng nhiều loại từ một cách chặt
chẽ thì họ sẽ có một cách giao tiếp vững vàng tự tin trong bất kỳ lĩnh vực nào
của xã hội.
Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho rẻ
ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm
được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát
triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố
vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.Quá trình này
liên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các
biểu tượng về thế giới xung quanh..
Thực tế trong những năm tôi giảng dạy. Đặc biệt là năm học 2016 -2017
được phân công chủ nhiệm nhóm trẻ 25 -36 tháng tuổi. Hàng ngày bên trẻ tôi
được quan sát hoạt động giao tiếp giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với những người
xung quanh, tôi nhận thấy khả năng giao tiếp của trẻ rất hạn chế, trẻ chưa mạnh
dạn, tự tin khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp với những người xung quanh. Cơ
quan phát âm của trẻ chưa hoàn chỉnh, vốn từ của trẻ còn rất nghèo nàn. Cách
3


phát âm của trẻ chưa chuẩn, trẻ nói ngọng nhiều, nói một cách tự do, ngừng nghỉ
không đúng lúc, khi nói thường hay ngắt quãng thở hổn hển. Giáo viên chưa chú

ý nhiều đến việc tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ, các tài liệu
tham khảo hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường.
Tôi tự tìm tòi biện pháp đúc rút kinh nghiệm từ thực tế dạy trẻ ở các nội dung và
chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng
tuổi”
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Năm học 2016-2017 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ 24 –
36 tháng tuổi. Gồm 28 cháu ( trong đó có: 13 nam và 15 nữ)
* Thực trạng chung
Trường mầm non Hà Ngọc được sự quan tâm của phòng Giáo dục Huyện,
của UBND xã, đặc biệt là sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Trường mầm non
Hà Ngọc không ngừng bổ xung, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho học tập và
vui chơi của trẻ thuận lợi hơn. Cơ sở trang thiết bị tương đối đầy đủ và có đồ
chơi ngoài trời đây cũng là điều kiện tốt cho việc dạy học đạt kết quả cao hơn.
Nhà trường có 8 nhóm lớp với 1 khu trung tâm có khuân viên vườn trường
rộng và thoáng mát thuận lợi về nguồn nước, điện sinh hoạt đầy đủ, có cảnh
quan đẹp, các phòng nhóm được trang bị giá góc, đồ dùng, đồ chơi cho các
nhóm lớp hoạt động.
Điều kiện trang thiết bị của lớp đầy đủ, phòng học rộng rãi thoáng mát tiện
cho việc sắp xếp tạo môi trường hoạt động cho trẻ.
Tuy nhiên điều kiện cơ sở vật chất được nâng lên xong vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu như xây dựng khuôn viên, hệ thống nước thải, rác thải chưa phù hợp, đồ
dùng đồ chơi có nhưng chưa đồng bộ, việc tạo môi trường hoạt động cho trẻ khó
khăn đặc biệt là môi trường bên ngoài. Dân cư chủ yếu làm nghề nông trình độ
dân trí của các bậc phụ huynh chưa đồng đều.
* Thực trạng đối với trẻ
Đa số các cháu đều khỏe mạnh nhanh nhẹn, phân chia theo đúng độ tuổi
Thời gian vào đầu năm học, số cháu ở lớp tôi đi học không đều nhất là những
ngày mưa gió. Phần lớn các cháu đang sống trong môi trường cưng chiều của
gia đình. Do đó trẻ hoàn toàn chưa quen nề nếp, thói quen của hoạt động tập thể,

chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế trẻ nói ngọng nói trống
không, nói chậm, nói chưa đủ ý nghĩa của câu. Trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng
ngôn ngữ của người lớn xung quanh, tiếng địa phương.
Đa số phụ huynh đều bận công việc hoặc có những lý do khách quan nào đó
ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng đầy đủ về
nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần chỉ, cần nhìn vào những gì mình thích thì
được đáp ứng ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân của việc vốn từ của trẻ rất nghèo nàn.
* Đối với giáo viên
Bản thân là một giáo viên có trình độ trên chuẩn vềchuyên môn, nhiệt tình
4


yêu nghề mến trẻ. Luôn được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh học
sinh và nhà trường tin tưởng giao cho phụ trách nhóm lớp 24 – 36 tháng tuổi,
trong quá trình giảng dậy tôi được học hỏi và đúc rút được nhiều kinh nghiệm,
thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn, được ban giám hiệu nhà trường
dự giờ góp ý nên bản thân tôi được trau dồi kiến thức, kinh nghiệm trong các tiết
dạy, trong các hoạt động, đặc biệt là tham gia các chuyên đề.
Trong quá trình đứng lớp, tôi luôn ghi chép những biểu hiện của trẻ để đúc
rút những kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, luôn cố gắng tham khảo các tài liệu, tạp
san, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp của giáo viên trong trường,
và của trường bạn.
Mặc dù như vậy nhưng đôi lúc tôi vẫn chưa có sự đầu tư để tìm tòi đổi mới
phương pháp đưa vào giờ dạy và chưa thường xuyên ứng dụng công nghệ thông
tin vào giờ dạy. Chưa chú trọng đến việc sử dụng đồ dùng dạy học bằng vật thật
để đưa vào tiết học dẫn đến tiết học có hiệu quả chưa cao.
Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng phát triển lời nói cho trẻ. Tôi đã
mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giúp trẻ đạt hiệu quả cao hơn.

Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã làm một số khảo sát đối với trẻ. Qua khảo sát
tôi có thể nắm rõ những mặt ưu điểm và hạn chế của trẻ. Bên cạnh đó khảo sát
trẻ trên lớp khiến tôi và học sinh của mình có thể hiểu nhau hơn.
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM (trên 28 cháu)
Chưa
Tốt
Khá
TB
đạt
Phân loại khả năng
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl %
Khả năng nghe hiểu ngôn
4
14
8
29 12
43 4
14
ngữ và phát âm
Vốn từ
4
14
8
29 12

43 4
14
Khả năng nói đúng ngữ pháp 4
14
10
36 10
36 4
14
Khả năng giao tiếp
5
18
10
36 9
32 4
14
2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
* Các giải pháp thực hiện:
Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ để qua đây phát triển
ngôn ngữ cho trẻ
Giải pháp 2 : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Giải pháp 3: Tạo môi trường phong phú cho trẻ hoạt động
Giải pháp4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc sử dụng đồ dùng trực
quan.
Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
* Các giải pháp tổ chức thực hiện:
Trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá
mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật.hiện
tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai
đây? Cái gì đây? Con gì đây? ….. Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày

5


người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung
cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch
lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi ngôn ngữ
là phương tiện để trẻ giao tiếp và tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được
dễ dàng và hiệu quả nhất:
Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ để qua đây phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Để phát triển tốt hơn về ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng ngay từ đầu năm
học nhận lớp, tôi đã cố gắng tìm hiểu tính cách của từng trẻ để có thể hiểu về
tâm sinh lý của từng trẻ qua đây có từng biện pháp cụ thể cho từng trẻ về phát
âm, vốn từ, lời nói,cách diễn đạt...

Một là: Đặc điểm phát âm: Trẻ đã phát âm đượccác âm khác nhau.
Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở
những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen /
hoa xem, thuyền buồm/ thiền bồm….
Hai là: Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động
từ ở trẻ chiếm ưu thế (2).
Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong
giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những các từ chỉ khái niệm tương đối
như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai……trẻ sử dụng chưa chính xác. Một số
trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu xanh, màu đỏ ,màu
vàng…. Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong
giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạ…
Ba là: Sắp xếp cấu trúc lời nói: Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các
câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một

nội dung ngắn gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là
đơn giản- Nhưng đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó.
Nếu yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện
tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ găp khó khăn. Cần phải tập luyện dần dần.
Bốn là: Diễn đạt nội dung nói: Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa
tuổi này còn ê a, ậm ừ. Đôi khi chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng
những câu đơn giản. Trẻ còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
Năm là: Đặc điểm ngữ pháp: Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể
hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình bằng 1 hay 2 câu. VD: Cô
ơi ! Con uống nước, con ăn kẹo… Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát
có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có thể kể lại 1 đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự
gợi ý. Tuy nhiên, đôi khi sự sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý.

Trẻ thường sử dụng câu cụt.VD: Nước, uống nước,..Trong 1 số trường
hợp trẻ dùng từ trong câu còn chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn
mở rộng. Để diển tả một ý, một nội dung ngắn ngọn nào đó thì việc sắp
6


xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với một số trẻ, nhưng khó khăn với một
số trẻ còn ít tháng. Nhưng yêu cầu kể lại truyện hay những hiện tượng, sự
kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn. Chính vì vậy mà giáo viên
phải rèn cho trẻ dần dần chứ không phải là việc làm có thể khắc phục ngay
được. Khi đã hiểu sâu và rõ về tâm sinh lý của từng trẻ tôi có những giải
pháp riêng phát triển ngôn ngữ cho từng trẻ được tốt hơn.
Giải pháp 2 : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Để giúp trẻ nói được tốt hơn tôi dùng các hình thức trò chuyện với trẻ
trong tất cả các hoạt động từ đón trẻ đến lúc trả trẻ. Chẳng hạn khi đón trẻ tôi
cùng trò chuyện: Hôm nay ai đưa con đi học?, Con đến trường bằng xe gì?.
Qua đó trẻ sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản,

nói được câu nhiều từ hơn. Chính xác hơn, giúp trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn tự
nói lên những suy nghĩ của mình.
Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi
một trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi, ví dụ như: Bạn Linh đâu? Cô sẽ
trả lời : Hôm nay bạn Linh bị ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan
sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhường nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi
của bạn…Hay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải thích cho trẻ
đánh bạn là sai, là không tốt, con hãy xin lỗi bạn đi …
Như vậy trẻ sẽ có những hành vi, thái độ đúng để từ đó trẻ sẽ nói được những từ
ngữ biểu lộ tình cảm tốt đẹp, trẻ biết nói lời hay làm việc tốt.
* Giờ đón trẻ, trả trẻ
Giờ đón trẻ, trả trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường,
tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là
hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ , đặc
biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung
cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: +
Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì?...

- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ
của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
7


- Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố
, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói
quen lễ phép , biết vâng lời.
* Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn
diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc.
Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất , bởi giờ chơi có tác dụng rất

lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ.Thời gian
chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được
chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có
điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
VD1: Trò chơi trong góc” Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi
trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu
giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của
con người.

* Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:
Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ
được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như : Đu quay, cầu trượt , bập
bênh….Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường
và hỏi trẻ:
+ Cây hoa này có màu gì? ( Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to
không? ( Có ạ) + Cây vú sữa này rất cao và có lá màu gì? ( Màu xanh ạ)
+ Cây vú sữa có tác dụng gì với con người?
Cây vú sữa cho chúng ta quả ăn rất tốt, cho chúng ta bóng mát và nếu
trồng lâu năm nó còn cho chúng ta lấy gỗ nữa đấy.
* Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các
con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé!( Vâng ạ)
8


- Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới
ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc , rõ ràng hơn.
- Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những
câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ,
nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.

* Thông qua các giờ học khác:
+ Thông qua giờ nhận biết:
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung
cấp vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn
chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết
dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ.
Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi
trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
VD1: Trong bài nhận biết ” Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá ” cho
trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả ( được làm bằng bìa) để
cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn...nhằm phát huy tính
tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích (3).
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ
thống câu hỏi: + Đây là con gì? ( “Con cá ạ”) + Các con nhìn xem cá muốn bơi
được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? ( Cái đuôi ạ) + Các con ơi, cá đang
nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở trên đầu con cá)...

9


- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải
sửa ngay cho trẻ
- Như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ
thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
+ Thông qua giờ thơ, truyện:
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn
ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn

làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng
được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì
đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo :
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh
cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ
to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng,
giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Hình ảnh
VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”(4) . Tôi cung cấp vốn từ cho
trẻ đó là từ “ Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy
chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”. (Các con ạ , bản
năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất,
đào đất lên để tìm thức ăn cho mình , khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để
ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ
được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu?( Đi kiếm ăn ạ)
+ Vịt kiếm ăn ở đâu? ( Dưới ao ) + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? ( Trên bãi
cỏ) + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? ( Bới đất tìm giun )
+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? ( Con Cáo)
10


+ Vịt con đã cứu Gà con như thế nào?(Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra
xa). + Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao?(Thương
yêu nhau) + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì?

Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân

vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp
cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú
trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ
mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu
truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức .
+ Thông qua giờ âm nhạc:
- Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn
thôi thúc tôi phải nghiên cứu , sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có
hiệu quả với trẻ.
- Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật. (Trống, lắc,
phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác ) trẻ được học những giai
điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để
làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự
giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ
thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ
có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh
đẹp của bài hát.
VD: Hát và vận động bài “ Con voi” (4)
+ Câu đầu tiên : Con vỏi con voi.
Cái vòi đi trước.
( Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
+ Câu thứ hai : Hai chân trước đi trước.
Hai chân sau đi sau.
( Hai tay chống hông , hai chân nhấc lên nhấc xuống)
11



+ Câu cuối : Còn cái đuôi đi sau rốt .Tôi xin kể nốt. Câu chuyên con voi.
( Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)

+ Thông qua giờ vận động :
- Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm
thành tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ
có thể vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát :” Đoàn tàu tí hon”,(4) “ Tàu vào
ga”…..vận dụng vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ
phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp
ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn: + Vòng này có màu gì hả con?
( Màu đỏ ạ) + Thế còn vòng này có màu gì đây?( Màu xanh ạ)

Giải pháp 3: Tạo môi trường phong phú cho trẻ hoạt động
Trẻ bước vào năm học đầu tiên của độ tuổi nhà trẻ, trẻ tàm thời rời gia đình
12


(Những người thân bên trẻ) đến với vòng tay cô giáo với các bạn cùng lứa tuổi
với đầy bỡ ngỡ (2). Trẻ chủ yếu quấy khóc, nhớ nhà và rất cần tình thương của
từ cô giáo vỗ về,các cô cũng rất vất vả trong giai đoạn đầu trẻ đến lớp. Nhất là
tạo lòng tin cho phụ huynh cũng như khích lệ trẻ thích đến lớp. Bởi vậy tôi luôn
suy nghĩ và tạo ra xung quanh trẻ một môi trường với nhiều hình ảnh bắt mắt
nhất ở các góc chơi của trẻ
Tiếp theo là những ngày đầu tiên cho trẻ tập làm quen với quá trình học
cũng gian nan không kém trẻ chưa có nề nếp chưa có thói quen ngồi vào chỗ học
bài trẻ thì đứng trẻ thi ngôi…Cũng nhờ tình thương và thời gian cô cũng đã tạo
cho trẻ có nề nếp học,nếp chơi, nếp ăn, nếp ngủ, đúng giờ giấc. Do đó mà giáo
viên phải có nhiệm vụ hướng dẫn cũng như dạy bảo trẻ thêm nhiều điều và trao
đổi với phụ huynh để có biện pháp chủ đạo nhằm bồi dưỡng thêm kiến thức cho

trẻ thông qua quá trình dạy học và làm quen các bộ môn trong lứa tuổi nhà trẻ
nhất là bộ môn Nhận biết tập nói.
Với trẻ mầm non nói chung và lứa tuổi nhà trẻ nói riêng thì nhận thức và
phát âm đúng từ ngữ là việc khó khăn vì bản thân trẻ còn nói ngọng, chưa chuẩn
cô là người củng cố, uốn nắn trẻ nói từng câu, từng từ, trẻ nói đúng, nói chuẩn,
nói đủ câu để trẻ phát triển được ngôn ngữ cũng như tư duy một cách tốt nhất.
Chính vì vậy mà phải cho trẻ có nhiều cơ hội được quan sát, được thỏa mãn trí
tò mò, lòng ham muốn khám phá thế giới thông qua các giờ trẻ được hoạt động
với đồ vật là chủ đạo trong suốt quá trình học ở mầm non.
Tôi luôn suy nghĩ để tạo ra ở quanh trẻ một môi trường với nhiều hình ảnh
bắt mắt nhất là ở các góc (Ví dụ : trang trí phù hợp với từng chủ đề) và gợi mở
đối với trẻ.
Hình ảnh chủ đề “ hoa, quả, rau và những bông hoa đẹp”

Tôi đã tận dụng hầu hết các không gian trong góc chơi để trẻ hoàn toàn có thể
lĩnh hội được kiến thức của bộ môn thông qua các hoạt động khác . Các góc chơi
thường xuyên trang trí, theo từng chủ đề nhánh, bổ xung thêm nhiều hình ảnh mới.
Khung cảnh lớp. luôn mới, đẹp để trẻ quan sát giúp trẻ được nói, và tự nói.
Hình ảnh trang trí chuyên đề môi trường
13


Hình ảnh trang trí chuyên đề phát triển vận động

Bên cạnh đó tôi luôn bên trẻ nói chuyện cùng trẻ, dựa vào chính hoạt động
trẻ đang thực hiện để gợi mở, đặt câu hỏi, đưa ra tình huống để trẻ nói suy nghĩ
của mình.
Khắc phục thiết kế chưa phù hợp của nhiều góc trong lớp học thì tôi có kế
hoạch thay đổi đồ dùng thường xuyên và trang trí lớp cũng như các góc không
cần chờ sang chủ đề mới mà cần trang trí thường xuyên theo từng chủ đề nhánh

để cung cấp thêm hình ảnh phong phú cũng như khung cảnh lớp luôn mới với trẻ
được nói đúng, nói đủ câu và nhất là khi trẻ thấy được tranh ảnh này trẻ được
phát triển thêm ngôn ngữ ở mọi lúc, mọi nơi.
Giải pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc sử dụng đồ dùng
trực quan.
Ngay từ đầu năn học tôi đã vận động phụ huynh cung cấp phế liệu sẵn có và
làm đồ dùng đồ chơi. Tôi đã trang trí nổi rõ các mảng đề tài cho trẻ tập nói.
* Đồ chơi tự tạo: Đồ chơi tôi tự tạo ra từ những vật sẵn có, dễ kiếm, dễ
làm. Tôi biết nguồn gốc của đồ chơi tự tạo là vô tận. Vì vậy tôi tự sáng tạo làm
đồ chơi. Tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thế sử dụng làm đồ dùng đồ
chơi như lịch cũ, ống lon, chai nhựa ..cô khuyến khích trẻ cùng làm với cô, vừa
làm vừa trò chuyện, qua đó cung cấp vốn từ thêm cho trẻ.
14


Dựa vào từng chủ đề lên kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi một cách cụ thể.
Mỗi chủ đề đều có bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc học, vui chơi của trẻ.
Đồ chơi phục vụ chủ đề “ gia đình”. Dùng các nguyên liệu như xốp, bìa,
giấy trang kim để làm nên những đôi giầy, đôi dép, túi sách (5).

Đồ dùng phục vụ chủ đề “ Những con vật đáng yêu” và đồ dùng phục vụ chủ đề
“ giao thông”(5)

Bên cạnh đó tôi cũng sử dụng vật thật là cách thức để cho trẻ tiếp xúc với
từng vật cụ thể( Trẻ được nhìn, được xem, được sờ, nắn… vật ngay trước mặt
mình)
Ví dụ : Cho trẻ quan sát quả cam thật. Trong khi xem xét, cô giáo kết hợp
chỉ vào vật, hoặc từng chi tiết, đặc điểm của vật với từ được gọi.
Trẻ sử dụng các giác quan của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác.. Tạo
giờ học sinh động, gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ

nhàng và vững chắc hơn.
Đặc điểm của trẻ nhà trẻ là tư duy mang tính trực quan hình tượng cụ thể.
Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng đồ chơi đã gây hứng thú cho trẻ. Trẻ trực tiếp
khám phá rút ra được vốn kinh nghiệm. Cô giáo có cơ hội đàm thoại với trẻ, đặt
ra nhiều tình huống, để kích thích trẻ tư duy và nói theo yêu cầu của cô. Vì đặc
điểm của trẻ khả năng tiếp thu còn phụ thuộc vào việc sử dụng đồ dùng minh
họa trẻ được quan sát tìm hiểu các mối quan hệ giữa đồ vật và hiện tượng xung
quanh trẻ. Từ đó giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết gắn với cách diễn đạt câu phù
hợp, phát âm đúng khi trả lời câu hỏi về sự vật, đồ dùng đó cũng như kể lại theo
trí nhớ của trẻ. Song để đạt được hiệu quả cao thì nhất thiết đồ dùng phải đẹp,
15


đảm bảo an toàn, vệ sinh, độ chính xác và sử dụng phải đúng lúc, phù hợp với đề
tài, khai thác triệt để tính năng của đồ dùng, sử dụng phải sáng tạo, linh hoạt.
Sử dụng đồ dùng trực quan còn phải tùy thuộc vào tình huống, nội dung sao
cho khéo léo, bất ngờ để thu hút chú ý của trẻ. Giúp trẻ có được sự ghi nhớ, khắc
sâu những biểu tượng cụ thể, chính xác về sự vật, hiện tượng gắn liền với lời nói
phát âm câu từ về sự vật hiện tượng mà trẻ nhận biết và tìm hiểu được một cách
thành thạo hơn.
Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Ứng dụng CNTT vào hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng là 1 trong
những biện pháp hữu hiệu nhằm phát huy tính tích cực của trẻ với hoạt động.
Do vậy tôi thường khai thác các tư liệu, hình ảnh trên mạng.
Mạng internet là một thư viện khổng lồ về mọi thông tin, tư liệu, hình ảnh...Các
trang web tôi thường truy cập để lấy thông tin về chuyên môn, các giáo án điện
tử hay như: www.mamnon.com, hoặc có thể tham khảo chương trình chuyên cắt
nhạc Boilsoft video splitter tại websize sau http:/www.boilsoft.com (6)
Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc dạy học cho trẻ đã thu hút trẻ

chú ý say mê và tích cực vào học hơn. Bằng công nghệ hiện đại các hình ảnh
đẹp sinh động hiện ra cùng với những âm thanh trầm bỗng êm ái của những
video, hình ảnh hay những vần thơ khơi gợi những cảm xúc, tình cảm thân thiết
ở trẻ đây là yếu tố vô cùng quan trọng đối với trẻ 24-36 tháng tuổi. Ngoài ra trẻ
có thể hình dung ra ngay nội dung bài học qua các video, hình ảnh động. Đây
cũng là hình thức giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, trẻ có điều kiện để phát triển
ngôn ngữ một cách mạch lạc và góp phần mở rộng vốn phong phú kích thích
tính tò mò, ham hiểu biết, sáng tạo và trí tưởng tượng ở trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đưa công nghệ thông tin đến với
trẻ và nhu cầu đặc biệt của giáo viên khi sử dụng thiết bị dạy học hiện đại.
Ví dụ: đối với những bài thơ nói về con vật như bài thơ: Con voi, Con cá vàng,
con Rùa, con Cua. Từ những hình ảnh tĩnh về các con vật vẫn có thể làm động
được trong photoshocs nhưng nó sẽ không được ngộ nghĩnh khi được nghe cô
đọc thơ và tri giác tận mắt những con vật sống động. Trẻ vô cùng thích thú và sẽ
hiểu nội dung, thuộc thơ rất nhanh.
Bài thơ “ Con cá vàng” trong chủ đề: Những con vật đáng yêu.
Bước 1: Tôi cho trẻ hát và vận động theo bài bát “ Cá vàng bơi” và hỏi trẻ
tên bài hát để trẻ trả lời , sau đó tôi chon một đoạn phim về đàn cá vàng đang
bơi để cho trẻ cùng khám phá.
Bước 2: Thao tác trên phần mềm:
Dùng phần mềm Videostudio để cắt phim- kéo dài đoạn phim vừa cắt
được(thường thì đoạn phim cắt được rất ngắn) – tách bỏ tiếng ( vì khi cắt đoạn
phim thường kèm theo tiếng) – tạo thư mục riêng cho bài vừa cắt được (6)
Sau khi cắt được đoạn phim theo ý muốn tôi tiến hành làm trên phần mềm
Microsost pwerpoint và bài thơ con cá vàng đã nằm trên một shide.
Bước 3: Tiến hành dạy trẻ
16


Cô chỉ cần nhấn F5 là đoạn phim con cá vàng đang bơi sẽ hiện ra và trẻ sẽ rất

hào hứng khi vừa được nhìn tận mắt con cá vàng đang bơi nhẹ nhàng và nghe cô
giáo đọc thơ.
Như vậy qua những hình ảnh động như vậy trẻ hứng thú tham gia hoạt động
đọc thơ cũng như hứng thú tham gia các giờ học trên pwerpoint khác qua đây
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của
gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ với
phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch lịch
sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được.
Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý
nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo
trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều
thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với
các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất
hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo
trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm ,
sửa ngọng. Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ,
truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét , nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho
trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
Gia đình là môi trường rất quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách trẻ,
vì thế tôi thường xuyên trực tiếp trao đổi với phụ huynh những đặc điểm về khả
năng của trẻ. Từ đó tìm ra biện pháp phù hợp khuyến khích trẻ tìm hiểu về các
sự vật hiện tượng và phát âm đúng, đủ câu về sự vật hiện tượng đó. Nhất là đối
với những trẻ rụt rè, nhút nhát, và nói ít, nói chậm..
Qua góc tuyên truyền tôi thường xuyên cập nhập thông tin của trẻ, và kế
hoạch giảng dạy, cũng như qua các hoạt động khác, nhằm giúp trẻ phát triển

ngôn ngữ cho phù hợp.
2.4. Hiệu quả:
Qua một năm thực hiện đã đạt được những kết quả sau:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ từ đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Đối với trẻ:
- 90 % số trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn
trong lớp, với mọi người xung quanh.
- Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học.Trẻ đã có
thể tự đề nghị với cô điều trẻ muốn. Đã có trẻ tự kể lại được với cô một sự việc,
hiện tượng vừa xảy ra, có trẻ đã kể lại được một câu chuyện ngắn với sự giúp đỡ
17


của cô cho cô và các bạn nghe.
- Trẻ đã biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi trẻ nói trẻ không
bớt từ. Trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn.
- Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ đã
biết cách trình bày có trình tự, chính xác một nôi dung nhất định với cô. Cách
diễn đạt lời nói của trẻ đã lưu loát hơn nhiều so với đầu năm học, có trẻ đã có
thể kể lại một sự việc mới xảy ra, có trẻ đã kể lại được câu chuyện ngắn với sự
giúp đỡ của cô.
- Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ đã tiến bộ rõ rệt. Ngôn ngữ của
trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào cuộc sống hàng ngày.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát
triển ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua và kết quả đạt
được như sau:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tốt

Khá
TB
Chưa đạt
Phân loại khả năng
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Khả năng nghe hiểu ngôn
9
32
12
43
7
25
0
0
ngữ và phát âm
Vốn từ
9
32
12
43
7
25
0

0
Khả năng nói đúng ngữ
8
28
12
44
8
28
0
0
pháp
Khả năng giao tiếp
9
32 1 3 46
6
22
0
0
* Đối với phụ huynh :

Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
luôn quan tâm đến sự phát triển sau này của con em mình.
3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
“ Phát triển ngôn ngữ “ cho trẻ ở trường Mầm Non là vấn đề rất quan trọng
và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau.
“ Phát triển ngôn ngữ “ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp hàng
ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý nhận
thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng khả năng ngôn ngữ

phát triển rất nhanh.
Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá
trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó
khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của
các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp
phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
Để làm tốt nội dung giáo dục, đòi hỏi giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến
trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt phải có vốn kiến thức
chuyên môn, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh hoạt những phương
18


pháp, biện pháp, thủ thuật đề ra trong tiết học. Qua tìm kiếm và xây dựng tôi
thấy đề tài nghiên cứu đã thu được kết quả nhất định.
Cô giáo phải gần gũi với trẻ nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
Phải luôn cho trẻ tri giác sự vật hiện tượng thông qua các giác quan để rèn luyện
giác quan cho trẻ và giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Phải cho trẻ được hoạt động, hành động với đối tượng để kích thích sự tìm
tòi, khám phá của trẻ .
Phải thường xuyên sử dụng những hình thức dạy sinh động, sáng tạo, hấp
dẫn vào trong quá trình dạy trẻ và phải thay đổi các hình thức trong tiết dạy để
trẻ khỏi bị nhàm chán.
Phải tổ chức các trò chơi trong giờ học và thay đổi các trò chơi khác nhau,
hình thức chơi khác nhau để thoả mãn nhu cầu chơi của trẻ và để trẻ khỏi nhàm
chán.
Lời nói của cô trong khi dạy phải nhẹ nhàng, rõ ràng và diễn cảm thể hiện
được đúng nội dung câu nói, đúng hoàn cảnh, tình huống kết hợp với cử chỉ, nét
mặt, ánh mắt, điệu bộ của cô để thu hút sự chú ý của trẻ.
3.2.Kiến nghị:
Để rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi hiện nay

thông qua việc thực hiện các biện pháp, giải pháp trên đã phần nào đạt được
một số kết quả như đã nêu. Bản thân xin có một số kiến nghị sau:
Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, các chuyên
đề về chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Cung cấp các tài liệu, tập san,
những kinh nghiệm hay cho giáo viên học tập.
Đối với trường: Cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở
các đơn vị bạn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
Đầu tư kinh phí mua một số trang thiết bị phục vụ cho môn văn học

Nhà Trường với phụ huynh cần làm tốt công tác ” Xã hội hóa giáo dục” để
giúp con em mình có nhiều điều kiện để học tập, trải nghiệm nhiều hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với văn học
trong năm học vừa qua. Tôi rất mong được sự góp ý của ban giám hiệu nhà
trường và các bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có kinh nghiệm tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn./
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hà Ngọc, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam kết SKKN này do tôi
đúc rút từ kinh nghiêm thực tế
trong công tác giảng dạy.
CAM KẾT KHÔNG COPY
Tác giả

Phạm Thị Hương
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục học mầm non. Đào thanh Âm NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1997
2. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non. Nguyễn Thị Ánh tuyết NXBGD1994

3. Hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN trẻ 24-36 tháng. NXB giáo dục
Việt Nam
4. Tuyển chọn những trò chơi, bài hát, thơ ca, câu đố theo chủ đề. NXB giáo
dục Việt Nam
5. Tạp chí GDMN.
6. Trang web: www.mamnon.com

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Phạm Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Hà Ngọc
1

1
2

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp làm
quen với nhận biết tập nói
cho trẻ 25 – 36 tháng
Một số biện pháp gây
hứng thú cho trẻ trong giờ
làm quen với môi trường

xung quanh ở độ tuổi mẫu
giáo bé ( 3- 4 tuổi)

Cấp đánh
giá xếp loại
( Phòng, Sở,
Tỉnh)
Phòng GD

Kết quả
đánh giá xếp
loại ( A,B
hoặc C)
B

Năm học
đánh giá
xếp loại
2012-2013

Phòng GD

C

2014-2015

---------------------------------------------------------------------

21




×