Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 36 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.86 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Mở đầu

1

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

2.1

Cơ sở lý luận

2

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3


2.3

Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.3.1

* Biện pháp 1: Giáo dục ngôn ngữ thông qua tạo môi
trường giáo dục trong lớp:

5

2.3.2

* Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt
động học:

7

2.3.3

* Biện pháp 3: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các
hoạt động khác trong ngày

10

2.3.4

* Biện pháp 4: Thông qua một số trò chơi phát triển

ngôn ngữ:

15

2.3.5

Biện pháp 5: Phối hợp giữa gia đình và nhà trường

17

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

18

Kết luận, kiến nghị

19

2.4
3

1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng đối với con
người. Ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện tư duy hay còn được hiểu
ngôn ngữ là “cái vỏ” của tư duy, là phương thức biểu đạt, nhờ có ngôn ngữ con
người có thể trao đổi cho nhau những kinh nghiệm, bày tỏ với nhau những
nguyện vọng và ý muốn và cùng nhau thực hiện những dự định của tương lai.
Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, đứa trẻ đã được tiếp xúc
với ngôn ngữ qua những lời trò chuyện, những câu hát ru của mẹ, ngôn ngữ của

1


trẻ phát triển rất mạnh mẽ tạo ra những điều kiện, cơ hội để trẻ lĩnh hội những
kinh nghiệm lịch sử của nền văn hóa. Nó giúp trẻ tích lũy kiến thức, phát triển tư
duy giúp trẻ giao tiếp được với những người xung quanh, là phương tiện giúp trẻ
điều chỉnh lĩnh hội những giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực.
Ngày nay trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ chúng ta càng thấy rõ vai
trò của ngôn ngữ đối với trẻ mầm non đặc biệt là trẻ nhà trẻ từ trước đây và cho
đến bây giờ, là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách không thể thiếu trong công tác
chăm sóc và giáo dục trẻ ở tất cả các trường mầm non. Nó chiếm vai trò quan
trọng là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ giúp trẻ giao lưu cảm xúc
với những người xung quanh.
Ở nhóm trẻ 25 - 36 tháng đây là giai đoạn trẻ đang phát triển mạnh về ngôn
ngữ, bộ phận phát âm của trẻ cũng đang trên đà hoàn thiện. Tuy nhiên trẻ thường
có biểu hiện nói chưa đủ câu, nói ngọng, nói lắp, nói ngược, các cháu chưa biết
trả lời câu hỏi rõ ràng khi cô giáo, người lớn hỏi trẻ. Nguyên nhân một phần do
bộ phận phát âm của trẻ đang hoàn thiện, một phần do người lớn hướng dẫn trẻ
chưa đúng cách.Vì vậy là một giáo viên chủ nhiệm nhóm 25 - 36 tháng tuổi, tôi
luôn có những suy nghĩ và trăn trở làm sao để dạy các cháu phát âm đúng, chính
xác tiếng việt, nói rõ câu trong giao tiếp. Xuất phát từ thực tế đó nên tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 36 tháng” nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
1.2: Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà
trẻ 25 - 36 tháng” là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch
nhằm hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic có trình tự chính xác. Để trẻ giao tiếp
mạnh dạn tự tin trước mọi người, ngôn ngữ mạch lạc giúp người nghe hiểu vì
vậy giáo viên cần làm phong phú vốn từ cho trẻ. Tuy độ tuổi trẻ còn nhỏ nhưng
đa số trẻ rất hiếu động thích tìm tòi khám phá thế giới xung quanh. Trẻ hay có

nhiều thắc mắc trước những đồ vật, hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy. Trẻ
luôn đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây?, cái gì đấy?, con gì?, màu gì?….
Để giúp trẻ giải đáp được những thắc mắc hàng ngày, người lớn cần trả lời
những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm về
những hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc.
Chính vì vậy mà mỗi giáo viên như chúng tôi chăm sóc giáo dục trẻ mà còn chú
trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi
ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được
dễ dàng và hiệu quả nhất.
1.3: Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tổng hợp một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ
đặc biệt là nghiên cứu trẻ 25 - 36 tháng tuổi.
2


1.4: Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng
bao gồm: Nhóm phương pháp trực quan; nhóm phương pháp dùng lời; nhóm
phương pháp thực hành; phương pháp trò chuyện; phương pháp giảng giải.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để bổ sung cho
quá trình nghiên cứu của đề tài.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài
người, ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến, đặt câu hỏi, phân loại và phát triển cách
tư duy và tạo nên cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong cuộc sống của mỗi chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy
và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ trẻ tiếp thu được
nhiều kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ cụ thể như trẻ

nhà trẻ ngôn ngữ của trẻ còn rất hạn chế trẻ vì độ tuổi này trẻ đang tập nói, có
những trẻ mới nói được câu 2 - 3 từ, có trẻ nói được câu 4 - 6 từ và còn có trẻ
nói chưa trọn vẹn câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu
đơn giản …chính vì vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết.
Đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển những khả
năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển những khả năng này thì việc dạy trẻ
đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt
động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một
cách tốt nhất.
Trong xu thế hiện nay phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện của con
người nói chung và trẻ em lứa tuổi mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai
trò hết sức quan trọng nó là món ăn tinh thần không thể thiếu được. Ngôn ngữ là
phương tiện để giao tiếp nhất là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao
lưu những cảm xúc với những người xung quanh và hình thành những cảm xúc
tích cực. Ngôn ngữ còn là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành
một thành viên có ích cho xã hội. Nhờ có những lời dạy bảo của người lớn mà
trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội loài người.
Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ em mầm non tìm hiểu khám phá,
nhận thức về thế giới xung quanh, thông qua những cử chỉ lời nói của người lớn
trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng gần gũi với trẻ. Nhờ có ngôn
ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh… của các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống gần gũi hàng ngày.

3


Đặc biệt đối với trẻ nhà trẻ: 25 - 36 tháng cần dạy trẻ nghe hiểu và giao tiếp
bằng ngôn ngữ (âm, từ, câu, lời nói) là giáo viên mầm non có vai trò hết sức
quan trọng trong việc giúp trẻ phát âm đúng bởi vì ngay từ lúc còn nhỏ khi học
nói trẻ đã cần phải nhớ được phải nói như thế nào. Việc ghi nhớ này diễn ra một

cách tự phát trong quá trình bắt chước lời nói của ông bà, bố mẹ, cô giáo… kết
quả là ngôn ngữ của trẻ được hình thành. Do đó nhiệm vụ của người giáo viên là
tổ chức xây dựng môi trường ngôn ngữ, tổ chức các hoạt động để trẻ được nghe,
được bắt chước và được nói một các chuẩn mực nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi:
Trường mầm Cẩm Tú được quy hoạch theo đúng quy định điều lệ trường
mầm non, các lớp đảm bảo an toàn, sạch đẹp, có ánh sáng đủ và hợp lý, thoáng
mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, Nằm ở trung tâm khu dân cư cách xa các
sông hồ lớn, sân trường bằng phẳng, rộng rãi có nhiều cây xanh và bóng mát,
không bị lầy lội, ứ đọng nước khi trời mưa.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm tạo
điều kiện về mọi mặt.
Trong năm học 2016 - 2017 tôi được phân công phụ trách dạy và chăm sóc
các cháu độ tuổi 25 - 36 tháng, lớp tôi có 12 cháu được phân chia theo đúng độ
tuổi. Trẻ đi học đều và các cháu ăn ở bán trú 100% tại trường.
Trường chúng tôi đang thực hiện chương trình giáo dục mầm non đa số các
cháu rất hứng thú tham gia các hoạt động.
Lớp có diện tích rộng rãi, thoáng mát, có đủ đồ dùng dồ chơi phục vụ cho
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú, đa dạng về màu sắc, hình ảnh thu
hút trẻ tích cực hoạt động.
Bản thân tôi cũng đựơc sự giúp đỡ của BGH và các đồng nghiệp tạo điều
kiện cho tôi vững vàng trong công tác dạy và chăm sóc trẻ của nhóm, tôi luôn
học hỏi và phấn đấu bản thân để nâng cao trình độ chuyên môn của mình.
2.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên bản thân tôi khi thực hiện đề tài này cũng
gặp một số khó khăn như:
Ở địa bàn xã tôi các cháu đến độ tuổi này mới bắt đầu đi học nên còn quấy
khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt ở lớp nên còn lạ lẫm, bỡ ngỡ.
Ở lớp còn 70 % trẻ phát âm chưa chính xác còn hay nói ngọng, nói lắp ví

dụ như: Có trẻ phát âm chữ “l” thành chữ “n” hoặc còn có trẻ phát âm từ “con”
thành “chon” và một số trẻ còn nói lắp như: Dấu ngã, dấu sắc, dấu nặng… đa số
trẻ lớp tôi đều vấp phải.

4


Một số phụ huynh chưa thực sự hiểu rõ tầm quan trọng của việc dạy trẻ
phát âm đúng ví dụ như: Trẻ nói ngọng phụ huynh không sửa cho trẻ mà còn nói
theo trẻ. Vì vậy chưa quan tâm dạy trẻ phát âm chính xác nên cũng gây khó khăn
trong quá trình dạy trẻ ở lớp.
2.2.3. Kết quả thực trạng:
Đạt
Chưa
đạt
Tốt

Phân loại khả năng

Khá

%

Số
Trẻ

Khả năng nghe hiểu 2
ngôn ngữ và phát âm

16,6


Vốn từ

2

TB
%

%

Số
Trẻ

%

2

16,6

5

41,6 3

25

16,6

2

16,6


6

50

2

16,6

Khả năng nói đúng ngữ 2
pháp

16,6

3

25

5

41,6 2

16,6

Khả năng giao tiếp

16,6

2


16,6

4

33,3 4

25

Số
trẻ

2

Số
trẻ

2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Trẻ ở lứa tuổi 25 - 36 tháng còn nhỏ vì thế nên các cháu rất hiếu động.Trẻ
thích tìm tòi khám phá mọi thứ xung quanh, trẻ thường hay thắc mắc trước
những đồ vật, hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy trẻ và thường đặt ra câu
hỏi như: Ai đây?, cái gì đây?, con gì đây? Màu gì?...
Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những
câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn, đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm những
hiểu biết thêm về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính
vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc và giáo dục trẻ cần chú trọng đến việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, đó chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ là giáo dục cho trẻ khả năng
nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ
pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra
ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt

nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội
và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã
mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ ở lớp tôi phát triển ngôn ngữ thông
qua một số biện pháp sau:
5


2.3.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường giáo dục trong nhóm lớp phù hợp,
phong phú.
Như chúng ta đã biết lứa tuổi mầm non “học bằng chơi, chơi mà học” thông
qua chơi để trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức. Vì vậy tạo cơ hội cho trẻ được học
tập vui chơi trong môi trường thân thiện trẻ sẽ phát triển toàn diện về thể chất,
nhận thức, thẩm mỹ…Bởi vậy xây dựng môi trường trong lớp học rất quan trọng
bởi qua môi trường giáo dục sẽ tạo cho trẻ sự hấp dẫn kích thích trẻ tham gia tìm
tòi khám phá của mình.
Khi trang trí, tổ chức các hoạt động giáo dục trong lớp bản thân tôi căn cứ
vào chủ đề và không gian của lớp học để khai thác các thiết bị đồ dùng có sẵn bổ
xung thêm đồ dùng mình tự làm để trẻ phát huy tính tưởng tượng của mình.
Bản thân tôi luôn tạo cho trẻ cảm nhận được “Đi học là hạnh phúc và mỗi
ngày đến trường là một ngày vui” làm cho trẻ thêm yêu trường lớp gắn bó với
ngôi nhà chung đó cũng là trách nhiệm của mỗi giáo viên chúng tôi. Việc trang
trí lớp sao cho tự nhiên biến không gian lớp học trở nên gần gũi thân thiện có ý
nghĩa giáo dục cho trẻ là việc làm không phải dễ. Vì thế tôi đã trang trí và làm
đẹp không gian lớp học của mình để phục vụ học tập của trẻ lớp.
Trong lớp tôi không thể thiếu được những góc chơi để các cháu khi đến lớp
luôn thích thú và thích được đến lớp, các góc chơi trong lớp được phân chia khu
vực chơi giữa các góc động và góc tĩnh để tẻ hứng thú tham gia hoạt động. Tôi
trang trí tên góc và hình ảnh trang trí đẹp màu sắc và ngộ nghĩnh. Ở góc tạo hình
cô giáo gợi ý để trẻ trả lời những câu hỏi như: Bức tranh vẽ gì đây con? Hoặc
bông hoa trong bức tranh có màu gì?....Còn bên cạnh sẽ là góc “ Xây dựng”. Ở

góc này các bạn nhỏ sẽ thấy những hình ảnh các chú công nhân đang xây dựng.
Cô giáo khi cho các cháu đến góc xây dựng có thể trò chuyện cùng trẻ về chú
công nhân đang xây nhà:
- Ai đây các con?
- Chú công nhân đang làm gì?
- Áo chú công nhân mặc màu gì?
- Tay chú công nhân đang cầm gì đây?
Mỗi câu cô hỏi trẻ yêu cầu trẻ trả lời nếu trẻ trả lời còn bị lắp hoặc ngọng
cô sửa sai cách phát âm cho trẻ.
Còn ở góc “ Bé đến lớp” cô trang trí những bông hoa có gắn hình ảnh của các
bạn trong lớp, mỗi khi đến cô cho trẻ đến lấy ảnh của mình gắn lên bông hoa và

6


trò chuyện về tên các bạn trong lớp để trẻ nhớ tên các bạn của mình hơn.

Hình ảnh góc bé đến lớp
Ở bên ngoài của lớp cũng là một không gian lý tưởng với nhứng ánh nắng
và gió tôi tận dụng làm góc thiên nhiên của lớp nơi mà các bạn mỗi ngày cùng
cô trồng và chăm sóc cây hoa. Sau mỗi giờ học tôi và trẻ cùng nhau ra góc
thiên nhiên để tưới cho hoa và cùng trò chuyện các loại cây và hoa:
- Cây hoa gì đây con?
- Hoa nhài có màu gì đây?
- Lá có màu gì?
- Còn đây là cây gì?
- Chúng mình làm gì để bảo vệ hoa?
Sau mỗi lần đặt câu hỏi cho trẻ trả lời tôi đều củng cố lại để trẻ hiểu rõ và
khắc sâu hơn.
Ngoài ra việc trang trí lớp học hầu hết trẻ rất yêu thích đến trường vì nó

đem lại cho trẻ nhiều điều bổ ích như được bày tỏ những điều mình mong muốn
được trưng bày những sản phẩm mình làm ra.
2.3.2. Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động học:
Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con
người và sự vật hiện tượng ở thế giới xung quanh. Để làm được điều đó tôi phải
dạy trẻ thông qua các hoạt động khác nhau như qua các giờ học, dạo chơi ngoài
trời và các hoạt động hàng ngày. Để rèn luyện và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ,
hướng dẫn cho trẻ biết diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu. Khi cho
7


trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc điểm đặc
trưng của từng đối tượng. Dạy trẻ biết nói cả câu, phát âm đúng các âm chuẩn
tiếng việt.
* Hoạt động nhận biết:
Đây là một môn học rất quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và
cung cấp vốn từ cho trẻ, thông qua hoạt động này trẻ được cung cấp vốn từ và
ngôn ngữ một cách trình tự và khoa học nhất.
Trẻ ở lứa tuổi 25 - 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa
hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ câu, nói ngọng, nói lắp. Cho nên
trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú
cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn
trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
Ví dụ: Trong bài nhận biết “Con tôm” cô muốn cung cấp từ “râu tôm” cho
trẻ cô phải chuẩn bị một con tôm thật và một con tôm nhựa để cho trẻ quan sát.
Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn…..nhằm phát huy tính tích cực của
tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ
thống câu hỏi:
Đây là con gì? (Con tôm ạ)

Bạn nào giỏi nói cho cô và các bạn biết con tôm có những bộ phận gì nào?
Cô chỉ từng bộ phận của con tôm như: chân tôm, mắt tôm, râu, đuôi…và
hỏi trẻ để trẻ trả lời.
Đố các bạn biết con tôm sống ở đâu? (Sống ở dưới nước)
Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được
cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ hoặc nói ngọng
thì cô phải sửa ngay cho trẻ.
Ví dụ: Bài nhận biết “Xe đạp”
Khi vào bài để gây hứng thú cho trẻ tôi đọc câu đố:
“Xe gì hai bánh
Đạp chạy bon bon
Chuông kêu kính coong
Đưng yên thì đổ”
Đó là xe gì? ( Xe đạp)
Trẻ trả lời đó là xe đạp sau đó tôi đưa chiếc xe đạp cho trẻ xem và hỏi:
+ Cô có xe gì đây? (Xe đạp ạ)

8


+ Bạn nào giỏi cho cô biết xe đạp có những bộ phận gì? (Cô chỉ
từng bộ phận của xe cho trẻ trả lời)
+ Xe đạp có mấy bánh? (hai bánh ạ)
+ Xe đạp đi ở đâu? (Xe đạp đi ở trên đường ạ)
+ Xe đạp dùng để làm gì? (Dùng để đi ạ)
+ Chuông xe đạp kêu như thế nào? (kính koong a...)
Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết, từ dễ đến khó
để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó
giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
* Phát triển ngôn ngữ qua giờ thơ, chuyện:

Hoạt động văn học không những có tác dụng mạnh mẽ tới sự phát triển giáo
dục, đạo đức, thẫm mỹ mà nó còn ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển và
hoàn thiện ngôn ngữ của trẻ. Thông qua các bài thơ, câu chuyện giúp hình thành
phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc, từ đó giúp cung cấp thêm cho trẻ vốn từ
phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ
học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì
đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo:
Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo an toàn và vệ sinh cho trẻ.
Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to
giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng,
giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ: Khi cô kể chuyện “Thỏ con không vâng lời”. Tôi cung cấp vốn từ
cho trẻ đó là từ “Chớ có đi chơi xa”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một
con bướm đang bay đến gọi Thỏ con đi chơi và giải thích cho trẻ hiểu từ “Chớ
có đi chơi xa”.
“Các con ạ khi mà bố mẹ dặn các con phải vâng lời bố mẹ nhé!”. Sau khi
giải thích tôi cho trẻ được phát âm nhiều lần theo hình thức cả lớp, nhóm, cá
nhân để trẻ khắc sâu hơn.

9


Hình ảnh trẻ trong giờ kể truyện

Ngoài ra để trẻ nhớ tên và nội dung câu chuyện cũng như từ vừa cung cấp
tôi sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại lôzich để trò chuyện với trẻ. Khi đàm
thoại tôi luôn chú ý đến khả năng phát âm của trẻ. Một câu hỏi có thể cho nhiều
trẻ trả lời để trẻ được khắc sâu hơn kiến thức đồng thời là cơ hội để trẻ phát triển

ngôn ngữ của mình.
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? (Thỏ con không vâng lời)
- Trong câu chuyện có những nhân vật nào? (Thỏ mẹ, thỏ con, bươm bướm,
bác gấu ạ)
- Thỏ mẹ dặn thỏ con điều gì?
- Ai đã đến rủ thỏ con đi chơi?
- Chuyện gì đã xảy ra với thỏ con?
- Bác gấu làm gì và giúp thỏ con?
- Được gặp lại mẹ thỏ con nói với mẹ như thế nào?
Hoặc là khi cô đọc cho trẻ đọc bài thơ: “Cây bắp cải” Tôi giải thích cho trẻ:
Các con nhìn này: Đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho
các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp
cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp chồng lên nhau lá non thì nằm
ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài đấy. Bên cạnh đó tôi
cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
- Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
- Cây bắp cải trong bài thơ có màu gì? (Xanh man mát)
10


- Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ)
- Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ)
Qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết tôi lại cung cấp thêm vốn từ
mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Như vậy thơ truyện không những kích thích phát triển nhận thức của trẻ mà
còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện
và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để trả lời, trò chuyện, tiếp thu kiến
thức. Từ đó giúp vốn từ của trẻ cũng được nâng lên rõ rệt.
* Thông qua giờ âm nhạc:
Hoạt động âm nhạc cũng là hoạt động nhằm cung cấp vốn ngôn ngữ của

trẻ phong phú. Thông qua các bài hát, giai điệu trẻ được tiếp xúc hiểu nội dung
và hát theo lời bài hát, từ đó làm vốn từ của trẻ cùng được mở rộng. Tuy nhiên
do đặc điểm của trẻ ở lứa tuổi này nên nhiều cháu chưa hát được hết câu hát, hát
còn sai. Vì vậy để để thu hút trẻ vào giờ học đạt kết quả tốt và giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ được tốt hơn tôi luôn nghiên cứu, tìm ra các biện pháp, hình thức học
phù hợp, linh hoạt để dạy trẻ.
Đối với tiết học âm nhạc để hoạt động có hiệu quả cô cần linh hoạt cho trẻ
được tiếp xúc nhiều đồ vật như: Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều
chất liệu khác, trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận
động theo bài hát một cách nhịp nhàng trẻ sẽ hứng thú tham gia vào hoạt động
hơn.
Ngoài ra tôi cũng cần chuẩn bị tốt về giáo án cũng như giọng hát chính xác,
phù hợp, tình cảm để thu hút trẻ tham gia hoạt động, khi trẻ hứng thú tham gia
hoạt động tức là ngôn ngữ của trẻ cũng đang hoàn thiện và phát triển.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ
có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh
đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Bóng tròn to”
+ Câu đầu tiên: Bóng tròn to, tròn tròn tròn tròn to (Trẻ đưa tay ra nắm tay
các bạn đứng thành vòng tròn rộng)
+ Câu thứ hai: Bóng xì hơi, xì xì xì xì hơi(Trẻ cầm tay nhau đi vào trong
tạo thành vòng tròn nhỏ)
+ Câu cuối: Nào bạn ơi, lại đây chơi, xem bóng ai to tròn này. (Trẻ nhảy
chân sáo cùng cô).
Có thể nói khi tổ chức linh hoạt hoạt động âm nhạc tạo kết quả hoạt động
cao là một hình thức phát triển ngôn ngữ của trẻ vì thông qua ngôn ngữ để trẻ
thể hiện bài hát.

11



2.3.3: Biện pháp 3: Giáo dục ngôn ngữ qua các hoạt động khác trong
ngày.
* Giờ đón trẻ:
Như ta đã biết giờ đón trẻ là thời điểm cần tạo không khí vui vẻ, giúp lôi
cuốn trẻ tới trường, tới lớp quan trọng nhất là cô giáo phải thật gần gũi, tích cực
trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức dễ dàng và nhẹ nhàng để
cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ
mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn
từ cho trẻ.
Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về những người thân trong gia đình:
+ Con kể cho cô và các bạn nghe gia đình con có những ai?
+ Bố con tên gì?
+ Mẹ con tên gì?
+ Bố con làm nghề gì?
+ Sáng nay ai đưa con đi học?
+ Đến lớp con chào ai?

Hình ảnh cô đang đón trẻ vào lớp.

Khi trẻ trò chuyện với cô, được cô hướng dẫn, động viên trẻ trong khi trò
chuyện giúp trẻ tự tin hơn trong giao tiếp, từ đó giúp cho vốn từ của trẻ trở nên
phong phú hơn, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ
như vậy sẽ kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói
quen lễ phép, biết vâng lời người lớn.
12


Ví dụ: Trẻ mới đi học thường hay nói chưa đủ câu hoặc khi cô giáo hỏi thì

trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn
chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
Qua một thời gian ở trường được sự quan tâm của các cô giáo các cháu đã
mạnh dạn hơn và nói đủ câu hơn không nói ngọng, nói lắp nữa và phụ huynh
cũng rất hài long về sự tiến bộ của các cháu.
* Giờ hoạt động ngoài trời:
Cũng như các hoạt động khác trong ngày hoạt động ngoài trời cũng rất
quan trong trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Hàng ngày ở lớp tôi thường cho trẻ đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường
xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Xích
đu, đu quay, cầu trượt, bập bênh….Ngoài ra tôi còn giới thiệu, trò chuyện cho
trẻ biết tên và đặc điểm một số cây xanh, cây hoa ở sân trường nhằm cung cấp
thêm kiến thức và vốn từ của trẻ:

Hình ảnh trẻ đang hoạt động ngoài trời

+ Còn đây là cây gì? (Cây phượng ạ)
+ Cây phượng này rất to và có lá màu gì đây? (Màu xanh ạ)

13


+ Thế còn đây là cây hoa gì?
+ Hoa Sam có màu gì đây?
+ Lá hoa màu gì?
+ Chúng mình làm gì để bảo vệ cây và hoa trong sân trường của mình?
Như vậy giờ hoạt động ngoài trời cũng giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ
một cách tốt nhất trẻ nói được nhiều câu hơn và trả lời các câu hỏi rõ ràng, mạch
lạc hơn.
* Giờ hoạt động vui chơi:

Hoạt động chơi là một trong những hoạt động rất quan trọng trong việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ
chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn
từ cho trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ,
là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các
loại từ khác nhau để giao tiếp, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung
phong phú, đa dạng hơn.
Ví dụ: Trò chơi trong góc trẻ chơi trò chơi “Thao tác vai” trẻ được chơi với
em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Bác đã nấu cơm cho búp bê ăn chưa?
+ Bác lau mặt cho búp bê chưa?
+ Bác xúc cơm cho búp bê nào.
+ Nào bây giờ mẹ ru cho búp bê ngủ nhé
+Trẻ ôm búp bê vào lòng và ru búp bê
Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó
tình cảm của con người.
Ví dụ 2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ đề “Đồ chơi của bé” tôi
có thể giúp trẻ xâu các hột hạt lại tạo thành những chiếc vòng xinh xắn. Và khi
trẻ đang xâu vòng tôi luôn bao quát trẻ xâu và luôn động viên khuyến khích trẻ
xâu thật nhiều những chiếc vòng thật ngộ nghĩnh để tặng bạn búp bê.
+ Chúng mình hãy cùng nhau xâu thật nhiều chiếc vòng nhé.
+ Quang ơi, con đang xâu gì vậy? (con đang xâu vòng ạ)
+ Con xâu vòng để làm gì?
+ Vòng con xâu có màu gì vậy?
+ Con cầm dây bằng tay gì?
+ Con xâu vòng bằng gì đấy?(con xâu bằng dây ạ)

14



+ Con đã biết buộc hai đầu dây với nhau để tạo thành vòng chưa? (Chưa ạ)
+ Khi các con xâu xong để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào rổ không
được ném ra sàn nhà nhé!(Vâng ạ)

Hình ảnh trẻ đang chơi hoạt động góc

Ví dụ 3: Ở góc “Nghệ thuật” cũng ở chủ đề “Đồ chơi của bé” tôi có thể
cho trẻ tô màu áo cho các bạn của mình. Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò
chuyện cùng trẻ:
+ Con đang làm gì vậy? (Con tô màu ạ)
+ Con tô áo cho bạn nào đấy? (Bạn Lan Chi)
+ Áo con đang tô màu gì vậy: (Màu xanh ạ)
Như vậy bằng những hoạt động cô đã tạo ra thông qua hoạt động chơi
không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
* Giờ vệ sinh ăn trưa:
Cũng như các hoạt động khác trong ngày giờ ăn trưa của trẻ cũng rất quan
trọng bởi vì trong khi ăn cô luôn trò chuyện cùng trẻ để trẻ trả lời những câu hỏi
mà cô hỏi trẻ, thông qua việc trả lời câu hỏi của cô cũng giúp trẻ củng cốvà làm
phong phú thêm kiến thức về ngôn ngữ.
Ví dụ: Trước khi ăn cơm cô rửa tay cho trẻ trước khi ăn và cô luôn trò
chuyện để trẻ được phát âm nhiều:

15


+ Bạn Quỳnh Hoa có bàn tay đẹp quá!
+ Ở nhà trước khi ăn mẹ có rửa tay cho con không?
+ Thế đôi bàn tay để làm gì con có biết không?

(Để múa, để xúc cơm, để tô màu ạ….)
Trong khi cho trẻ ăn cô luôn động viên khuyến khích trẻ ăn hết xuất của
mình và trò chuyện cùng trẻ:
+ Hôm nay chúng mình ăn cơm với thịt bò nấu củ quả nhé.
+ Bạn Anh Huy tự xúc ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy? (Con ăn
cơm với thịt bò ạ)
+ Bạn Hải giỏi quá con ăn được mấy bát cơm rồi?
+ Khi ăn cơm con có nói chuyện hay đùa nghịch trong lúc ăn không?

Hình ảnh trẻ ăn cơm

* Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần vỗ về trẻ:
+ Cô Hồng mặc áo đẹp cho Lan Chi nhé? (Vâng ạ)
+ Ai mua áo đẹp này cho con? (Mẹ Vân ạ)
+ Mẹ mua áo đẹp này ở đâu? (ở chợ ạ)
2.3.4: Biện pháp 4: Lồng ghép giáo dục ngôn ngữ qua các trò chơi dân
gian
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi cũng là
một biện pháp tốt. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được
16


nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử
dụng “số vốn từ ” đó một cách thành thạo.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn và tôi nhận thấy rằng khi thông qua trò chơi giúp trẻ hứng thú hơn khi tiếp
thu các bài học, khiến thức của trẻ được tiếp thu một cách nhẹ nhàng và thoải
mái hơn.
Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng
trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ

của trẻ ngày càng phong phú.
* Trò chơi 1: Con muỗi

Hình ảnh trẻ đang chơi trò chơi “Con muỗi”
* Cách chơi:
Cô ngồi phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve (Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy
lại theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối
diện, chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).+ úi chà! úi chà! Dang tay ra
đánh cái bép, con muỗi xẹp.(Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một
cái rồi chỉ vào chóp mũi)
* Trò chơi 2: Con rùa
17


* Cách chơi: Cô và trẻ cùng chơi kết hợp vừa bò tiến về phía trước vừa bò
vừa đọc:
Rì rà rì rà
Đội nhà đi chơi
Tối lặn mặt trời
Khi đọc đến câu “Úp nhà nằm ngủ” Thì trẻ cúi xuống giả vờ ngủ, khi cô nói
trời sáng rồi trẻ ngẩng đầu lên và bò theo cô chơi tiếp.
Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 2 - 3 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận
thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập
bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình
thành trọn vẹn hơn .
2.3.5: Biện pháp 5: Phối hợp giữa gia đình và nhà trường:
Gia đình là một tế bào của xã hội, để trẻ phát triển một cách tốt nhất thì gia

đình phải quan tâm đến con em của mình nắm bắt được những đặc điểm của con
em mình để trao đổi với cô giáo để có biện pháp phát triển ngôn ngữ một cách
tốt nhất.
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của
gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ
với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch
lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được.
Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý
nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo
trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều
thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với
các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Ví dụ: Ở nhà mẹ có thể trò chuyện với con về những điều con học được ở
trường như:
- Con học với cô giáo gì?
- Hàng ngày cô giáo dạy con những điều gì?
Ở lớp con có những bạn nào?
- Các con chơi có vui không?
Cứ như vậy trẻ sẽ trả lời các câu hỏi rõ ràng hơn không còn nói ngọng nữa.
Hoặc tôi trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện, bài thơ mà trẻ được học ở
lớp yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ đọc lại những bài thơ, kể lại một số lời
thoại đơn giản, ngắn gọn của các nhân vật trong truyện mà trẻ được học.
Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ còn
hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo
18


trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm,
sửa ngọng.

Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện
có hình ảnh rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và
để xây dựng góc truyện, thơ của lớp.
Qua một thời gian áp dụng tôi thấy ngôn ngữ của trẻ ngày càng tiến bộ hơn
và phụ huynh cũng rất hài lòng về nhà trẻ nói năng nhiều hơn, phát âm rõ hơn
không nói ngọng, nói lắp nữa mà trẻ nói đủ câu hơn. Từ đó phụ huynh quan tâm
nhiều hơn đến việc phối hợp với phụ huynh để giúp ngôn ngữ của con em mình
được phát triển tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ
25 - 36 tháng”. Trong năm học tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt, cụ thể:
* Đối với trẻ:
Phần lớn các cháu lớp tôi rất phấn khởi hào hứng tham gia học tập đa số trẻ
trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng hơn
được thể hiện như sau:
Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp với cô giáo và những người
xung quanh.
Khi giao tiếp với người lớn trẻ đã biết nói đủ câu không còn nói ngọng, nói
lắp nữa mà còn biết diễn đạt một sự việc nào đó rõ ràng hơn, dễ hiểu hơn.
Trẻ đã ít sử dụng câu đơn thay vào đó trẻ đã sử dụng được nhiều kiêu câu
khác nhau.
Trong các câu chuyện trẻ có khả năng kể lại với những lời thoại đơn giản,
ngắn gọn.
* Đối với giáo viên:
Hàng ngày ngoài giờ dạy ở trên lớp tôi luôn dành thời gian để trò chuyện
với trẻ và lắng nghe trẻ nói khi trò chuyện với trẻ cô phải nói rõ ràng, mạch lạc
tốc độ vừa phải để trẻ nghe được rõ hơn.
Bản thân tôi luôn nỗ lực và trau dồi kiến thức để hiểu sâu hơn về đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ và tự tin hơn mỗi khi lên lớp.
Bằng một số biện pháp của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển

ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học tôi thấy ngôn ngữ của các cháu
trong lớp tôi tăng lên rõ rệt và đạt được kết quả như sau:
* Đối với phụ huynh:

19


Phụ huynh quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ cho con em mình hơn.
Việc trao đổi với giáo viên về tình hình của trẻ thường xuyên hơn. Quan tâm đến
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở tại nhà.
Phụ huynh rất phấn khởi, hài lòng trước sự tiến bộ rõ rệt của con em mình,
vì con mình đã nói được mạch lạc hơn, rõ ràng hơn và tự tin hơn khi giao tiếp
với những người xung quanh mà không cần đến cô giáo và bố mẹ giúp đỡ đó là
điều mà nhiều phụ huynh rất mừng.
Bảng thống kê kết quả đạt được
Khảo sát cuối năm
Đạt
Tốt

Phân loại khả năng

Khá

Chưa đạt

TB

Số
trẻ


%

Số
trẻ

%

Số
trẻ

%

Số
trẻ

%

Khả năng nghe hiểu
ngôn ngữ và phát âm
chuẩn

8

67

2

17

2


17

0

0

Vốn từ

9

75

2

17

1

8,3

0

0

Khả năng nói đúng
ngữ pháp

8


6

2

17

2

17

0

0

Khả năng giao tiếp

10

83,3

1

8,3

1

8,3

0


0

3: Kết luận, kiến nghị.
* Kết luận:
Bài học kinh nghiệm:
Để có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá trình
thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và
phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
Làm giầu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, vui chơi, kể
truyện và đọc truyện cho trẻ nghe.
20


Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với nội
dung của bài dạy.
Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm đến
những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn,
tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ để trẻ được phát triển ngôn ngữ
một cách tốt nhất.
Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn
tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
Tích cực cho trẻ làm quen với thiên nhiên để phát triển khả năng quan sát,
giúp trẻ củng cố và tư duy hoá các biểu tượng bằng ngôn từ.
Khả năng nhận định của sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng”. Đây là một việc làm

thường xuyên thiết thực giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất, bởi vì
ngôn ngữ phát triển mạch lạc thì trẻ mới tự tin trong giao tiếp và bày tỏ được ý
kiến, nguyện vọng của bản thân mình. Làm tốt công tác này có nghĩa là chúng ta
đang góp phần tạo dựng con người mới, con người của thời đại “Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa” đó là: Tự tin, sáng tạo, năng động, tự lập làm chủ cuộc sống
của chính bản thân mình.
Những ý kiến đề xuất: Không có đề xuất gì.
Trên đây là “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng”
của lớp tôi mà bản thân đã áp dụng có hiệu quả tại nhóm trẻ tại trường mầm non
Cẩm Tú huyện Cẩm Thủy.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Cẩm Tú, ngày 25 tháng 03 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chép nội dung của
...............................................................
người khác.
...............................................................
Người viết
...............................................................
ĐƠN VỊ

Hiệu trưởng
Hà Thị Hồng
Phan Thị Lan

21



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ trường MN – ban hành theo QĐ số 14/2008/QĐ – BGDĐT
1- Tuyển chọn những trò chơi, bài hát, thơ ca, câu đố theo chủ đề.
2- Hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN trẻ 25 - 36 tháng.
3- Các trò chơi và hoạt động cho trẻ 25- 36 tháng.
5- Tạp chí giáo dục mầm non
6- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên. Nội dung bồi dưỡng 2.
7- Tài liệu đào tạo giáo viên mầm non.

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Hà Thị Hồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cẩm Tú.

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)


Một số kinh nghiệm Phòng giáo dục
và đào tạo huyện
rèn luyện nề nếp
Cẩm Thủy
thói quen cho trẻ

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B, hoặc
C)
C

Năm học
đánh giá xếp
loại
2012 - 2013

25- 36 tháng

ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG
23


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….

Xếp loại: ………………………………………………………………………….

ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKH PHÒNG GIÁO DỤC

24


...
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Xếp loại: …………………………………………………………………………

25


×