Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

(Skkn 2023) một số biện pháp dạy học môn mĩ thuật cho học sinh lớp một theo phương pháp đan mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.68 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Môn học Mĩ thuật trong nhà trường phổ thơng nói chung và ở bậc Tiểu học nói
riêng khơng nhằm mục đích đào tạo học sinh thành những hoạ sĩ hay những nhà nghiên
cứu nghệ thuật chuyên nghiệp mà là để giáo dục cho các em thị hiếu thẩm mĩ cần thiết
cho việc hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện, hài hồ: đó là khả năng biết
cảm nhận và biết tạo ra cái đẹp trước hết là cho chính các em sau là cho gia đình và xã
hội.
Cũng như nhiều đơn vị trường tiểu học khác trên địa bàn huyện Ba vì, phương pháp
dạy học mĩ thuật mới được áp dụng vào giảng dạy ở trường tiểu học....... từ năm học
2016- 2017. Mục tiêu của phương pháp dạy học Mĩ thuật mới này hướng nhiều đến khả
năng sáng tạo, tư duy của học sinh, đáng kể nhất là rèn được nhiều kỹ năng quan trọng
cho học sinh như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, kỹ năng hợp tác… Việc dạy học Mĩ
thuật theo phương pháp của Đan Mạch giúp giáo viên nói chung và giáo viên dạy Mĩ
thuật nói riêng nhận thức được: Dạy học Mĩ thuật trong nhà trường thơng qua các hoạt
động tạo hình để khơi gợi và phát huy khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho
các em trước cái đẹp tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình trong cuộc
sống hằng ngày. Việc dạy học Mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch nhằm truyền
cảm hứng cho giáo viên dạy Mĩ thuật, khuyến khích giáo viên kết hợp các kỹ năng mỹ
thuật với các phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, khuyến khích sự
tương tác, kích thích tư duy sáng tạo, kích thích phát triển nhận thức thông qua hoạt
động thực tế. Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy Mĩ thuật, giáo viên sẽ tổ chức
dạy cho các em học Mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ cùng nhau, Vẽ theo nhạc, Vẽ biểu
đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây dựng cốt truyện... Thơng qua các hoạt động
tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy được năng khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú
cho các em trước cái đẹp, tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trong cuộc
sống. Đây là một chương trình giáo dục Mĩ thuật Tiểu học năng động, phát huy, rèn
luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống, một sự thay đổi lớn cả
về phương pháp lẫn mục tiêu giáo dục của bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học. Ngoài việc thay
đổi nội dung phân phối chương trình, sự thay đổi hình thức tổ chức lớp học phần lớn
được thơng qua hoạt động nhóm thì vấn đề để học sinh tiếp thu được kiến thức, phát


triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ thuật là một trong những vấn đề trọng tâm
khiến giáo viên khơng khỏi tránh được những khó khăn, vướng mắc. Vì theo phương
pháp mới, mỗi chủ đề sẽ thực hiện bằng nhiều quy trình mĩ thuật khác nhau, giáo viên
hồn tồn khơng hướng dẫn học sinh thực hành mà chủ yếu do học sinh tự tìm hiểu vấn
đề, đề ra cách giải quyết. Câu hỏi đặt ra là học sinh lớp Một có khả năng tư duy và sáng
tạo ra câu chuyện được kể bằng ngôn ngữ mĩ thuật? Hầu hết các giáo viên dạy Mĩ thuật
Tiểu học đều cho rằng minh họa hướng dẫn từng bước để học sinh vẽ cịn chưa hiệu quả
huống gì là để tự các em vẽ theo cảm nhận và sự hiểu biết của bản thân.
Trang 1


Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới theo dự án SAEPS là tích cực,
mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các phương pháp dạy học mới được triển khai trong dự án đã kích thích sự say mê,
hứng thú trong học tập, bồi dưỡng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy
và trí tưởng tượng của học sinh.Tơi đã m¹nh dạn nghiên cứu ti: Mt s bin phỏp
dy hc môn Mĩ thuật cho học sinh lớp Một theo phương pháp Đan Mạch”nhằm
- Giúp học sinh lớp Một thêm yêu thích mơn học thơng qua các hoạt động học tập.
- Giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng,sáng tạo khả năng tư duy, rèn luyện
cho các em khả năng biểu đạt, phân tích và kỹ năng giao tiếp.
- Rèn cho học sinh có thói quen chủ động, thoải mái nhẹ nhàng nhưng vẫn đảm
bảo kỷ luật lớp học.
Đối tượng nghiên cứu.
- Chủ thể: Một số biện pháp dạy học môn mĩ thuật cho học sinh lớp Một theo
phương pháp Đan Mạch.
- Khách thể : Học sinh khối Một........
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu:
-Tìm hiểu q trình dạy và học mơn Mĩ thuật ở lớp Một.
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản thường gặp, những tình huống, ưu điiểm hạn chế

trong quá trình dạy và học môn mĩ thuật ở khối 1 tại trng tiu hc........
III. Thời gian thực hiện đề tài.
Năm học: 2017 - 2018

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Các phương pháp t«i sử dụng vào nghiên cứu đề tài bao gồm:
1. Phương pháp vấn đáp: Là phương pháp mà giáo viên sẽ dùng một hệ thống câu
hỏi để học sinh trả lời bằng miệng nhằm thu được những thơng tin nói lên nhận thức
hoặc thái độ của cá nhân đối với vấn đề học bộ môn Mĩ thuật 1 theo phương pháp mới
(phương pháp Đan Mạch).
2. Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thơng tin về q trình
giáo dục trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động dạy – học cho ta những tài liệu về
thực tiễn để có thể nắm bắt một cách hiệu quả và chính xác. Thơng qua q trình quan
sát, giáo viên ghi nhận lại tình hình học tập của học sinh, những vấn đề nảy sinh trong
quá trình giảng dạy nhằm tìm ra biện pháp giải quyết thích hợp nhất.
3. Phương pháp thực nghiệm: Tác động vào học sinh và quá trình dạy – học để
hướng theo mục tiêu dự kiến của mình.
4. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng
và tổng hợp các kết quả thu được qua quá trình nghiên cứu.
V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Để vấn đề nghiên cứu được thực hiện có hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra, trước
khi đi sâu vào giải quyết và tìm ra giải pháp, tôi đã đề ra một số giả thuyết và dự kiến
tình huống như sau:
1. Nếu giáo viên thực hiện tốt việc áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới thì
hiệu quả giáo dục sẽ cao.
2. Những quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới của SAEPS kích thích sự tư
duy, sáng tạo của học sinh. Nếu giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt vào điều kiện
thực tế thì sẽ khơng cịn gặp khó khăn gì.
Trang 2



3. Mĩ thuật là một bộ môn thuộc về năng khiếu của mỗi cá nhân.

I. C¬ së lý luËn

PHẦNII. NỘI DUNG Đề tài

1. Nhng nh hng v mc tiờu giỏo dục Mĩ thuật bậc Tiểu học:
Trang 3


Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Đồng thời còn nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp cho học sinh những cơ
sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách một con
người, chuẩn bị tốt cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao
động để học sinh tiếp tục học lên trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và
nguyện vọng bằng những hình thức thích hợp”. Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ
trong trường Tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo dục
khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh. Chính vì vậy
việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hố thẩm mĩ phổ thơng là hết
sức cần thiết.

2. Đặc điểm tâm lý học sinh lớp Một:
Ở độ 6 tuổi là khởi đầu của giai đoạn phát triển mới của tư duy. Hình ảnh của tưởng
tượng cịn đơn giản, hay thay đổi do năng lực tư duy hạn chế. Mặt khác, năng lực chú ý
và trí nhớ ở lứa tuổi này cũng còn kém bền vững, chưa thể tập trung lâu trong thời gian
dài.Các em luôn hiếu động ham chơi, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán do mơi

trường của các em có sự thay đổi, từ hoạt động vui chơi là chính chuyển qua hoạt động
chủ đạo là học tập. Các em có thể nhớ rất nhanh và thích làm những gì mình thích,
nhưng lại mau quên, khó tập trung vào việc học. Tâm lý của các em là thích được khen
hơn chê, cho nên khi các em được thầy cô khen, bạn bè quý mến các em rất thích.

3. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới
(thuộc dự án do Đan Mạch hỗ trợ).
Giáo dục Mĩ thuật Tiu hc l mt phn quan trng trong phơng pháp này nhằm
truyền cảm hứng cho giáo viên dạy Mĩ thuật để hỗ trợ học sinh phát triển khả năng tiếp
thu thẩm mĩ và sáng tạo, bằng cách khuyến khích các em trải nghiệm, sáng tạo, bày tỏ,
hợp tác và giao tiếp với nhau qua các hoạt động mĩ thuật thực tế qua đó học sinh tự làm
giàu cách biểu đạt phân tích đánh giá.
Mục tiêu của phương pháp này giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực:
- Năng lực trải nghiệm: Cho các em được làm việc với những chủ đề liên quan đến
kinh nghiệm đã có của bản thân.
- Năng lực kỹ năng và kỹ thuật thông qua các hoạt động : Vẽ cùng nhau, chân dung
biểu đạt,
- Năng lực biểu đạt: Có nghĩa là học sinh ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để diễn đạt
sự trải nghiệm và thái độ của bản thân.
- Năng lực phân tích và trình bày: Thơng qua các hoạt động trình bày về tác phẩm
của mình, tham gia giải thích, phân tích, nhận xét về nghệ thuật, kỹ thuật thể hiện tác
phẩm.
- Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là giáo viên có thể chủ động theo từng
nội dung tiết dạy mà kết hợp nhiều kỹ thuật trong một bài dạy. Nội dung chương trình
giáo dục Mĩ thuật theo phương pháp mới khơng theo trình tự các bài như chương trình
hiện hành, mà giáo viên căn cứ vào đó để xây dựng các chủ đề cho phù hợp. Mỗi chủ đề
tạo thành một quy trình mỹ thuật tương tác và tích hợp giữa 5 nội dung: Vẽ theo mẫu,
Trang 4



Vẽ trang trí, Vẽ tranh, Tập nặn tạo dáng, Thường thức Mỹ thuật. Mỗi chủ đề sẽ lồng
ghép giáo dục nhiều mục tiêu và được thực hiện ít nhất là 2 tiết, nhiều nhất là 5 tiết.
2.C¬ së thùc tiƠn
Với học sinh lớp Một các em vẽ hình thường cịn quá nhỏ, không tự tin khi thể hiện
(khi vẽ biểu đạt, tạo ngân hàng hình ảnh), bố cục trống trải (khi vẽ cùng nhau), tạo hình
bằng đất nặn, xé dán hình chưa phong phú dẫn đến sản phẩm đạt được khơng đẹp mắt,
khó biểu đạt nội dung chủ đề. Mặt khác do chất liệu bút chì dễ tẩy xố nên nhiều học
sinh quá lạm dụng tẩy, làm cho bài vẽ bị bẩn, thường bị rách giấy, hình vẽ thiếu tự
nhiên. Các bài vẽ, các sản phẩm của học sinh còn mang tính sao chép, na ná giống
nhau, chưa có nhiều sáng tạo hay ý tưởng đột phá. Khi vẽ màu thường đơn điệu, khơng
có đậm nhạt, vẽ màu khơng gọn. Trong khi có thể nói các em rất thích học Mĩ thuật,
thích vẽ, thích xem tranh, thích được sáng tạo nhưng các giờ học vẫn đại đa số vẫn chưa
thực sự thoải mái, chưa thật sự là “không gian của sự sáng tạo”. Các em vẽ thường bị
gị bó, cơng thức, đơi khi rập khn, sự suy nghĩ, tìm tịi chưa được giải phóng, hiện
tượng bắt chước, lặp lại từ cách vẽ hình, vẽ màu, cách tìm chủ đề cho vẫn còn chung
chung...Nhưng nếu giáo viên thiếu quan sát hay quản lý lớp là các em thường nói
chuyện riêng, đùa giỡn,làm ảnh hưởng đến lớp học bên cạnh, nhất là khi làm việc nhóm
hay vẽ ngồi sân trường, ngồi khơng gian lp hc.
iii.Thực trạng của trờng tiểu học.......và việc đổi mới phơng pháp
giảng dạy.
1.Thực trạng về giáo viên và học sinh

1.1Thuận lợi
* Giáo viên:
- Giáo viên dạy Mĩ thuật luôn được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt là Ban
Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên áp dụng
phương pháp mới vào giảng dạy, luôn tạo mọi điều kiện để giáo viên an tâm công tác và
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Giáo viên nhiệt tình, u nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn.
- Cơ sở vật chất của nhà trường khá khang trang, sạch đẹp,

* Học sinh:
- Các hoạt động của mỗi chủ đề nối tiếp liền mạch nhau, làm cho học sinh luôn cảm
thấy hào hứng khi được khám phá, sáng tạo với nhiều trải nghiệm. Mặt khác, các em
được thỏa thích với những sáng tạo, được trao đổi, học hỏi từ bạn rất nhiều. Thông qua
hoạt động mỹ thuật thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách biểu đạt, phân tích, đánh
giá, tự lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực cá nhân
- Có thể nói việc giảng dạy bộ mơn Mĩ thuật học sinh rất u thích mơn học vì là
một giờ học khơng gị bó, khơng có nhiều áp lực. Đó chính là một lợi thế, khơng phải
mơn học nào cũng có được.

b. Khó khăn:
* Giáo viên:
- Trang thiết bị phục vụ môn học chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho dạy - học Mĩ thuật.
- Khi dạy theo phương pháp của Đan Mạch đòi hỏi giáo viên phải có kế hoạch dạy
học xuyên suốt và liên kết giữa các tiết trong cùng một chủ đề. Xây dựng nội dung các
chủ đề như thế nào cho đảm bảo mục tiêu giáo dục thì giáo viên vẫn cịn nhiều băn
khoăn. Nếu chủ đề quá xa lạ hoặc quá khó sẽ không tạo được hứng thú học tập cho các
em và ngược lại nếu quá dễ thì sẽ gây tâm lý nhàm chán cho học sinh.
Trang 5


* Về học sinh:
- Đối với học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp Một nói riêng, giáo viên phải
hướng dẫn vẽ từng bước chi tiết có khi các em còn chưa thực hiện được mà theo
phương pháp mới các em phải tự tìm ra cách thể hiện, cách vẽ, cách dựng câu chuyện…
thông qua những trải nghiệm trên lớp. Hơn nữa nếu là học sinh lớp Một thì vấn đề này
càng đáng lo ngại, bởi lẽ không phải học sinh nào cũng sẵn sàng sáng tạo khi mà bản
thân chưa hiểu, chưa nắm được cách vẽ, cách thể hiện qua các đường nét, màu sắc…để
đạt yêu cầu bài học. Học sinh chưa phát huy được sự sáng tạo, chưa mạnh dạn tham gia
các hoạt động trên lớp.

- Khi áp dụng phương pháp mới thì hình thức tổ chức lớp học thay đổi, chủ yếu là
thực hành theo nhóm, giáo viên sẽ mất nhiều thời gian cho việc sắp xếp, ổn định chỗ
ngồi cho học sinh, rất khó khăn trong việc quản lý trật tự lớp học. Hoạt động theo nhóm
nhiều lợi thế nhưng nếu khơng được tổ chức một cách khoa học thì vấn đề trật tự lớp
học sẽ vượt ra khỏi tầm kiểm soát của giáo viên. Vì học nhóm, các em ngồi đối diện
nhau hoặc thành vịng trịn nên hay nói chuyện, đùa giỡn trong giờ học. Hầu hết giáo
viên dạy bộ môn cho học sinh lớp Một đều gặp khó khăn ở đầu năm học. Nề nếp lớp
chưa ổn định, học sinh không quen ngồi lâu trong khn khổ. Giữ trật tự đã khó, để các
em tham gia vào hoạt động học tập theo hướng dẫn của giáo viên cịn khó hơn.
- Bảy quy trình dạy – học mĩ thuật chủ yếu là đề cao khả năng tự học của học sinh,
nhưng để thực hiện được một quy trình các em phải chuẩn bị rất nhiều vật dụng như :
giấy …Điều này quả là khó khăn cho cả giáo viên và học sinh, vì bản thân các em chưa
thể tự chuẩn bị được mà phải có sự hỗ trợ từ phía phụ huynh. Mặt khác, học sinh lớp
Một rất khó khăn trong việc sử dụng kéo, khi thực hiện giảng dạy theo những quy trình
này, giáo viên thường mất rất nhiều thời gian để hướng dẫn, hỗ trợ các em, thậm chí hết
tiết học mà nhiều em vẫn chưa hồn thành được sản phẩm.

III. Nh÷ng biƯn Ph¸p thùc hiƯn
BiƯn pháp 1: Lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần
đổi mới theo phương pháp của SAEPS.
* Mục đích: Lập kế hoạch dạy chi tiết từng hoạt động giúp giáo viên chủ động và
ứng phó kịp thời, đúng đắn các tình huống sư phạm có thể xảy ra trên lớp.
Trang 6


* Biện pháp thực hiện: Khi dạy học dưới bất cứ phương pháp nào đều yêu cầu
giáo viên phải lập được kế hoạch dạy học hồn chỉnh. Đó khơng chỉ là đơn thuần thực
hiện cho đúng nhiệm vụ khi lên lớp mà nó cịn thể hiện tinh thần trách nhiệm của mỗi
giáo viên đối với học sinh. Có thể nói việc lập kế hoạch giảng dạy tốt là đã thành cơng
một nửa của q trình dạy học. Giáo viên là người điều khiển quá trình và tạo điều kiện

cho học sinh phát triển tư duy bằng các câu hỏi mở và khuyến khích các em chia sẻ
những kinh nghiệm sẵn có của mình. Điều này tạo ra nền tảng cần thiết để giúp các em
kiến tạo được quy trình học tập của mình bằng cách liên hệ những điều đã biết với
những điều sẽ học. Khi lập kế hoạch tôi sẽ căn cứ vào tình hình thực tế của lớp để điều
chỉnh, thay đổi cho phù hợp và sát với khả năng tiếp thu của học sinh. Kế hoạch cho
từng hoạt động hoặc cho tồn bộ quy trình theo phương pháp Đan Mạch có thể ngắn,
dài và kết nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với nhau, kết thúc hoạt động
này sẽ là mở đầu cho hoạt động tiếp theo… Cụ thể khi xây dựng kế hoạch dạy học theo
phương pháp mới cần phải chú ý tới:
- Mục tiêu bài học: Mỗi bài học, tiết học đều có mục tiêu chung là hướng tới hình
thành cho học sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng
lời nói, học sinh tưởng tượng và sáng tạo được một câu chuyện bằng ngôn ngữ mĩ thuật.
Tôi xác định rõ mục tiêu cụ thể của bài học đó là học sinh hiểu được gì? Thực hiện như
thế nào và làm được gì? Ví dụ chủ đề khu nhà nơi em ở :
Mục tiêu: Giúp học sinh phát triển được khả năng quan sát và phát hiện về hình khối
đơn giản xung quanh mình. Học sinh xử dụng được các hình khối để tạo nên các hình
dáng đơn giản, cụ thể về ngơi nhà và khung cảnh xung quanh. Học sinh phát huy khả
năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng lời nói.
- Nội dung chủ đề: Nội dung các chủ đề phải vừa sức học sinh, phù hợp với tâm lý
lứa tuổi của các em.
- Điều kiện tiên quyết: Đó là những u cầu thiết yếu để q tình giảng dạy có hiệu
quả, bao gồm: Tạo điều kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý khả năng, phong
cách học của từng học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học sinh và chiến lược học
tập;xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền cảm hứng cho các em.
- Môi trường học tập: Học tại lớp, học ở phòng chức năng. Môi trường học tập thoải
mái sẽ hỗ trợ rất nhiều cho quá trình dạy và học.
- Quá trình học: Mỗi quá trình học là một sâu chuỗi các hoạt động diễn ra.
- Đáng giá: Đánh giá từng giai đoạn và đánh giá cả q trình thực hiện.
Mơn Mĩ thuật là môn dành thời gian chủ yếu cho học sinh thực hành, do vậy tôi
luôn thiết kế tổ chức các hoạt động trải nghiệm phong phú, đa dạng nhưng không quá

dài, mất nhiều thời gian. Tuyệt đối không đưa ra tranh vẽ, sản phẩm làm mẫu để học
sinh quan sát trước khi thực hành mà phải để học sinh chủ động tích cực tìm hiểu và
tham gia vào q trình tranh luận, thảo luận, bàn bạc khi làm việc cùng các bạn. Để
thực hiện việc lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần đổi
mới theo phương pháp của SAEPS, giáo viên tiến hành như sau:
a. Dự kiến các hoạt động dạy-học diễn ra theo trình tự hợp lý và nối tiếp nhau.
Mỗi tiết dạy, mỗi giai đoạn của một quy trình đều có những hoạt động và mục tiêu
giáo dục khác nhau, do đó tơi xây dựng và đề ra những nội dung cơng việc cụ thể, hình
thức học tập, cách thực hiện...
Trang 7


Ví dụ ở tiết 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiu ch : Thiên nhiên tơi đẹp trỡnh t
cỏc hoạt động như sau:
- Tổ chức trò chơi: Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhµ,
cây...... Học sinh dưới lớp hát 1 bài, khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải ngừng tay.
Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ được nhiều hình cây nhất là đội thắng cuộc.
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét phần thi đua của các đội.
- GV giới thiệu chủ đề:
+ Cảnh vật xung quanh chúng ta thường có những gì? (cây cối, hoa lá, nhà cửa,…).
+ Để giúp các em thấy được vẻ đẹp của cảnh vật xung quanh chúng ta và vẽ được
những bức tranh thật đẹp, hôm nay cô và các em cùng tỡm hiu qua ch :Thiên nhiên
tơi đẹp.
- Giỏo viờn cho học sinh quan sát một số ảnh vườn cây........, gợi ý học sinh trả
lời:
+ Trong tranh, ảnh này có những C¶nh gì?
+ Em hãy kể những loại cây, ngơi nhà mà em biết ?
+ Em sẽ chọn những cây,nhµ..... gì để vẽ tranh.
- Giáo viên tóm tắt :
- Học sinh thảo luận nhóm đơi: Kể cho bạn nghe về hình mà mình thích.

- Một số học sinh kể trước lớp..
- GV kết luận: Vẽ tranh chủ đề về Thiên nhiªn tơi đẹp em cú th v c rt nhiu
cỏc hỡnh ảnh khác nhau. Có thể là vườn cây, vườn hoa,..trong đó có thêm hình ảnh các
con vật, người cho bức tranh thêm sinh động.
- Gợi ý học sinh cách vẽ:
- Một số học sinh lên bảng tập vẽ.
- Giáo viên và học sinh cùng nhận xét, rút ra cách vẽ.
- Học sinh hát một bài kết hợp vận động để kết thúc tiết học.
b.Dự kiến cách giới thiệu bài phong phú, đa dạng để lơi cuốn học sinh tham gia
tích cực vào tiết học.
Nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần ngắn gọn, cứ nêu ngay tên bài là
xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo dục của việc này. Nếu làm phép thử
nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới thiệu bài trực tiếp và giới thiệu bài gián tiếp
sẽ thấy rõ ngay hiệu quả như thế nào.
Ví dụ khi giới thiệu chủ đề Nh÷ng con vËt ngé nghÜnh.
- Giáo viên tổ chức trò chơi ô chữ đoán tên con vật khi học sinh đoán đúng thì hình
con vật được lật ra. Kết thúc trị chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là những con vật quen
thuộc. Để giúp các em có thể tạo hình được những con vật ni mà mình thích, hơm
nay cơ và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề Nh÷ng con vËt ngé nghÜnh.
-Häc sinh nắm được tên bài học, biết được những con vật nào là vật ni, khơng khí
lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được tham gia trị chơi.Giáo viên giới thiệu
bài thơng qua nhiều hình thức như: thơng qua trị chơi, kể một câu chuyện nhỏ, một tình
huống hay đóng vai, tạo dáng, ®Ĩ tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa cung cấp kiÕn
thức một cách dễ hiểu nhất.
c. Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm.
Học sinh thích học thơng qua các họat động nên giáo viên không nên sử dụng hình
thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý thuyết gắn với thực
Trang 8



hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức
và nhớ lâu bền. Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh được phát triển khơng ngừng và có sự
khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát, trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện
con người, con vật, đồ vật về hình dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích
thích thơng qua các khả năng của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như:
những thành viên trong gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với
con vật yêu thích, đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự
vật, hiện tượng xung quanh thông qua các kênh thơng tin như: ti vi, tạp chí, sách vở,
truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần học
sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau về hình
dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật, biểu tượng người
khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng, tùy theo từng chủ đề mà
giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học sinh nhớ lại kiến thức, những
kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ hội chia sẻ những gì các em đã biết
khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học
sinh sẽ có được những kiến thức thực tế để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tị mị,
trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe
kể chuyện, chia sẻ những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh,
hoặc tổ chức các trò chơi phù hợp vi tng lp hc.
Vớ d: hoạt động Em t giới thiệu giáo viên tổ chức cho học sinh tạo dáng sẽ
thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng
cao hiểu biết về những tình huống sự kiện từ đời sống hàng ngày của các em.
e. Kế hoạch giảng dạy mt ch (giỏo ỏn):
Trớc khi lên lớp tôi luôn xây dựng kế hoạch dạy học theo chủ đề cụ thĨ.
- Tiết 1: Học sinh tìm hiểu về chủ đề thông qua các hoạt động trải nghiệm, tham
quan, quan sát thực tế…để hình thành ý tưởng cho tác phẩm của mình.
- Tiết 2: Học sinh thể hiện ý tưởng c¸ nh©n.
- Tiết 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động nhúm.
Vớ d: Ch Những con cá đáng yêu (M thuật 1) – thực hiện 3 tiết. Trong đó:
Tiết 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề. T«i gợi ý học sinh tìm hiểu hình dáng

các con c¸ thơng qua các câu hỏi gợi ý để các em thảo luận. Tổ chức trị chơi Thi vẽ
nhanh một con c¸ mà em thích. Học sinh tìm ra cách vẽ các con c¸ sau khi trải nghiệm
chơi. Học sinh vẽ những con vật ni mà mình thích vào giấy A4. Học sinh trong nhóm
trao đổi và học hỏi cách vẽ.
Tiết 2: Vẽ cùng nhau. Học sinh vẽ theo nhóm, kết hợp xé dán những con c¸ em
thích (được lựa chọn từ những con vật các em đã vẽ ở tiết trước).
Tiết 3: Tạo hình 3D. Học sinh nặn kết hợp xé dán hình các con c¸ theo nhãm và
trưng bày sản phẩm. Giáo viên tổ chức cho học sinh xem và nêu cảm nhận của cá nhân.
BiÖn pháp 2: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả năng
nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự dựa trên những gì các em đã biết,
những gì liên quan đế sở thích của các em.
* Biện pháp thực hiện: Bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới bao gồm:
1. Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện.
2. Quy trình Vẽ biểu cảm.
Trang 9


3. Quy trình Trang trí và vẽ tranh qua âm nhạc.
4. Quy trình Xây dựng cốt truyện.
5. Quy trình Tạo hình từ dây thép và vật tìm được.
6. Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình khơng gian.
7. Quy trình Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật.
Giáo viên tạo hứng thú cho học sinh bằng cách lập nên các quy trình dạy - học mĩ
thuật tích hợp, linh hoạt theo chủ đề liên quan đến kinh nghiệm cá nhân, tâm lý lứa tuổi
và kiến thức của học sinh. Tùy điều kiện cơ sở vật chất mà giáo viên tổ chức các hoạt
động học tập vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới. Khi thực hiện tích hợp các
quy trình dạy - học giáo viên cần chú ý:
- Xây dựng dựa trên những gì học sinh đã biết, và những gì liên quan đến sở thích,
mối quan tâm của các em.

- Để học sinh chủ động trong quá trình học tập.
- Tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo, giao tiếp và thể hiện.
- Hình thành cho học sinh những kĩ năng cần thiết như: nói, trình bày và làm việc
cùng nhau
- Tơi ln tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự thơng qua việc học sinh
tự làm và thích làm, bởi vì quy trình dạy - học mĩ thuật đó có liên hệ và gắn với cuộc
sống hàng ngày và quá trình học tập của các em, sẽ phát triển thêm những kỹ năng sống
mới cho các em.
Trong các quy trình dạy - học mĩ thuật sáng tạo Tôi luôn chỉ ra cho học sinh thấy
rằng có vơ vàn cách thức biểu đạt khác nhau chứ khơng phải chỉ có một cách duy nhất.
Những quy trình dạy - học mĩ thuật này không phải là công thức cố định mà chúng ta
phải làm theo. Những quy trình này tạo cảm hứng cho giáo viên và nó cịn có thể điều
chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên
có thể phát triển khả năng của học sinh ở các mức độ khác nhau trong các quy trình này
như khả năng trải nghiệm, sáng tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá. Với bất kì quy trình
dạy - học mĩ thuật nàoTơi ln quan tâm đến việc dẫn dắt học sinh trao đổi, thảo luận
trong suốt quy trình với các hoạt động học như thế nào và trưng bày tác phẩm hoàn
thành ra sao. Cùng lúc với việc phát triển những khả năng nói trên, học sinh cũng có thể
phát triển các giác quan, các kỹ năng sống, các năng lực hợp tác, kinh nghiệm và khả
năng giải quyết vấn đề, năng lực tự học và tự đánh giá. Giáo dục mĩ thuật giúp học sinh
có khả năng khám phá ra năng lực của mình thơng qua các phương tiện khác nhau cũng
như trải nghiệm những niềm vui thích khi tạo ra những sản phẩm, những biểu đạt mang
tính độc lập và đặc sắc của mình. Điều này giúp học sinh có thể sử dụng và ứng dụng
ngơn ngữ mĩ thuật để có thể biểu đạt kinh nghiệm và thái độ của các em bằng nhiều
cách khác nhau. Cụ thể là:
- Năng lực giao tiếp được phát triển thông qua việc thảo luận, làm việc nhóm.
- Năng lực đánh giá được phát triển qua quá trình quan sát,trải nghiệm và thưởng
thức các sản phẩm mĩ thuật do chính các em tạo nên…
Ví dụ: Giáo viên và học sinh đánh giá kết quả làm việc khi các nhóm học sinh
thuyết trình về tác phẩm của mình. Để diễn giải, phân tích và khuyến khích các em đưa

ra phản hồi và hội thoại với nhau về tác phẩm Tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn, tìm
kiếm hình ảnh tưởng tượng qua khung hình trên bức tranh màu sắc trừu tượng, đóng
kịch, di chuyển vị trí nhân vật trong tranh, nhân cách hố hình ảnh, hoặc vẽ lại một tác
Trang 10


phẩm nghệ thuật...Mỗi nhóm học sinh trình bày câu chuyện của mình giống như một vở
kịch ngắn. Học sinh sẽ thảo luận và đánh giá các hoạt động tại lớp học. suốt quy trình,
giáo viên và học sinh có thể thảo luận mục đích và kết quả qua từng bước sáng tạo từ
đầu cho đến khi có sản phẩm cuối cùng. Sau mỗi quy trình, giáo viên và học sinh sẽ
đánh giá chất lượng của mỗi sản phẩm được tạo ra cũng như hiệu quả xuyên suốt quá
trình học tập.
Tuy nhiên,khả năng nhận thức của học sinh lớp Một chưa thể đáp ứng được yêu cầu
khi dạy theo phương pháp mới nên giáo viên chỉ có thể áp dụng 5 quy trình, cịn 2 quy
trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình khơng gian, Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ
thuật chỉ có thể thực hiện ở các khối lớp lớn hơn. Cụ thể thực hiện các quy trình như
sau:
Quy trình vẽ cùng nhau: Học sinh biến những quan sát của mình thành các bức vẽ cá
nhân. Tất cả các bài vẽ cá nhân sẽ là ngân hàng hình ảnh của nhóm để các em lựa chọn,
sắp xếp theo một câu chuyện và vẽ cùng nhau, tạo thành một tác phẩm lớn hơn.Khi tạo
ngân hàng hình ảnh,vẽ cùng nhau sẽ vẽ vào giấy A4 (vẽ theo nhóm 2 hoặc nhóm 4).
Điều này cũng ít nhiều làm ảnh hưởng đến sự kết hợp của các em trong hoạt động nhóm
do giấy quá nhỏ, chỉ phù hợp ở nhóm 2 và 3.
Quy trình vẽ biểu cảm: Học sinh khám phá năng lực của mình thơng qua các phương
tiện khác nhau. Cũng như trải nghiện sự vui thích khi tạo ra sản phẩm, những biểu đạt
mang tính độc lập và đặc sắc của mình.Chủ đề em và bạn em
Biện pháp 3 : Xây dựng bầu khơng khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập
cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trị chơi.
* Mục đích: Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các
hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Học sinh cảm nhận

được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa
thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động tập thể.
* Biện pháp thực hiện:
Trị chơi có chứa đựng những chủ đề, nội dung nhất định, có những quy chế nhất
định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng
thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học
sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học.Trị
chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say vào học tập, chống mệt mỏi,
tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng cường khả năng thực hành kiến thức
của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học
sinh, lôi cuốn các em vào những hoạt động học tập. Hay nói cách khác: trò chơi học tập
là hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí nhưng có nội dung gắn với bài
học hay hoạt động học tập của học sinh.
- Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học Tơi thường tổ chức trị
chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi
các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo
hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Do đó Tơi ln linh
hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của
giờ học.
- Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một hình thức
học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với
Trang 11


bài học. Trị chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó giảm
tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức mới. Trị chơi có nhiều
học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng
cường khả năng giao tiếp và giúp các em rèn kỹ năng hợp tác. Có thể nói điều khiển
tiến trình một cuộc chơi với học sinh lớp Một sao cho sôi nổi, sinh động, hấp dẫn lôi
cuốn được tất cả các em tham gia chơi một cách thích thú nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu

tiết học là khơng dễ. Vì nếu tổ chức sơ sài hoặc mang tính chất hình thức thì học sinh
tham gia một cách miễn cưỡng, có em cịn nhân dịp này để làm việc riêng, đùa giỡn gây
mất trật tự lớp học. Còn nếu tổ chức quá chú trọng vào phần chơi mà quên đi phần học
thì giáo viên sẽ khó mà quản lý lớp học đi đúng hướng.
Một số trị chơi có thể áp dụng như: thi vẽ nhanh, vẽ đẹp, tưởng tượng từ hình có
sẵn… vào đầu, cuối tiết học hoặc trước khi thực hành. Đây chính là thời gian để các em
luyện vẽ và tăng cường khả năng vẽ nhanh, vẽ đẹp và giúp các em phấn chấn tinh thần,
hăng hái học tập hơn. Cách tiến hành như sau :
Trị chơi Tưởng tượng từ hình có sẵn: Tơi vẽ lên bảng một số hình (có liên quan đến
chủ đề đang học) .Yêu cầu các đội cử đại diện tham gia thi đua vẽ tiếp vào hình có sẵn
để thành hình theo đúng chủ đề giáo viên yêu cầu. Ví dụ như chủ đề Con vật ni, giáo
viên có thể vẽ lên bảng những hình con vËt.
Từ những hình này, học sinh vẽ tiếp thành hình các con vật mà em thích như: con trâu,
con heo, con mèo, con thỏ…
- Trò chơi : Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều con vật
nuôi ( hoặc vẽ một tranh). HS dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải
ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều con vật (hoặc tranh đẹp nhất) là đội
thắng cuộc…
Khi tổ chức trị chơi Tơi ln đánh giá cao phần tham gia của các đội, không làm
qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một biện pháp làm cho
học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được thầy cơ quan tâm đến
việc làm của mình. Bên cạnh đó ln động viên những đội còn lại để các em cố gắng
hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi Tôi luôn nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa
vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc chơi Tôi đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng
thua thật cơng bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đơi khi có giáo
viên nêu u cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái,
khơng chính xác hoặc khơng cơng bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi
khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và khơng chấp nhận kết luận của giáo
viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi tôi thống kê ra được những ưu điểm,
nhược điểm của từng đội tham gia chơi. Tuy nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang

tính chất động viên, khích lệ là chính, tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu
hổ với bạn bè khi không thắng trị chơi. Học sinh tích cực tham gia các hoạt động của
nhóm hơn, nhiều em đã biết khắc phục và khắc phục được những hạn chế của bản thân,
sáng tạo nhiều sản phẩm mĩ thuật độc đáo và đẹp mắt.

V. KẾT QUẢ SAU ÁP DỤNG GIẢI PHÁP:

Qua việc học tập theo phương pháp mới giúp cho học sinh có được những trải
nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tị mị, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát
triển sức sáng tạo và biểu đạt, vì vậy học sinh sẽ có được những hình ảnh và động lực
mang tính tinh thần. Hạn chế được cảm giác lo sợ vì không biết vẽ. Học sinh được bồi
Trang 12


dưỡng rèn luyện óc quan sát, cách so sánh sự vật hiện tượng, giúp các em tìm tịi thể
hiện để vươn tới cái đẹp. Các em cảm nhận được cái đẹp và chưa đẹp một cách rõ ràng
qua việc nhận xét hình ảnh, tranh vẽ…Biết tạo ra các sản phẩm làm đẹp phục vụ cho
sinh hoạt như: trang trí đồ vật, trang trí góc học tập…Học sinh u thích mơn học hơn,
vẽ một cách say sưa hơn, hứng thú với nhiều sáng tạo, khiến cho tiết học trở nên thoải
mái, nhẹ nhàng.Các em đã thấy tự tin khi vẽ, tạo được những câu chuyện ngộ nghĩnh.
Số học sinh còn tẩy xóa bài vẽ giảm đi đáng kể, hiện tượng sao chép cũng khơng
cịn. Đặc biệt là khơng có học sinh nào khơng hồn thành được bài thực hành theo nội
dung yêu cầu của bài học. Tính sáng tạo, độc đáo được học sinh thể hiện qua từng chủ
đề sinh động,phong phú và đa dạng. Những bức tranh có tạo hình tự tin, ngộ nghĩnh
xuất hiện ngày càng nhiều. Điều quan trọng là giáo viên đã tạo được khơng khí hào
hứng, say mê vẽ ở học sinh. Cụ thể kết quả như sau: thể kết quả như sau: kết quả như sau:t qu nh sau: nh sau: sau:
Kho sát đầu năn
Kho sát cuối năn
TS HS
* S hc sinh cũn th ng trong

giờ học : 32 em.
* Số học sinh cịn nói chuyện nhiều
trong giờ học : 64 em.
* Số bài vẽ còn giống nhau do sao
chép :47 bài.
* Số học sinh cịn hay tẩy xóa,
215 em khơng hồn thành được sản
phẩm :13 em.
* Số học sinh còn bị hạn chế khả
năng giao tiếp và diễn đạt ngôn ngữ:
23 em.
* Số lượng sản phẩm hồn thành tốt
và có tính sáng tạo :51 sản phẩm

* Số học sinh còn thụ động trong giờ
học : 3 em.
* Số học sinh cịn nói chuyện nhiều
trong giờ học : 8 em.
* Số bài vẽ còn giống nhau do sao
chép :0.
* Số học sinh còn hay tẩy xóa, khơng
hồn thành được sản phẩm :0.
* Số học sinh còn bị hạn chế khả
năng giao tiếp và diễn đạt ngơn ngữ:
0.
* Số lượng sản phẩm hồn thành tốt
và có tính sáng tạo :94 sản phẩm

Tiếp theo đó, kết quả đánh giá nhận xét học sinh ở học kì I đã thu được như sau:
KIẾN THỨC – KỸ NĂNG : TS / TỶ LỆ


TSHS

Hồn thành các nội
dung của mơn học.
48 em

Hồn thành tốt các
nội dung của mơn
học,có sáng tạo.
93 em

Hồn thành tốt các nội
dung của mơn học, tạo
hình đẹp, sinh động.
74 em

22,3%

43,2%

34,4%

215

Qua những kết quả trên, chứng tỏ giải pháp mới này có hiệu quả và khả quan. Đồng
thời cũng khẳng dịnh một điều đó là: dạy Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch cho
học sinh lớp Một khơng khó. Cái khó chính là giáo viên phải lựa chọn phương pháp
giáo dục sao cho phù hợp và để làm được điều này trước hết đòi hỏi giáo viên phải là
Trang 13



người có lịng u nghề - mến trẻ, ham học hỏi để nâng cao trình độ, tích cực áp dụng
cơng nghệ thông tin vào giảng dạy và quyết tâm thực hiện theo đúng tinh thần đổi mới
giáo dục Mĩ thuật Tiểu học do Bộ Giáo dục & đào tạo đã trin khai.

Phần III:KT LUN và kiến nghị
1. Kt lun
M thut là mơn học nghệ thuật, kết quả của nó là kết quả của cảm xúc, chứ không đơn
giản là kỹ thuật hay kỹ năng. Muốn tạo ra cái đẹp, học sinh phải có cảm xúc. Cảm xúc
Trang 14


phải xuất phát từ sự rung động của học sinh trước vẻ đẹp của đối tượng cùng với
phương pháp giảng dạy hấp dẫn, lôi cuốn của giáo viên. Cái đẹp phù hợp với cách nhìn,
cách nghĩ, cách cảm nhận của mỗi học sinh. Trẻ em có cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm
nhận riêng, khơng giống cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận của người lớn.
Qua quá trình áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới tôi nhận thấy cái hay của
phương pháp này là đặt người học vào vị trí chủ động phải tìm hiểu vấn đề và tìm ra
cách giải quyết hiệu quả, sáng tạo nhất. Việc đáng giá học sinh cũng khơng cịn bị đặt
q nặng vào sản phẩm của các em mà nó được đánh giá dựa trên cả quá trình mà các
em tham gia. Đây là một chương trình giáo dục Mĩ thuật Tiểu học năng động, phát huy,
rèn luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống. Giáo viên cần cho
học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành góc Mĩ thuật ở gia đình, nhà trường
có thể tổ chức triển lãm, trưng bày sản phẩm của học sinh vào các ngày sinh hoạt tập
thể. Tập cho học sinh thói quen sưu tầm và cất giữ những vật dụng, vỏ hộp, chai
nhựa..khơng cịn sử dụng để khi cần có thể sử dụng. Làm tốt cơng tác tư tưởng với phụ
huynh để phụ huynh tham gia chuẩn bị tốt họa phẩm và vật liệu phục vụ cho phương
pháp dạy Mĩ thuật Đan Mạch, có thể tận dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng học tập
sẵn có, sử dụng linh hoạt các chất liệu học sinh đã có, hướng dẫn học sinh sưu tầm các

chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ đi để tạo ra nhiều chất liệu phong phú
trong các hoạt động dạy học Mĩ thuật.
Với mong muốn là làm thế nào để áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy môn Mĩ
thuật Tiểu học ngày càng hiệu quả và giúp giáo viên tháo gỡ những khó khăn, tơi xin
kiến nghị một số ý nh sau:
2.Đề xuất kiến nghị.
i vi nh trng
- u t thờm dựng dy hc.
- Đối với đồng nghiện thì tích cc tham gia dự giờ trao đổi chuyên m«m.
- Đối với Phịng Giáo dục: Tổ chức tập huấn rút kinh nghiệm qua quá trình áp
dụng để giáo viên nắm vững thêm về phương pháp mới. Cần xây dựng nội dung thành
các tiết dạy minh họa nhằm định hướng tổ chức dạy học và chia sẻ kinh nghiệm giữa
các giỏo viờn chuyờn.
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là t«i tù viÕt kh«ng sao chÐp cđa ai nÕu sai tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Ngày15 tháng nm năm 2O18
Ngời thực hiện

Tài liệu tham khảo

Trang 15


1. Tài liệu dạy học Mĩ thuật dành cho giáo viên Tiểu học – NXB Giáo dục.
2. Tài liệu tập huấn giảng dạy Mĩ thuật Tiểu học theo phương pháp mới (Dự án
SAEPS) do Bộ Giáo dục ban hành.
3. S¸ch dạy mĩ thuật lớp 1 - NXB Giỏo dc.
4. Sách häc mÜ thuËt líp 1- NXB Giáo dục.
5. Mĩ thuật – phương pháp giảng dạy Mĩ thuật – NXB Đại hc Hu.


TT
1
2

Mục lục
Nội dung
Phần I: Lí do chọn đề tài
Mục đích và nhiện vụ nghiên cứu

Trang
1
2
Trang 16


3
4
5
6
7
8
9
1O

Phạm vi nghiên cứu
Thời gian thục hiện đề tài
Phơng pháp nghiên cứu
Phần II. Nội dung của đề tài
Chơng I: cơ sở khoa học

ChơngII: Những biện pháp thực hiện
PHN III:Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo.

2
3
4
5
13
14
15
16

Trang 17



×