Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.82 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH THẦN KỲ NGƯỜI VIỆT

VÕ THỊ MINH THƯ

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH THẦN KỲ NGƯỜI VIỆT

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. TRẦN VĂN NAM


VÕ THỊ MINH THƯ

Hậu Giang, tháng 05 năm 2013


LỜI CẢM TẠ

Để hoàn thành luận văn hoàn chỉnh như hôm nay, tôi xin gởi lời cảm ơn chân
thành đến Ban Giám Hiệu trường Đại học Võ Trường Toản và quý thầy cô khoa
Khoa học cơ bản, cùng với tất cả giáo viện đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện và
hồn thành luận văn này.
Tơi chân thành cảm ơn thầy Trần Văn Nam đã nhiệt tình hướng dẫn và chỉ
dạy tơi trong suốt q trình làm luận văn.
Sinh viên thực hiện.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài này là do chính tơi thực hiện, các số liệu thu thập và
kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài
nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện.

Võ Thị Minh Thư.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………....1

2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………………..1
3. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………...5
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………….6
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………….6

Chương 1
TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
1.1.

Khái niệm, nguồn gốc và phân loại của truyện cổ tích…….……………..7
1.1.1.

Khái niệm và nguồn gốc truyện cổ tích……………….………………..7

1.1.1.1. Khái niệm truyện cổ tích……. …………………………..……….7
1.1.1.2. Nguồn gốc chuyện cổ tích………………………………………...9
1.1.2. Phân loại truyện cổ tích………………………………………………..12
1.1.2.1 Vấn đề phân loại……......................................................................12
1.1.2.2. Phân loại ………………………………………………………...14
1.2.

Đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ……………………………………..14

1.2.1. Đối tượng miêu tả……………………………………………………….14
1.2.1.1. Nhân vật người………………………………………………….14
1.2.1.2. Những xung đột của xã hội người………………………………16
1.2.2. Những nét độc đáo về nghệ thuật……………………………………...19
1.2.2.1. Sử dụng lối kể theo trình tự trước sau…………………………..19
1.2.2.2. Sử dụng yếu tố kỳ ảo hoang đường……………………………...20
1.2.2.3. Sự kết hợp giữa truyện cổ tích với các loại hình ca dao, tục ngữ..21


Chương 2
CÁC LOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
2.1. Nhân vật chính diện ………………………………………………………..24
2.1.1. Nhân vật chính diện là nhân vật trung tâm……………………………...25
2.1.2. Nhân vật chính diện là nhân vật phụ ………………………………….30


2.2. Nhân vật phản diện ……………………………………………………......32
2.2.1. Nhân vật phản diện gây hại trực tiếp ………………………….………33
2.2.2. Nhân vật phản diện gây hại gián tiếp……………………….…………..36
2.3. Lưc lượng thần kỳ…………………………………………………………..38
2.3.1. Lực lượng thần kỳ tuyến chính diện…………………………………….38
2.3.2. Lực lượng thần kỳ tuyến phản diện……………………………………..41

Chương 3
CÁC KIỂU NHÂN VẬT TIÊU BIỂU TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH THẦN KỲ
3.1. Kiểu nhân vật dũng sĩ diệt quái vật cứu người đẹp………………………43
3.1.1. Kiểu nhân vật tài giỏi, dũng sĩ …………………………………………43
3.1.2. Nhân vật dũng sĩ diệt quái vật cứu người đẹp và các motif thường gặp..44
3.2. Kiểu nhân vật người con riêng (trong quan hệ mẹ ghẻ - con chồng)……48
3.2.1. Kiểu nhân vật người bất hạnh …………………………………………48
3.2.2. Nhân vật người con riêng và các motif thường gặp …………………...50
3.3. Kiểu nhân vật người xấu xí mà có tài……………………………………...52
3.3.1. Nhân vật tài giỏi nhưng xấu xí ………………………………………….52
3.3.2. Nhật vật người mang lốt vật……………………………………………..54

KẾT LUẬN …………………………………………………………………57
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện cổ tích là một thể loại của văn học dân gian, là phương tiện để tác giả
dân gian thể hiện tình cảm, niềm vui nỗi buồn của con người trong cuộc sống với
những quan điểm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của mình. Truyện cổ tích mang
đặc trưng điển hình với những câu chuyện đậm chất dân gian, nhân dân lao động đã
xây dựng nên một hệ thống nhân vật phong phú sinh động để truyền tải giá trị về
nội dung và hình thức của tác phẩm đến người tiếp nhận. Trong truyện mỗi nhân vật
đại diện cho một kiểu người với hình thức của một đám đơng, mà khi nhìn vào nhân
vật người tiếp nhận có thể nhìn thấy bản thân mình hoặc cũng có thể là hình ảnh của
những người xung quanh mình. Vì vậy, khi nghiên cứu về hệ thống nhân vật chính
là cách để giúp chúng ta tiếp cận tác phẩm một cách sâu sắc và trọn vẹn nhất.
Trong văn hóa tinh thần của dân tộc đã lưu giữ được một nền văn học nghệ
thuật cổ truyền rất phong phú với đầy đủ các thể loại. Đặc biệt, chúng ta khơng thể
bỏ qua kho tàng truyện cổ tích dân gian. Nó chứa đựng nhiều bí ẩn và mang theo
những vẻ đẹp còn khuất sâu bên trong để khẳng định giá trị tinh thần vốn có.
Là một sinh viên chun ngành Ngữ Văn tơi có điều kiện tìm hiểu sâu hơn
về truyện cổ tích. Đặc biệt là truyện cổ tích thần kỳ, nó chứa đựng một thế giới thơ
mộng kỳ ảo, giúp tác giả dân gian thổi vào đó linh hồn của dân tộc. Với một khát
vọng cháy bỗng và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp mà hiện thực khơng thể mang
lại cho họ.
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài, tơi sẽ hồn thiện phần kiến
thức cịn hạn chế của mình. Chuẩn bị tốt cho quá trình giảng dạy sau này: định
hướng cho học sinh hiểu đúng tinh thần và ý nghĩa của truyện cổ mà cha ông ta để
lại.
Từ những lý do nêu trên, người viết đã chọn đề tài “Hệ thống nhân vật trong
truyện cổ tích thần kỳ của người Việt” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề

Truyện cổ tích là một bức tranh sinh động thể hiện đời sống của người xưa.
Thông qua hệ thống nhân vật, tác giả dân gian đã gửi gắm tư tưởng tình cảm của
mình với những lý tưởng cao đẹp. Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức và
tính thẩm mỹ của con người qua từng giai đoạn lịch sử. Thế giới nhân vật trong
truyện cổ tích đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu với nhiều khía cạnh
khác nhau.
Trong q trình nghiên cứu vấn đề, chúng tơi đã tìm thấy một số cuốn sách
và bài viết có liên quan đến đề tài:

1


* Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do Đinh Gia Khánh chủ biên, các
tác giả đã tổng hợp một số kiểu nhân vật: những nhân vật thông minh và tài giỏi,
nhân vật có sức khỏe phi thường, những đứa trẻ mồ côi, những đứa con riêng của
chồng hay của vợ, đứa con út trong gia đình. Những nhân vật bất hạnh, những con
người phải chịu ách thống trị của chế độ phong kiến đều là nhân vật trung tâm của
truyện cổ tích. Tiêu biểu có một số truyện như: Tấm Cám, Phượng hoàng và cây
khế, …
* Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, Hoàng Tiến Tựu đã giới thiệu
chung về truyện cổ tích. Tác giả đã chia nhân vật của truyện cổ tích thần kỳ làm hai
loại chính. Đó là nhân vật thần kỳ hay nửa thần kỳ và nhân vật là người. Đồng thời,
tác giả cũng so sánh nhân vật với các thể loại truyện cổ tích Việt với nhau. Cổ tích
lồi vật khác với cổ tích thần kỳ ở chỗ nó khơng có những nhân vật được lý tưởng
hóa một cách tuyệt đối. Nếu như tất cả các nhân vật chính diện trong cổ tích thần kỳ
thường thụ động, bất lực trước những thử thách của cuộc sống thì các nhân vật
trong truyện cổ tích sinh hoạt đều có tính tích cực và chủ động giải quyết những khó
khăn mà cuộc sống dành cho họ.
* Cuốn Văn học dân gian Việt Nam, Lê Chí Quế đã tìm hiểu, nhận xét truyện
cổ tích thần kỳ Việt Nam theo tiến trình lịch sử làm rõ một số vấn đề:

- Những truyện về gia đình, tác giả tập trung vào mãng bi kịch trong quan hệ
huyết thống xoay quanh nhân vật nam - nữ qua hai truyện cổ tích Sự tích trầu cau
voi và Sự tích đá vọng phu.
- Truyện về những đứa trẻ mồ côi là một đề tài nổi bật trong hệ thống
truyện cổ tích thần kỳ. “Đó là những sự phản ánh xung đột xã hội phản ánh mối
quan hệ giữa người với người thay cho sự xung đột giữa người với thiên
nhiên.”[25;tr.122-123]
- Loại truyện các nhân vật đội lớp thú rất phổ biến. Họ “thường được thụ
phép thần linh nên đã làm được những việc phi thường vượt qua mọi thử thách cuối
cùng họ đạt được những điều họ ước muốn.”[25;tr.126]
- Loại truyện về người dũng sĩ: ông đã xoay quanh những nhân vật dũng sĩ,
u qi, cơ gái. Trong truyện cịn có yếu tố thần thoại và những nghi lễ cổ truyền.
* Cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, (tập 1) là công trình nghiên cứu của nhóm
biên soạn thuộc các tổ Văn học Việt Nam Đại học sư phạm Hà Nội và Đại học sư
phạm Vinh. Cơng trình tổng cộng có 6 tập. Trong tập 1 kể ln phần mở đầu có
mười chương. Riêng chương 3 được Nguyễn Ngọc Côn giới thiệu truyện cổ tích.
Tuy chỉ gói gọn trong một chương nhưng tác giả đã giới thiệu một cách bao quát về
truyện cổ tích.

2


Đầu tiên Nguyễn Ngọc Côn giới thiệu sơ lược đại cương về tình hình sưu
tầm nghiên cứu, phân loại và sưu tầm truyện thần kỳ. Kế đến, Nguyễn Ngọc Côn
cũng đã đưa ra nhiều cách nhìn, cách phân loại truyện cổ tích với các loại truyện
khác, từ đó đúc kết được một khái niệm về truyện cổ tích. Trong phần giới thiệu về
đặc điểm của truyện cổ tích Nguyễn Ngọc Cơn đi từ những nét chung của truyện cổ
tích với các loại truyện cổ tích dân gian đến những đặc điểm riêng biệt của truyện
cổ tích. Nguyễn Ngọc Cơn đã đưa ra cách phân loại truyện cổ tích, ơng cũng đi vào
giới thiệu phần trọng tâm truyện cổ tích: nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của truyện

cổ tích. Phần kết luận ơng đã khẳng định: “Truyện cổ tích ra đời đã đánh dấu một
bước ngoặt phát triển mới của nghệ thuật. Nghệ thuật ấy khơng cịn cái phong vị
hào hùng mà giảm phần thấm thía, ảo tưởng kỳ diệu đã bắt đầu nhường chỗ cho sự
quan sát xã hội. Trong khn khổ xã hội cũ, tiếng nói của nền nghệ thuật ấy có lúc
là tiếng than thở thì cũng có lúc là tiếng thét giận dữ ln ln nó là tiếng nói của
lý trí sáng suốt và tình cảm dào dạt”[22;tr.152].
* Cuốn Những đặc điểm thi pháp của thể loại văn học dân gian của Đỗ Bình
Trị đã trình bày những đặc điểm thi pháp chung của thể loại truyện cổ tích, đặc
điểm cụ thể của truyện cổ tích thần kỳ là: người em út, người con riêng, người mồ
côi, người mang lốt vật, người đi ở, dũng sĩ, người có tài. Nhân vật chính của truyện
cổ tích sinh hoạt là nhân vật đức hạnh, nhân vật xấu xa, nhân vật mưu trí và nhân
vật khờ khạo. Chuyện cổ tích lồi vật, nhân vật chính là những con vật.
* Thi pháp văn học dân gian của Lê Trường Phát đã đi sâu nghiên cứu xoay
quanh thi pháp thể loại truyền thuyết, cổ tích như: hệ thống nhân vật, lựa chọn và
xây dựng xung đột, kết cấu, không gian và thời gian trong truyện.
* Nguyễn Xuân Đức, Thi pháp truyện cổ tích thần kỳ người Việt, đã đưa ra
khái niệm về truyện cổ tích thần kỳ, khái quát những đặc điểm cơ bản trong cách
xây dựng nhân vật, cốt truyện và phong cách ngơn ngữ của truyện cổ tích thần kỳ.
Ở chương 2 có viết: “Cổ tích là một nghệ thuật đích thực nên nó cũng có một hệ
thống nhân vật có thể phân thành nhiều tuyến: chính diện/ phản diện; cấp độ:
chính/ phụ; thành dạng: hữu hình/ vơ hình, dạng người/ dạng vật/ dạng đồ
vật...”[8;tr.37].
* Cuốn Yếu tố thần kỳ trong truyền thuyết và truyện cổ tích người Việt ở
Nam Trung Bộ của Nguyễn Định gồm ba chương khái quát chung về yếu tố thần kỳ.
Ở chương ba có đề cập đến truyện cổ tích, nhóm tác giả đã đưa ra định nghĩa và
cách phân loại truyện cổ tích, cùng với các dạng của yếu tố thần kỳ trong truyện cổ
tích người Việt ở Nam Trung Bộ. Với khẳng định: “Yếu tố thần kỳ trong truyện cổ
tích thần kỳ là yếu tố nghệ thuật của sự “hư cấu có chủ tâm và mang tính nghệ
thuật””.[6;tr.20]
3



* Cuốn “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam” của Phan Đặng Nhật chia
truyện cổ tích các dân tộc thiểu số làm ba loại chính, mâu thuẫn xã hội và những
nhân vật trung tâm của truyện cổ tích tiêu biểu cho mâu thuẫn đó làm trục phân loại.
Đó là: truyện về người mồ côi, người em út, người con riêng, người đội lốt xấu xí,
truyện người dũng sĩ và truyện người bị bóc lột. Do đây là cuốc sách viết về văn
học của các dân tộc thiểu số nên trong chừng mực có thể, tác giả đã làm rõ được
phần đặc điểm một số kiểu nhân vật trong truyện cổ tích hai dân tộc Tày – Nùng.
* Võ Quan Nhơn trong quyển “Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam” đã bước đầu nhận xét khái quát về truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số trong đó có truyện cổ tích Tày - Nùng. Tác giả đã xây dựng mơ hình các nhân vật
theo tiến trình của truyện dân gian các dân tộc ít người: nhân vật thần, nhân vật
người khỏe, nhân vật bất hạnh (nhân vật mồ côi, con riêng, con út...), nhân vật
người vùng lên đấu tranh, nhân vật anh hùng trong lịch sử.
* Nguyễn Thị Huế, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam,
đề tài này đã hướng người đọc có sự nhận thức sâu sắc hơn bản chất và đặc trưng
của truyện cổ tích, qua việc nghiên cứu hình tượng nhân vật tác giả đã khẳng định:
“Cốt truyện là một phạm trù thẩm mỹ quan trọng nhất của truyện cổ tích và hình
tượng nhân vật không thể tách rời khỏi những yếu tố nhất định của cốt
truyện”[11;tr.13]. Nhân vật chính trong truyện là những con người xấu xí ln ước
mơ về một cuộc sống tốt đẹp. Họ vượt qua khó khăn thử thách nhờ vào tài năng và
thần linh hoặc vật thiêng phù trợ nên chiến thắng những thế lực đen tối trong xã hội
tìm cho mình hạnh phúc. Giải thích nguồn gốc của các nhân vật trong truyện.
* Triều Nguyên, Tổng tập văn hóa dân gian xứ Huế, tập 1: Thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngơn. Tác giả đã đề cập đến việc sưu tầm
tác phẩm văn học dân gian, dựa trên phương thức phản ánh chia làm bốn nhóm: Tự
sự, lý luận, trữ tình, nhận biết. Trong đó, truyện cổ tích thuộc thể tự sự chia làm hai
loại chính là cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt. Truyện cổ tích thần kỳ “Thể hiện
sự phản ứng, sự bất phục của người bình thường trước các thế lực siêu nhiên”
[23;tr.22] như: Cải số trời, Thần hoàng mắc bẫy. Một số truyện khác đặt nhân vật

trong mối quan hệ gia đình: Người anh tham lam, Người chị keo kiệt... hoặc thể hiện
những tính khí khơng bình thường của nhân vật đã đẩy họ vào bi kịch, đồng thời
chúng góp phần khẳng định tuyến nhân vật có tính cách ngược lại: tốt bụng, hiếu
thảo, nhường nhịn...
* Đỗ Hồng Kỳ, Văn học dân gian ÊĐê, Mơ Nông, đã đưa ra một số đặc điểm
của truyện cổ tích, hình ảnh của các vị thần những con người và nhân vật kỳ quái, dị
thường đại diện cho cái thiện – ước mơ về cơng lý của người lao động, hình ảnh
người dũng sĩ, nhân vật mồ cơi trong truyện cổ tích Mơ Nơng là nạn nhân bị đẩy
4


vào bi kịch bị ruồng bỏ, hất hủi... Đồng thời, ca ngợi phẩm chất và mối quan hệ tốt
đẹp giữa con người với nhân vật bán thần (thường đội lốt vật).
* Trương Bi, Văn học dân gian ÊĐê M’nông, đã khái quát vài nét về văn học
dân gian ÊĐê, M’nông. Chương 2 nói về văn học dân gian ÊĐê đề cập đến tiêu chí
phân loại truyện thần thoại, truyện cổ tích và truyện về lồi vật dựa trên nhận định
của Nguyễn Đỗng Chi: “Khi nói đến truyện cổ tích hay truyện đời xưa, chúng ta
đều sẳn có quan niệm cho rằng đó là một danh từ chung bao gồm hết thảy mọi loại
truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại. Cũng vì thế,
xác định nội dung từng loại truyện khác nhau để đi đến phân loại truyện cổ vẫn là
công việc hứng thú và ln có ý nghĩa... Tuy nhiên cho đến nay, cơng việc đó vẫn
chưa hồn thành và chưa có một kiến giải nào khả dĩ gọi là thỏa đáng”[1;tr.25].
Trong đó, truyện cổ tích đề cập đến những nhân vật: truyện về nhân vật dũng sĩ thể
hiện khuynh hướng dân chủ và giá trị hiện thực của truyện cổ ÊĐê. Cùng với những
truyện về số phận các nhân vật có địa vị thấp kém trong gia đình và xã hội, nhân vật
xấu xí mà có tài và truyện về lồi vật.
* Văn hóa dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam của Hà Đình Thành, tác giả có
đề cập đến văn hóa dân gian: nói về truyện kể dân gian, tục ngữ và câu đố, ca dao,
truyện Nơm. Trong đó, nhắc nhiều đến hình tượng người hiền lành với nhân vật
người em út, hình tượng người mồ cơi, hình tượng người con riêng. Người Tày

Nùng đã khẳng định: “Người hiền lành, cái tốt, cái thiện không bao giờ bị vùi dập,
mà luôn luôn tồn tại và phát triển bền vững hơn xưa”[27;tr.121].
* Văn học dân gian Sóc Trăng, Chu Xuân Diên (chủ biên) đã sưu tầm và
biên soạn truyện cổ tích với những truyện như cổ tích lồi vật, cổ tích thần kỳ, cổ
tích phật giáo, cổ tích thế tục. Đề cập đến những con người nghèo khổ, những con
người khỏe mạnh, nhân vật mồ côi, người mang lốt vật, truyện người con út,...
Về hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ, các tài liệu trên đã trình
bày trong các phần nói về truyện cổ tích nói chung. Trên cơ sở này, chúng tơi hệ
thống lại, và phân tích, tổng hợp để hướng tới sự hiểu biết đầy đủ hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích người Việt thơng qua việc
phát hiện, khỏa sát, thống kê và nghiên cứu các đặc điểm, cách thức xây dựng nhân
vật trong truyện cổ tích.
Tổng hợp truyện cổ tích thần kỳ một cách có hệ thống, đồng thời tìm ra
những nét độc đáo của truyện cổ tích.
Trong q trình nghiên cứu giúp chúng tơi củng cố, bổ sung phần kiến thức
còn hạn chế, phát huy khả năng chọn lọc và phân tích vấn đề.

5


4. Phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích
thần kỳ của người Việt trong các tài liệu sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu của các
tác giả.
* Đề tài: “Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ của người Việt” được
giới hạn trong truyện cổ tích của người Việt.
Trong q trình khỏa sát nghiên cứu, người viết có sử dụng một số cuốn sách
đã xuất bản và tài liệu sưu tầm ghi chép:

- Hồng Quyết, Truyện cổ tích dân gian Việt Nam tuyển trọn.
- Nguyễn Thị Huế, Tinh hoa văn học dân gian người Việt: Truyện cổ tích
thần kỳ.
- Một số tài liệu khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp khác
nhau để có kết quả cao nhất. Trong đó có một số phương pháp cơ bản:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: để làm nổi bật các luận điểm, luận đề cần
triển khai và làm sáng tỏ trong luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đây có thể được xem là phương pháp
được sử dụng rộng rãi trong công tác nghiên cứu của mọi vấn đề. Ở đây, người viết
đã thu thập các tài liệu có liên quan đến luận văn, chọn lọc và ghi nhận những nội
dung cần thiết để làm cơ sở dữ liệu cho luận văn.
- Phương pháp hệ thống: giúp chúng tơi có cái nhìn tổng quát, có hệ thống
đối với những truyện đã sưu tập được.
Ngồi các phương pháp cơ bản nêu trên chúng tơi còn sử dụng phương pháp
liên ngành trong mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn hóa học, dân tộc học
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề, nhận định đưa ra.

6


CHƢƠNG 1
CHUYỆN CỔ TÍCH VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
1.1. Khái niệm, phân loại và nguồn gốc truyện cổ tích
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc truyện cổ tích
1.1.1.1. Khái niệm truyện cổ tích
Truyện cổ tích là một thể loại sáng tác dân gian vô cùng phong phú về số
lượng, đa dạng về nội dung và có một lịch sử phát triển lâu đời. Vì thế, việc nhận
thức về nó là một vấn đề khơng hề đơn giản. Trước khi tìm hiểu truyện cổ tích

chúng ta điểm qua vài thuật ngữ “Truyện cổ tích”:
Trong bài viết Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Chu Xuân Diên đã
trình bày: “Căn cứ vào những tài liệu ít ỏi hiện nay, có thể tạm đưa ra một mốc thời
gian giả định: thuật ngữ “Truyện cổ tích” được dùng ở Việt Nam có lẽ muộn nhất
cũng là từ thế kỷ XIX. Một cuốn sách chữ Nơm in tại Hà Nội năm 1871, có tên là
Ngọc Hoa cổ tích truyện. Từ đầu thế kỷ XX trở đi, thuật ngữ này được dùng khá phổ
biến. Thường thì khái niệm “Truyện cổ tích” được hiểu với nghĩa rộng, chỉ có loại
truyện dân gian nói chung, do đó khơng có sự phân biệt với các khái niệm “truyện
đời xưa”, “truyện cổ”, “truyện cổ dân gian”. Song những năm gần đây, trong khoa
học ngày càng có xu hướng cố gắng phân biệt “truyện cổ tích” với truyện cổ dân
gian nói chung và với các loại truyện cổ dân gian nói riêng, như thần thoại, truyền
thuyết”. Đến nay việc phân biệt các thuật ngữ vẫn được các nhà nghiên cứu quan
tâm và đang tìm phương hướng giải quyết.
Khái niệm về truyện cổ tích thường được hiểu theo nghĩa rộng, nó có quan
hệ mật thiết với các loại truyện kể dân gian khác, hiện tượng cổ tích hóa thần thoại,
cổ tích hóa truyền thuyết, cổ tích hóa ngụ ngơn và ngược lại. Đến nay, vẫn chưa có
sự thống nhất của các nhà nghiên cứu về khái niệm truyện cổ tích. Tuy nhiên, giới
nghiên cứu đã đưa sự thống nhất với những đặc điểm cơ bản của truyện cổ tích như
tính phiếm chỉ, tính tưởng tượng và hư cấu, chức năng giáo huấn... Từ đó, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích:
* Hồng Trọng Miên, Tác phẩm Văn học Việt Nam tồn thư cho rằng: “Cổ
tích là loại truyện kỳ diệu xây dựng trên một nền tảng lãng mạn, thơ mộng hay thực
tế, để nói lên sự yêu ghét của con người, chứa đựng tinh thần đề cao thiện ác, tốt
thắng xấu, chính thắng tà.” [tr.243]. Với định nghĩa này ta thấy tác giả đề cao yếu
tố thần kỳ của truyện cổ tích, đó là cái phần “lãng mạn” và “kỳ diệu” trong truyện,
đó cũng là ước mơ, khát vọng của nhân dân luôn mong muốn điều tốt đẹp, một kết
thúc có hậu trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ. Ở đây, tác phẩm thiếu phần nói về

7



truyện sinh hoạt đời thường, những cốt truyện ít hoặc khơng có yếu tố thần kỳ và
khơng có kết thúc như mong muốn của nhân dân.
* Trong bộ giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam – Văn học dân gian, Đinh
Gia Khánh không đưa ra một định nghĩa nào về truyện cổ tích, nhưng những đặc
điểm về thể loại truyện cổ tích được ơng phân biệt khi so sánh truyện cổ tích với
thần thoại. Tác giả đã nhấn mạnh một số đặc điểm:
“Thần thoại là những truyện trong đó nhân vật là thần, cịn những truyện cổ
tích là truyện trong đó nhân vật là người... nhân vật chính trong truyện cổ tích là
người, lấy nguyên mẫu trong xã hội loài người.
... Thần thoại là sáng tác dân gian thời nguyên thủy, là đặc sản chủ yếu của
xã hội thị tộc khi xã hội phân chia giai cấp,... Khác với thần thoại, truyện cổ tích
phần lớn xuất hiện khi xã hội thị tộc tan rã và được thay thế bằng gia đình riêng lẻ
khi xã hội có phân chia giai cấp, chủ yếu phản ánh cuộc sống xã hội.
Thần thoại hấp dẫn chúng ta bằng những hình tượng mỹ lệ và táo bạo vì nội
dung chất phác nhưng kỳ vĩ của sự tích. Truyện cổ tích lơi cuốn chúng ta vào những
niềm vui khổ, vào khơng khí đấu tranh chống cường quyền của những con người bị
áp bức. Hai thể loại, hai tính cách, hai cách tác động đến ý thức thẩm
mĩ”[13;tr.191- 192]
Với nhận định này, Đinh Gia Khánh đã hướng người đọc về tính hiện thực
của truyện cổ tích (truyện cổ tích phản ánh hiện thực, lấy nguyên mẫu là xã hội lồi
người, xuất hiện khi xã hội có sự phân chia giai cấp,...). Theo chúng tơi bên cạnh
tính hiện thực cịn có yếu tố thần kỳ.
* Nguyễn Đổng Chi dựa vào định nghĩa của anh em nhà Grimm được phổ
biến rộng rãi ở châu Âu để nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam, nội dung định
nghĩa: “Truyện cổ tích là truyện được xây dựng trên nền tảng tư tưởng nghệ thuật,
đặc biệt là những điều tưởng tượng về thế giới thần kỳ, những câu truyện khơng có
quan hệ với những điều kiện của đời sống thực làm thỏa mãn người nghe thuộc mọi
tầng lớp xã hội ngay cả dù cho họ tin hay không tin vào những điều được nghe”
(Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000).

* Các giáo trình của trường Đại học xuất bản gần đây, như giáo trình Văn
học dân gian của trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn cũng đã đưa ra được
những tiêu chí để xác định bản chất thể loại của truyện cổ tích:
- Truyện cổ tích là sáng tác dân gian trong loại hình tự sự mà thuộc tính của
nó là xây dựng trên những cốt truyện.
- Truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được xây dựng thông qua sự hư cấu
nghệ thuật thần kỳ.

8


- Sự hư cấu thần kỳ trong truyện cổ tích do hiện thực đời sống quyết định và
nó cũng chịu sự biến đổi theo tiến trình lịch sử.
* Theo Chu Xn Diên thì khái niệm truyện cổ tích gồm 3 ý:
“ - Truyện cổ tích đã nảy sinh trong xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu
tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng tự nhiên và xã
hội và có ý nghĩ ma thuật. Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội có
giai cấp, nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân
dân về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các
thời kỳ lịch sử khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp.
- Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực tại,
đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lý xã hội và
ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
- Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân,
và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc trưng nổi bật
trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ”[tr.452-453].
Theo chúng tôi định nghĩa của Chu Xuân Diên là khá đầy đủ về truyện cổ
tích.
1.1.1.2. Nguồn gốc của truyện cổ tích.

Truyện cổ tích là một tấm gương trung thành nhất của xã hội nước ta thời xa
xưa. Truyện cổ tích nói lên nội dung phong phú đời sống của dân tộc, của nhân dân,
chính vì nó đã nảy sinh từ cuộc sống đó. Tìm hiểu nguồn gốc của truyện cổ tích, ta
khơng phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa của các nước khác. Sự giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc thường làm cho văn học dân gian của mỗi dân tộc phong phú thêm
lên. Một số truyện cổ tích bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ nước ngồi. Nhưng
những truyện có nguồn gốc ngoại lai sau một quá trình lưu truyền ở trong nước
cũng phải Việt hóa thì mới được phổ biến rộng rãi được.
Trước tiên, truyện cổ tích được phát sinh từ thần thoại và thời kỳ tan rã của
xã hội thị tộc nguyên thủy. Có thể thấy, thần thoại như một nguồn nước chung của
nhiều dịng, nhiều loại nghệ thuật trong đó có truyện cổ tích. Con người khơng thể
sáng tác truyện cổ tích trước khi trải qua thời kỳ sáng tác thần thoại, cũng như
khơng thể bước vào xã hội có giai cấp nếu không phải trải qua thời công xã nguyên
thủy. Và tương tự như thế cần nhận thức và lý giải xã hội không thể phát sinh từ
nhu cầu nhận thức và lý giải thế giới tự nhiên của con người. Mác đã từng khẳng
định: “Tiền đề của nghệ thuật Hi Lạp là thần thoại Hi Lạp (...). Thần thoại Ai Cập
khơng bao giờ có thể là miếng đất nảy sinh ra nghệ thuật Hi Lạp”.

9


Truyện cổ tích Việt cũng vậy, nó chỉ có thể nảy sinh từ mảnh đất của thần
thoại Việt chứ không thể nảy sinh từ một nguồn thần thoại nào khác được.
Nhưng bắt nguồn từ thần thoại khơng có nghĩa là truyện cổ tích hồn tồn
giống với thần thoại. Nếu thế thì nó chính là thần thoại đích thực chứ đâu cịn là
truyện cổ tích nữa. Ngay từ lúc mới lọt lịng, truyện cổ tích đã khác với thần thoại,
vừa kế thừa vừa phủ định và đổi mới thần thoại về nhiều phương diện (chức năng,
đề tài, phương pháp sáng tác, thủ pháp nghệ thuật cốt truyện, nhân vật,..). Chẳng
hạn, cần phải thấy sự khác nhau căn bản giữa phương pháp phản ánh và chiếm lĩnh
thực tế của hai loại truyện mặc dù cả hai đều dùng trí tưởng tượng dân gian đã trải

qua một bước phát triển nhảy vọt, từ chỗ gắn với sự sùng bái các lực lượng tự nhiên
đến chỗ ngày càng gắn chặt với sự rung cảm và nhận thức thẩm mỹ về đời sống xã
hội. Ngay ở truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận ra đời sớm thì trí tưởng tượng dân
gian cũng khác xa so với tưởng tượng truyện cổ tích tạo nên (ơng bụt, ông tiên, rắn
thần, chim thần,..) dù thần thông mầu nhiệm đến đâu cũng khơng thể lấn át được vai
trị của con người và dù ít hay nhiều chúng cũng đều xuất hiện trong truyện cổ tích
như là một phương tiện nghệ thuật, cần thiết và có lợi cho việc tổ chức cốt truyện,
phát triển tình tiết. Ở bộ phận truyện cổ tích ra đời muộn, nhiều khi cốt truyện và
tình tiết trong tác phẩm đã được xây dựng với một trí tưởng tượng và hư cấu nghệ
thuật hồn tồn có tính chất thực tại trên cơ sở những tình huống và chất liệu có
thực của đời sống. Ở đây, truyện Vợ chàng Trương (hay Người thiếu phụ Nam
Xương) là một ví dụ tiêu biểu. Khơng những tồn bộ nhân vật trong truyện đều là
người (người chồng, người vợ và người con lên ba), mà toàn bộ sự diễn biến của cốt
truyện cũng như tính cách của mỗi nhân vật đều rất người, rất trần gian và hiện
thực. Hoàn cảnh vợ chồng xa cách nhau lâu, sự thủy chung thầm lặng và sự oan
khuất khó nói của người vợ, tính cả ghen và sự đa nghi của người chồng, sự ngây
thơ và hồn nhiên của đứa bé, ngọn đèn và chiếc bóng... Tất cả những cái đó đều rất
“trần gian”, hơn nữa rất thông thường và dễ hiểu. Nhưng dựa vào những cái thông
thường và “trần gian” ấy, tác giả dân gian đã dựng lên cả một truyện cổ tích có đầu
có đi, nhiều tình tiết éo le hấp dẫn và rất nhiều tính hiện thực. Có lẽ, đây là bằng
chứng của trí tưởng tượng, sáng tạo và một năng lực hư cấu nghệ thuật tương đối
phát triển lúc bấy giờ.
Từ thần thoại, đặc biệt là từ những lớp thần thoại “cuối cùng” đã chứa đựng,
ấp ủ những nhân tố, những cái mầm của các thể loại kế tục và thay thế nó (sử thi,
truyền thuyết, truyện cổ tích...). Một truyện thần thoại có thể phát triển thành sử thi
hay truyền thuyết hoặc cổ tích theo nhu cầu, mục đích và phương pháp sử dụng của
tác giả dân gian. Có khi một truyện hoặc một nhân vật thần thoại đã trở thành chất
liệu, “motif” chung cho nhiều tác phẩm cụ thể có đặc trưng thể loại khác nhau.
10



Truyện Cóc kiện Trời chẳng hạn, ban đầu là thần thoại, về sau đã được cổ tích hóa,
ngụ ngơn hóa và rất có thể nó đã từng có mặt trong sử thi thời cổ đại nữa (chi tiết
Cốc gióng trống trước cửa nhà trời, làm náo động cả thiên cung cũng như khơng khí
anh hùng ca của cả câu chuyện cho phép đặt giả thuyết ấy). Các motif diệt trừ quái
vật trong truyện cổ tích Thạch Sanh và những chiến công (diệt mộc tinh, ngư tinh,
hồ tinh) của Lạc Long Quân trong truyền thuyết rất có thể bắt nguồn từ motif cổ
hơn trong thần thoại (về các anh hùng diệt thú dữ). Cần nói thêm rằng, khơng phải
khi nào truyện cổ tích cũng tiếp thu thần thoại một cách trực tiếp. Có khi một cốt
truyện hoặc một motif này đã góp phần làm tăng thêm sự khăng khít và tính chất
phức tạp trong mối quan hệ của các truyện dân gian. Motif “con Cóc” trong truyện
dân gian Việt, có thể đi từ thần thoại qua sử thi rồi mới đến truyện cổ tích và ngụ
ngơn, cũng như motif “Rùa” đã đi từ truyện Thần Biển (thần thoại), rồi sang truyện
Thần Kim Quy (truyền thuyết), truyện Sự tích hồ Hồn Kiếm (truyền thuyết), rồi
sang truyện Thỏ và Rùa (ngụ ngôn)...
Thần thoại chuyển thành cổ tích dù bằng con đường trực tiếp hay gián tiếp
thì chủ yếu cũng chuyển những cốt truyện, những motif – nghĩa là cái “phần xác”
của thần thoại. Cịn cái “phần hồn” của nó bị phủ định, loại trừ đi để cho tác phẩm
trở thành cổ tích mang linh hồn của thể loại mới. Những motif và cốt truyện cơ bản
về Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm,.. Có thể ban đầu là thần thoại về các anh hùng văn
hóa (tìm ra nguồn gốc thức ăn mới, nơi ở mới... ) nhưng đã được nhận thức và nhào
nặn lại bởi nhân dân các thời kỳ sau và biến thành truyện cổ tích.
Khi xét đến nguyên nhân và nguồn gốc trực tiếp, cụ thể của truyện cổ tích,
các nhà nghiên cứu cịn chú ý tới phong tục tín ngưỡng (nhất là các tục lệ cổ),
những cảnh vật thiên nhiên (chim mng, cây cỏ, sơng núi), những câu nói vần vè,
ca dao, tục ngữ có liên quan, những người thực việc thực trong lịch sử hoặc trong
đời sống bình thường của nhân dân... Quả thật có nhiều truyện cổ tích gắn với việc
giải thích nguồn gốc, ý nghĩa của tục lệ (ví dụ như truyện Trầu cau, truyện Bánh
trưng bánh giầy, Sự tích cây niêu ngày tết,.. ). Nhiều truyện gắn với việc giải thích
các lồi vật, cây cỏ, hoặc phong cảnh thiên nhiên của đất nước (như Sự tích con

quạ, con sam, con thằn lằn, sự tích cây huyết dụ, cây sầu đơng, sự tích sơng Nhà
Bè,.. ) lại có những truyện dường như đặt ra để minh họa, giải thích những câu nói
vần vè quen thuộc nhưng khó hiểu hoặc khơng thể hiểu được nếu khơng có “Sự
tích” như là lịch sử của nó (như những câu “Thạch Sùng còn thiếu mẽ kho”, “Nữ
hành dành bạc”, “Quýt làm cam chịu”, “Dì phải thằng chết trơi, toi phải đơi đấu
sành”,.. ).
Tất nhiên, không thể phủ nhận được chức năng, ý nghĩa nhận thức, lý giải
phong tục sự vật, phong cảnh thiên nhiên đất nước,.. của truyện cổ tích. Trong
11


những truyện cụ thể nào đó, chức năng và ý nghĩa này có thể là chính và quan trọng,
nhưng với tồn bộ thể loại truyện cổ tích thì nó chỉ là mục đích và chức năng thứ
yếu mà thơi. Trong nhiều truyện cổ tích, việc giải thích phong tục, sự vật chỉ được
coi như một chủ đề phụ, thậm chí nhiều khi chỉ được sử dụng như một phương tiện,
biện pháp nghệ thuật phản ánh và lý giải những vấn đề khác của nhân dân. Những
truyện như Trầu Cau Voi, Đá Vọng Phu, Sự tích chim hít cơ, Sự tích ba ơng đầu
rau. Sự tích con muỗi...
Tóm lại, nguồn gốc của truyện cổ tích rất phức tạp, nó khơng chỉ được tìm
thấy trong nước mà cả ngồi nước. Nguồn gốc đó là mọi mặt trong đời sống xã hội,
giống như các loại tác phẩm văn học dân gian khác, truyện cổ tích ln ln phát
triển. Vì nó có tính tập thể và truyền miệng, khơng những hình thức mà cả về mặt
nội dung của mỗi truyện cổ tích cũng dần dần thay đổi theo yêu cầu của cuộc sống.
1.1.2. Phân loại truyện cổ tích
1.1.2.1. Vấn đề phân loại
Vấn đề phân loại truyện cổ tích cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất của
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Ở nước ta, vấn đề này vẫn chưa có nhiều
người đi sâu nghiên cứu, kết quả đạt được còn rất ít. Phương pháp và tiêu chí phân
loại đều chưa được xây dựng có hệ thống. Đến nay tuy đã có một số sách phân loại
truyện cổ tích Việt được nêu lên, nhưng chưa có bảng phân loại nào đầy đủ trên cơ

sở những tiêu chí rõ ràng và nhất quán. Người thì dựa vào nội dung, người dựa vào
hình thức. Có khi cùng một người nhưng khi thì dựa vào đề tài khi thì dựa vào
phương pháp phản ánh một cách khơng thống nhất. Người thì chia hai loại (cổ tích
sinh hoạt và cổ tích thần kỳ hoặc cổ tích hoang đường và cổ tích thế sự) người thì
chia ba loại (cổ tích thần kỳ, cổ tích sinh hoạt và cổ tích thế sự) người thì chia ba
bốn hoặc nhiều hơn (cổ tích thần kỳ, thế sự, lịch sử, loài vật, ma quái,... ).
* Theo Trần Thanh Mại truyện cổ tích có thể chia thành hai loại: loại đấu tranh
chống thiên nhiên và loại đấu tranh chống xã hội. Nhưng trên thực tế, truyện được
chia cụ thể ra làm bốn loại nhỏ: loại ý thức quốc gia dân tộc, loại đấu tranh chống
thiên nhiên, loại đấu tranh chống phong kiến và loại có tính chất hiện thực, loại
nhiều yếu tố nơ dịch hóa.
* Theo Nguyễn Đỗng Chi, Kho tàng văn học Việt Nam, ơng chia truyện cổ tích
thành ba loại:
- Cổ tích thần kỳ
- Cổ tích thế sự hay sinh hoạt
- Cổ tích lịch sử.
Nguyễn Đỗng Chi là người có cơng sưu tầm, biên soạn truyện cổ tích khá công
phu, kĩ càng, nhưng cách phân loại của ông chưa chính xác bởi khi ơng chia truyện
12


cổ tích ra ba loại và chính ở bản thân nó có sự mâu thuẫn. Vì truyện cổ tích thế sự
và cổ tích lịch sử đều có yếu tố thần kỳ và cả hai đều phản ánh lịch sử, thế tục.
* Theo cơng trình Văn học dân gian do Đinh Gia Khánh (chủ biên), 1998. Có
viết: “Xét cho cùng truyện cổ tích nên chia làm hai loại chính: Truyện cổ tích lịch
sử và truyện cổ tích thế sự”[14;tr.298]. Cách phân chia này khơng phù hợp, vì thể
loại truyện cổ tích lịch sử rất gần gũi với truyền thuyết. Và gần đây, các nhà nghiên
cứu đã xem cổ tích lịch sử là truyền thuyết.
* Theo giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trường Đại học Sư phạm Hà
Nội đã phân loại truyện cổ tích thành ba loại:

- Loại cổ tích hoang đường
- Loại cổ tích về sinh hoạt
- Loại cổ tích lịch sử
* Nguyễn Văn Ngọc khi phân loại truyện cổ tích đã chia làm năm mục:
- Những truyện thuộc về cái lối cổ tích hoặc dã sử.
- Những câu truyện mà kết cục đã thành câu phương ngôn lý ngữ hoặc trái
lại, xuất xứ từ những câu phương ngôn lý ngữ ấy ra.
- Những truyện thuần về văn chương trong đó có những câu ca, bài hát nơm
na mà vui thú, giản dị mà tự nhiên, xưa kia đâu đó vẫn thường truyền tụng.
- Những truyện trong ngụ một cái cao xa thuộc về triết lý may ra so bì được
với Bách tử bên Trung Quốc, và sau này, có thể đem vào mơn học của nước
nhà.
- Những truyện vui chơi cười đùa lý thú, để tiêu sầu khiển muộn nhưng chưa
quá thuộc vào cái thể gọi là “tiếu lâm”.
* Theo Nghiêm Toản, Thanh Lãng thì truyện cổ tích phân thành rất nhiều loại:
Truyện mê tín, truyện hoang đường, truyện thần tiên, truyện luân lý... Cách phân
loại này cũng không hợp lý và sẽ đưa đến chỗ bị động, bởi truyện cổ tích có rất
nhiều chủ đề, nếu tìm được một chủ đề cho một truyện cổ tích thì khi gặp một
truyện khác có chủ đề khác với chủ đề đã biết thì phải suy nghĩ, đặt tên thêm một
lần nữa.
Còn nhiều nhà nghiên cứu khác phân loại về truyện cổ tích và ta cũng thấy
được ở các nhà nghiên cứu còn thiếu sự thống nhất về vấn đề phân loại. Nhưng nhìn
chung các ý kiến đó có mối quan hệ với nhau và bắt nguồn từ hai nguyên nhân: sự
phức tạp của đối tượng (bản thân truyện cổ tích) và sự thiếu thống nhất về quan
niệm, phương pháp của các nhà nghiên cứu. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi
thống nhất theo cách phân chia của giáo sư Hồng Tiến Tựu trong giáo trình Văn
học dân gian Việt Nam. Theo cách chia này, truyện cổ tích gồm ba bộ phận chính:
- Truyện cổ tích thần kỳ,
13



- Truyện cổ tích thế sự,
- Truyện cổ tích lồi vật.
1.1.2.2. Phân loại
* Truyện cổ tích thần kỳ: đây là loại truyện chứa đựng hai thế giới: một thế
giới hiện thực và một thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Dựa vào đặc điểm của nhân vật
chính có thể chia cổ tích thần kỳ thành hai nhóm: Nhóm cổ tích thần kỳ về những
nhân vật có tài năng, sức khỏe phi thường, lập nên những kỳ tích đặc biệt; nhóm cổ
tích thần kỳ về những nhân vật bất hạnh. Yếu tố thần kỳ trong truyện đóng vai trị
quan trọng, nó là yếu tố có tác động mạnh mẽ đến q trình phát triển của cốt
truyện, giải quyết xung đột, mâu thuẫn của truyện.
* Truyện cổ tích thế sự: là loại truyện phát triển khi xã hội có giai cấp thể hiện
những xung đột trong đời sống của con người, trong truyện hầu như khơng có yếu
tố thần kỳ hoặc nếu có cũng chỉ mang yếu tố phụ trợ không giải quyết những xung
đột trong truyện. Truyện cổ tích sinh hoạt giải quyết mâu thuẫn bằng những kinh
nghiệm của đời sống.
* Truyện cổ tích lồi vật: là những truyện hướng về sinh hoạt của xã hội loài
vật và lấy loài vật làm nhân vật chính, nhất là những con vật gần gũi với đời sống
của con người. Đồng thời đối chiếu quan hệ xã hội loài người vào quan hệ của các
con vật.
Đây là cách phân loại ở mức tương đối và hiện nay đa số các nhà nghiên cứu
cũng đồng tình với cách phân loại của ông. Cách phân loại này đã kết hợp nhiều
tiêu chí và căn cứ khác nhau. Trong đó, nổi lên hai tiêu chí quan trọng là đề tài và
phương pháp sáng tác. Phân biệt truyện cổ tích lồi vật với cổ tích về người chủ yếu
dựa vào đề tài. Tách bộ phận truyện cổ tích về người thành hai loại truyện cổ tích
thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt xã hội hay cổ tích thế tục chủ yếu dựa vào mức
độ sử dụng yếu tố thần kỳ mà thực chất là dựa vào phương pháp.
1.2. Đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ.
1.2.1. Đối tƣợng miêu tả
Xét về đối tượng miêu tả, phản ánh bao giờ truyện cổ tích thần kỳ cũng

hướng về những nhân vật người và những xung đột của xã hội của con người, coi
đó là trung tâm, là đối tượng chủ yếu. Có thể thấy yếu tố thần kỳ dù xuất hiện ít hay
nhiều cũng khơng thể là đối tượng chính của truyện cổ tích thần kỳ. Vai trị này rất
quan trọng để chúng ta phân biệt truyện cổ tích thần kỳ với các loại truyện khác.
1.2.1.1. Nhân vật là người
Trong truyện cổ tích thần kỳ, yếu tố thần kỳ xuất hiện ít hay nhiều cũng chỉ
đóng vai trị phụ trợ, khi đó người sẽ trở thành nhân vật trung tâm của truyện.

14


Ngay trong việc đặt tên tác phẩm cũng thể hiện điều đó. Hầu hết các truyện
cổ tích thần kỳ đều mang tên của nhân vật chính là người hoặc lấy một cái tên nói
về cuộc sống thực tại của con người chứ không lấy tên của lực lượng thần kỳ (Tấm
Cám, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử, Sự tích trầu cau, Sự tích đá vọng phu,... ).
Kết cấu và trình tự kể truyện cũng thể hiện hướng về con người rất rõ. Mở
đầu câu chuyện bao giờ con người và việc đời cũng được giới thiệu trước: truyện
Tấm Cám: “Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em ...”, Sự tích trầu cau voi:
“Thời xưa, một nhà quan họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi...”,
Truyện Sọ Dừa: “Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia đi ở đợ cho một lão phú ông
gần suốt cả đời,...”. Rồi sau đó, lực lượng thần kỳ mới xuất hiện trong quá trình
diễn biến của câu truyện. Truyện chỉ kết thúc khi những vấn đề được nêu ở đầu
truyện được giải quyết rõ ràng sáng tỏ như trong truyện Tấm Cám: cuối truyện Tấm
được vua rước về cung sống hạnh phúc bên chồng, mẹ con Cám phải chịu hình phạt
cho những tội lỗi của mình: Cám chết trong hố nước sơi cịn mụ dì ghẻ chết tức tửi
vì ăn thịt con gái. Hay trong truyện Thạch Sanh cuối truyện mẹ con Lý Thông được
Thạch Sanh tha và cho họ trở về làng, nhưng trên đường về gặp mưa giông và hai
mẹ con bị sét đánh chết. Thạch Sanh được vua cha nhường ngơi và lên làm vua.
Nhìn chung nhân vật người được phản ánh trong truyện cổ tích thần kỳ chủ
yếu là những nhân vật như:

* Những nhân vật người nghèo khổ bất hạnh, những kẻ bị đè nén, những
nhân vật ln có số phận hẩm hiu trong gia đình: những đứa trẻ mồ côi, em út, vợ
trước, những anh chàng khờ khạo ngốc nghếch… Đây là những nhân vật xuất hiện
rất lâu đời, được xây dựng với những hình tượng ước lệ: xấu xí về ngoại hình nhưng
có tấm lòng tốt, với một cuộc đời bất hạnh nhưng khi trải qua quá trình thử thách,
họ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc sung sướng. Như ở truyện Cây tre trăm
đốt, chàng nông phu nhờ sự giúp đỡ của lực thần kỳ mà anh đã tìm thấy cho mình
một gia đình hạnh phúc và có được một cuộc sống sung sướng. Truyện Chàng đốn
củi, chàng đốn củi gặp được một bà tiên cho anh phép thần chiến thắng những kẻ
tham lam. Truyện Sọ Dừa, với hình hài xấu xí nhưng thơng minh tài giỏi dùng tấm
lịng để cảm hóa con người nhờ những vật thần để bảo vệ người thân của mình vượt
qua hiểm nguy của cuộc sống,... Từ những kẻ ăn người ở xấu xí, ngốc nghếch phút
chốc trở nên thơng minh, giàu có, và làm chủ được số phận của chính mình. Đồng
thời, đó cũng là ước mơ của người nông dân muốn được làm chủ cuộc sống của
chính mình.
* Đối tượng tiếp theo là những người anh hùng lập nên kỳ tích trong đời
sống, kể cả những nhân vật mưu trí, dũng cảm, khỏe mạnh hơn người,... tác giả dân
gian không phân biệt người giàu hay nghèo, nam hay nữ, thuộc tầng lớp nào trong
15


xã hội. Truyện đề cập đến những em bé vô danh dùng trí thơng minh của mình để
buộc chủ nợ phải xóa hết nợ cho bố mẹ mình trong truyện Em bé thông minh. Hay
những truyện Lê Như Hổ một con người tài năng vừa ăn khỏe, làm khỏe, một chàng
Thạch Sanh hiền lành, gan dạ, khỏe mạnh dám đứng ra bảo vệ cái thiện anh đã
chiến đấu để cứu lấy mạng sống của cơng chúa và giải thốt cho những người gặp
khó khăn… Tác giả dân gian đã dựa trên thước đo của chuẩn mực đạo đức để đề
cao và ca ngợi những con người mưu trí và tài giỏi.
1.2.1.2. Những xung đột của xã hội người
Truyện cổ tích phản ánh những mâu thuẫn của cuộc sống với những sự việc

khác nhau do hoàn cảnh, thành phần giai cấp tạo nên. Để thực hiện mục đích của
mình, tác giả dân gian thường đưa ra những tình tiết tương phản:
* Về mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng
tư nhưng lại phổ biến trong tồn xã hội:
- Xung đột cha mẹ với con cái: nhân vật được miêu tả trong mối quan hệ này
hầu hết là các nhân vật đóng vai trị người con. Họ được cha mẹ ni dưỡng trong
tình u thương nhưng khi lớn lên, được dựng vợ gả chồng, lại đối xử với cha mẹ
khơng ra gì. Những người con trai trong truyện Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
con nuôi cha mẹ tính tháng kể ngày là nhân vật tiêu biểu. Truyện nói về hai vợ
chồng sinh được ba người con, họ rất chăm chút cho con. Khi chia gia tài, chúng kì
kèo, năn nỉ cha mẹ chia của và hứa hẹn sẽ ni dưỡng cha mẹ đàng hồng. Nhưng
khi cha mẹ già yếu thì chúng đùn đẩy, hơn thua nhau từng ngày trong việc phụng
dưỡng, đối đãi với cha mẹ thậm tệ. Nhìn chung, tác giả dân gian thường miêu tả
hình ảnh người con trong những câu chuyện này là những kẻ keo kiệt, xem thường
cha mẹ. Kết thúc câu chuyện các nhân vật này thường không trả giá đắt có lẽ do
quan niệm dân gian nhằm đề cao sự bao dung của cha mẹ dành cho con cái.
- Xung đột giữa anh em trai: Truyện Cây khế cũng theo tiêu chuẩn đạo đức
của người nông dân trừng trị bọn gian tham độc ác – người anh người chị trong gia
đình, họ đã vứt bỏ tình cảm máu mủ mà chạy theo vinh hoa huyền ảo, vì tham của
cải và vàng bạc mà đuổi em mình ra khỏi nhà. Truyện Sọ Dừa hay truyện Lấy
chồng dê: hai người chị vì thấy em mình được chồng khơi ngơ tuấn tú và sống giàu
sang nên ranh tị lập mưu hãm hại. Nhân lúc người chồng đi vắng hai người chị rủ
người em đi chơi hội và xuống thuyền dạo chơi, nhân lúc người em không để ý họ
đẩy cô xuống biển. Qua truyện, tác giả dân gian muốn phản ảnh tình cảm chị em
trong gia đình, người chị vì tham lam lười biếng đã hãm hại em gái của mình để
được giàu sang và hạnh phúc. Kết thúc của mỗi câu chuyện người em ln tìm thấy
cho mình hạnh phúc cịn người anh hay người chị phải chịu sự trừng phạt bởi những
việc mình đã làm. Truyện nhằm đề cao người lao động, tinh thần tự lực tự cường và
16



những người có lịng ngay thẳng. Đề tài này khá phổ biến trong truyện cổ tích.
Trong motif của truyện người anh cả hay người chị cả bao giờ cũng lười biếng, độc
ác, tham lam. Còn người em, nhất là người em út bao giờ cũng hiền lành, thật thà,
chăm chỉ, dũng cảm. Mối quan hệ ruột thịt bị tan rã vì sự ích kỉ của người anh hay
người chị trong gia đình. Qua những câu truyện trên tác giả dân gian muốn xây
dựng lại tình cảm gắn bó giữa những con người ruột thịt trong gia đình.
- Xung đột dì ghẻ con chồng, chị em cùng cha khác mẹ: Trong truyện Tấm
Cám, hình ảnh mụ dì ghẻ được khắc họa một cách đậm nét. Truyện thể hiện xung
đột quyết liệt, khơng thể điều hịa được. Kinh tế phụ quyền là cơ sở cho sự xung đột
bắt đầu có tính chất giai cấp này. Mụ luôn căm ghét con riêng của chồng và tìm
cách hãm hại: mụ bắt Tấm chăn trâu đồng xa để bắt con cá bống, mụ trộn thóc với
gạo bắt Tấm nhặt để không được đi dự hội, chặt cây cao để giết chết Tấm và tiếp
tục đi theo tiêu diệt các dạng hóa thân của Tấm: làm thịt chim vàng anh, chặt cây
xoan đào, đốt khung cửi,.. hình ảnh người mẹ ghẻ được khắc họa dã man, tiêu diệt
đến tận gốc đứa con riêng của chồng. Ngoài ra, sự xung đột giữa Tấm và Cám xuất
hiện từ buổi đầu bắt tép với Cám, hành động của Tấm phát triển liên tục và rộng
dần ra ngoài phạm vi gia đình (gặp bụt, đi dự hội, gặp vua,..), nhưng sau đều do
quan hệ gia đình chi phối. Truyện thể hiện ước mơ của quần chúng nhân dân là cái
thiện phải chiến thắng cái ác thông qua nhân vật Tấm một cơ bé mồ cơi mẹ đã có
một cuộc chiến đấu và đã giành chiến thắng. Sự tích chim đa đa, Sự tích con dế
cũng khắc họa hình tượng tương tự. Đa phần, họ sợ người con riêng của chồng khi
lớn lên sẽ thừa kế tài sản hoặc do ghen ghét với vẻ đẹp, sự may mắn của người con
nên tìm cách giết hại. Tuy nhiên, những đứa con ấy đều thoát chết và trở về làm cho
người mẹ ghẻ sợ hãi quá mà chết như: Tấm Cám, Sự tích con dế hoặc xấu hổ mà
trốn đi biệt tích như Mụ dì ghẻ độc ác.
- Xung đột giữa con ruột và con nuôi: trong truyện Thạch Sanh, Lý Thông
gian ác, hèn nhát, sống mánh khóe lợi dụng lịng tốt của người khác để mưu lợi cho
mình, Thạch Sanh hiền lành, chất phác, dũng cảm ln sống vì người khác, sẵn
sàng tha thứ cho những người mưu hại mình; trong truyện Của thiên trả địa, Thiên

thì xảo quyệt, bất nhân, Địa thì hiền lành nhân nghĩa,...
- Xung đột mang tính bi kịch về hơn nhân, gia đình như: Truyện Trầu cau
voi, đây là kiểu truyện phản ánh sự giàng xé giữa tình anh em và tình yêu trai gái ở
trong từng nhân vật của truyện. Sự đau khổ đã dẫn đến cái chết của cả ba người một kết cục bi thảm.
Hay truyện Nàng Tô Thị, đây là truyện kể về hai anh em làm nghề đốn củi,
chỉ vì sự tình cờ mà họ nên chồng vợ, khi nhận ra sự thật về thân thế của mình
chàng trai đau khổ phải bỏ đi, để lại người vợ và đứa con, người vợ chờ mãi chờ
17


mãi đến nỗi hóa ra đá núi. Truyện này phản ánh cuộc hôn nhân huyết tộc anh em lấy
nhau bị xã hội đời sau lên án.
Hình ảnh người vợ bạc ác qua nhân vật người vợ trong truyện Sự tích con
muỗi, cô vốn là người đàn bà lười biếng xa hoa, thỏa mê sung sướng. Nhờ sự yêu
thương của chồng đã làm cảm động lòng trời, nàng được sống lại cùng lời dặn dò
phải chung thủy với chồng. Nhưng khi gặp tên lái bn, nàng qn tình nghĩa phụ
bạc người xưa. Sau khi trả lại ba giọt máu cho chồng, nàng chết hóa kiếp thành con
muỗi quanh năm tìm cách hút máu người để mong lại được hóa thành người.
* Những xung đột xã hội diễn ra bên ngoài gia đình được phản ánh muộn
hơn, do vậy ít tác phẩm hơn. Truyện Tiêu diệt mãng xà xung đột xảy ra khi tên viên
quan cướp đầu mãng xà đi lãnh công và được vua gã công chúa, chàng trai đấu
tranh bằng cách chứng minh con mãng xà là do anh tiêu diệt. Hay truyện Của trời
trời lại lấy đi giương đôi mắt ếch làm chi được trời nói về những con người tham
lam, mưu hại lẫn nhau để chiếm mười thoải vàng nhưng cuối cùng vật của biển khơi
cũng lại trả về biển khơi.
Quan hệ bạn bè: sự xung đột được thể hiện với nhiều hình thức khác nhau,
tuy nhiên đều có chung một thuộc tính là tham lam, bất nghĩa với những người bạn
có ơn với mình. Nhân vật Thiên trong Của Thiên trả Địa là tiêu biểu cho nhân vật
này. Hai chàng trai đều nghèo và đều có chung chí hướng. Địa chăm chỉ thật thà,
Thiên thơng minh, mưu mẹo. Mười mấy năm, Địa cật lực cày thuê cuốc mướn nuôi

Thiên dùi mài kinh sử. Nhưng khi đã vinh uy bái tổ Thiên lại lật lọng, quên đi lời
thề xưa và bạc bẽo với người bạn đã giúp đỡ mình. Nhân vật Tứ trong truyện Tam
và Tứ cũng tương tự như vậy, khi Tứ buôn vật hết vốn, đang tìm chỗ làm th ni
miệng thì được Tam giúp đỡ cho theo mình bn trống. Nhưng với tính tham lam
hắn lại lừa lấy hết vốn liếng của bạn,... kết thúc câu chuyện, hầu hết các nhân vật
bất nghĩa này đều phải trả giá đắt cho những hành động tội lỗi của mình bằng việc
phải chịu cảnh tán gia bại sản hoặc chịu cảnh chết thảm: toàn bộ gia sản của Thiên
trả về cho Địa, Tứ thì bị quỷ bóp cổ chết,..
Một số truyện chứa đựng cả xung đột gia đình và xung đột xã hội: truyện
Phượng Hoàng đậu cây khế nói về xung đột giữa anh em trai và lịng tham khơng
đáy của người anh, vì khơng nghe lời phượng hồng mà nhận lấy cái chết cho mình.
Sự tương phản thường giúp cho việc khắc hoạ tâm lý, tính cách nhân vật được sâu
sắc hơn, vì người ta có hồn cảnh để đối chiếu các nhân vật với nhau. Nghệ thuật
của truyện cổ tích ở đây phục vụ đắc lực cho nội dung của truyện là giúp phân biệt
ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa ta và địch một cách rạch ròi.

18


Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa của truyện cổ tích cũng
rất sâu sắc. Nó phản ánh được xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung
đột giữa các tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp.
Truyện cổ tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới, đàn
em, lên án nhân vật bề trên đàn anh (trong thực tế không phải lúc nào người em
cũng tốt, người mẹ ghẻ lúc nào cũng xấu) nghĩa là chống bất cơng, vơ lý của xã hội
phụ quyền nói chung, thể hiện tinh thần nhân đạo của cha ông.
1.2.2. Những nét độc đáo về nghệ thuật
1.2.2.1. Sử dụng lối kể theo trình trước sau
Truyện cổ tích là văn xi truyền miệng, truyện tương đối phức tạp và dài:
tình tiết lắm chồng chất ly kỳ, tâm lý nhân vật thường nhiều loại, … Đã là tác phẩm

truyền miệng thì chỉ có thể tồn tại và lưu truyền được với điều kiện là nhớ; một tác
phẩm khó ghi nhớ khơng thể nào phổ biến rộng rãi trong dân gian bằng con đường
truyền miệng được. Để đáp ứng nhu cầu đó, truyện cổ tích thường cấu tạo theo
đường thẳng. Cốt truyện được xây dựng theo trình tự thơng thường, việc gì xảy ra
trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau. Trình tự không gian và thời gian cũng
được tuân thủ theo trình tự thời gian của cốt truyện, phát triển theo một mạch tình
tiết của truyện.
Chẳng hạn như truyện Sọ Dừa ta có thể chia làm ba chặng: chặng thứ nhất là
sự ra đời kì lạ và đặc điểm ngoại hình xấu xí của Sọ Dừa, chặng thứ hai: Sọ Dừa đi
ở và cưới được cô con gái út của phú ông, chặng ba: Sọ Dừa thi đỗ Trạng, vượt qua
khó khăn thử thách và đồn viên với gia đình.
Trong truyện Lấy chồng dê, ta cũng có thể chia làm ba chặng: chặng một: Dê
được sinh ra với hình hài kì lạ: là một con dê; chặng hai: Dê kêu mẹ qua nhà phú
ơng hỏi vợ cho mình và cưới được nàng út; chặng ba: Dê lên kinh và trên đường về
tìm thấy người vợ trên hoang đảo, hai vợ chồng về nhà. Sau đó, hai người chị bỏ đi
và bị sét đánh chết.
Truyện Thạch Sanh chẳng hạn không phải chỉ có một mạch tình tiết. Mạch
chính phát triển theo trình tự những hành động của Thạch Sanh từ khi anh đi hái củi
rồi trải bao nhiêu gian truân đến lúc lấy cơng chúa làm vợ, dùng tiếng đàn hịa bình
khiến quân mười tám nước phải cuốn giáp quy hàng, và sau cùng được bố vợ truyền
ngôi cho. Nhưng bên cạnh mạch chính đó cũng có mạch phụ như: Lý Thơng lợi
dụng Thạch Sanh hoặc như đoạn kể truyện công chúa được cứu về nhưng không
chịu lấy Lý Thông, mắc bệnh câm vì tương tư Thạch Sanh...
Cấu tạo theo đường thẳng giúp dễ nhớ vì nó đơn giản, sự kiện diễn ra theo
một mạch, nhưng cũng chính vì thế làm cho tác phẩm thiếu phần sinh động. Truyện
phải đi theo một trình tự nhất định, nếu trình tự ấy đột ngột bị thay đổi thì truyện sẽ
19



×