Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận định hướng và giải pháp gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.16 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

1

I

NHẬN THỨC CHUNG VỀ TIẾN BỘ VÀ CƠNG BẰNG XÃ HỘI

1

1.

Khái niệm tiến bộ và cơng bằng xã hội

1

2.

Nội dung của tiến bộ và công bằng xã hội

2

3.

Các thước đo hay chỉ tiêu đo lường tiến bộ và công bằng xã hội

2



4.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội

3

II.

TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM

4

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về gắn tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội

4

Thực trạng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển
kinh tế ở Việt Nam

8

III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GẮN KẾT TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM

11


1.

2.

1.

Định hướng gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ở Việt Nam
11

2.

Giải pháp đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam
11

3.

Trung đoàn 148/ Sư đoàn 316 quán triệt quan điểm thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội trong chăm lo, bảo đảm chính sách, đời
sống CBCS
14

KẾT LUẬN

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO


19

1


MỞ ĐẦU
Tiến bộ và công bằng xã hội là một chỉnh thể thuộc về tính chất của một xã
hội, từ lâu đã là khát vọng của con người, là đích hướng tới và đã trở thành một
trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của nhiều
quốc gia, dân tộc. Định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta xác định và đang
nỗ lực phấn đấu thực hiện cũng thể hiện tinh thần đó.
Thực chất của tiến bộ và cơng bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa sự
phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hịa
bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội cịn thể hiện tính ưu việt, nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa hơn hẳn
những chế độ xã hội trước, đồng thời phát huy tính năng động, khắc phục những
bất cập cố hữu của cơ chế thị trường. Vì thế, quan điểm này cần được quán triệt
sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong từng bước đi của công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác
định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” (1). Các đại
hội Đảng gần đây đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là
mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn
kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện

tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân” (2). Đại hội XIII của
Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ
lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng
xã hội, bảo vệ môi trường.

2


NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1. Khái niệm tiến bộ và công bằng xã hội
* Khái niệm tiến bộ xã hội
Tiến bộ xã hội hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động của xã hội từ trình độ thấp
đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn minh, hiện đại. Tiến bộ xã hội mà Việt Nam
đang thực hiện chính là sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa
hẹp, tiến bộ xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống ngày càng văn
minh, dân chủ được thực hiện và các quyền con người được bảo đảm. Như vậy, tiến
bộ xã hội được xem như nội hàm của phát triển kinh tế và công bằng xã hội.
* Khái niệm công bằng xã hội
Theo điển Bách khoa Việt Nam: Công bằng xã hội là phương thức đúng

3


đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lóp xã hội,
các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều
kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về ngun tắc, chưa thể có sự cơng bằng nào
được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu của con
người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi
thời đại lại có những địi hỏi riêng về sự công bằng xã hội.

Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc, phụ thuộc và quan niệm
khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ của cơng dân, bình đẳng trong chế độ phân phối thu nhập, cơ
hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội.
Để thực hiện công bằng xã hội phải đảm bảo hai nguyên tắc về sự đảm bảo sự
tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa làm và
hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và sự bị trừng trị, giữa cơng lao
đóng góp và sự thừa nhận của xã hội. Đó cịn là ngun tắc đảm bảo xóa bỏ sự
nghèo khổ cùng cực, nghèo khổ tuyệt đối.
Hiện nay, công bằng xã hội ở nước ta trong lĩnh vực kinh tế được thể hiện
ở sự công bằng về cơ hội lựa chọn và tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh; công bằng về cơ hội tiếp cận với các nguồn lực của sản xuất như vốn, lao
động, đất đai, tri thức và công bằng trong phân phối
2. Nội dung của tiến bộ và công bằng xã hội
Nội dung của tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở việc nâng cao
mức sống dân cư; trình độ phát triển con người; thực hiện xóa đói giảm nghèo
và thực hiện bình đẳng xã hội.
Chẳng hạn để nâng cao mức sống dân cư cần phải phân phối theo chức
năng. Nghĩa là hình thức phân phối dựa trên cơ sở sự đóng góp nguồn lực của
mỗi thành viên trong xã hội vào quá trình hình thành thu nhập của nền kinh tế.
Các khoản thu nhập sẽ được chuyển vào cá nhân hoặc hộ gia đình theo mức độ
sở hữu nguồn lực của các thành viên trong xã hội (thu từ q trình lao động là
tiền cơng, từ các yếu tố đất đai là địa tô, tiền và vốn sử dụng vào hoạt động sản

4


xuất kinh doanh là lãi suất và lợi nhuận...).
Đồng thời với đó là phân phối lại thu nhập mà thực chất là phân phối lại
nguồn thu giữa các thành viên trong xã hội trên cơ sở kết quả của phân phối lần

đầu theo chức năng (hay tài sản, vốn góp) nhằm tạo ra sự cơng bằng giữa các
tầng lóp dân cư trong xã hội, có hai hình thức phổ biến là phân phối lại trực tiếp
và phân phối lại gián tiếp.
3. Các thước đo hay chỉ tiêu đo lường tiến bộ và công bằng xã hội
Chỉ tiêu đo lường mức sổng dân cư; Các thước đo phát triển con người
Các chỉ tiêu đánh giá nghèo; Các thước đo bất bình đẳng xã hội được hiểu là
những đơn vị đo lường, cho phép tính tốn, đánh giá mức độ tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Ví như chỉ tiêu đo lường mức sống dân cư được đo lường thông
qua chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người, nghĩa là thu nhập của dân cư phụ
thuộc vào tổng thu nhập của nền kinh tế và kết quả của tăng trưởng kinh tế đem
lại. Vấn đề là mức tăng tổng thu nhập của xã hội phải cao hơn mức tăng quy mô
dân số hay tốc độ tăng trưởng kinh tế phải cao hơn tốc độ tăng trưởng dân số thì
mức thu nhập bình quân đầu người mới được tăng lên. Đối với các nước đang
phát triển thì phải có tăng trưởng nhanh, phải nâng cao được tiềm lực kinh tế để
gia tăng thu nhập cho đất nước, từ đó nâng cao được thu nhập bình qn đầu
người. Bên cạnh đó cịn phản ánh qua hành vi chi tiêu của dân cư là những nhu
cầu sống của người dân được thỏa mãn thông qua hành vi chi tiêu của họ.
Để đánh giá mức sống dân cư cao hay thấp được đo lường bằng các chỉ
tiêu: Quy mô, tốc độ tăng trưởng chi tiêu của người dân và cơ cấu chi tiêu cho các
nhu cầu tiêu dùng của dân cư; Quy mô và tốc độ tăng trưởng chi tiêu của người
dân (phản ánh về mặt lượng, sau khi đã loại trừ yếu tố lạm phát) và cơ cấu chi tiêu
cho các nhu cầu tiêu dùng của dân cư (phản ánh về mặt chất); Cơ cấu chi tiêu thể
hiện việc phân chia chi tiêu cho nhu cầu vật chất và nhu cầu ngoài vật chất.
4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Sự thống nhất được thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho
việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ngược lại tiến bộ và công bằng xã

5



hội sẽ tạo ra động lực và môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể: tăng
trưởng kinh tế là cơ sở, là điều kiện để nâng cao phúc lợi xã hội, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên
quan đến sự thịnh suy của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là gốc, là nền tảng
để giải quyết mọi vấn đề khác.
Mặt khác, tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện sẽ tạo động lực và
môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sẽ khuyến khích người lao động vươn
lên học tập, nâng cao trình độ chun mơn kỹ thuật, tay nghề để có năng suất lao
động cao, có thu nhập cao, khi đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Đây là yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, bên cạnh sự thống nhất, thì mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội là không tránh khỏi. Do vậy tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là
điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội là yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa như ở nước ta càng trở nên quan trọng và cần thiết.
II. TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách
và trong suốt q trình phát triển.
Như vậy, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cùng với
những chính sách nhân văn, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm thỏa
mãn nhu cầu sống, lao động, cống hiến và thụ hưởng của mỗi người và mọi


6


người dân là mục tiêu phấn đấu, là tính chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, nhân dân ta chủ trương và đang tiến hành xây dựng.
Định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta xác định và đang nỗ lực
phấn đấu thực hiện cũng thể hiện tinh thần đó. Thực chất của tiến bộ và công
bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa sự phát triển kinh tế với thực hiện các
chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hịa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội cịn thể hiện tính ưu việt, nhân văn của chế độ
xã hội chủ nghĩa hơn hẳn những chế độ xã hội trước, đồng thời phát huy tính
năng động, khắc phục những bất cập cố hữu của cơ chế thị trường. Vì thế, quan
điểm này cần được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong từng bước đi
của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tiến bộ xã hội là con đường tiến lên của xã hội. Các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học xác định rằng, tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của xã
hội lồi người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế - xã hội này đến một hình
thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt
đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người.
Như vậy, nội hàm của tiến bộ xã hội phải thể hiện đồng thời tương ứng từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến sự phát triển của quan hệ sản xuất; từ
sự phát triển của cơ sở hạ tầng, đến sự phát triển của kiến trúc thượng tầng; từ sự
phát triển của tồn tại xã hội, đến sự phát triển của ý thức xã hội; từ việc nâng cao
mức sống của con người, làm cho con người thốt khỏi mọi áp bức bóc lột, bất
cơng, đến phát triển tồn diện và tự mình làm chủ cuộc sống của mình. Quá
trình vận động tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra hết sức phức
tạp, song luôn theo hướng tiến bộ, đi từ thấp đến cao, từ chưa hồn thiện đến

hồn thiện, theo đó, đời sống xã hội lồi người cũng ln theo xu thế ngày càng
được nâng lên.

7


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở thời đại đế quốc chủ nghĩa, đối với các dân
tộc bị áp bức thì tiến bộ xã hội cịn phản ánh mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”(3). Người giải thích: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già
khơng lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” (4). Như vậy, xây dựng
chủ nghĩa xã hội là thực hành quá trình tiến bộ xã hội văn minh nhất so với tất cả
những xã hội trước đó mà lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác
định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” (5). Các đại
hội Đảng gần đây đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là
mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn
kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện
tiến bộ, cơng bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân” (6). Đại hội XIII của
Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ
lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường”(7).
Công bằng xã hội là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong

mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự với
trách nhiệm. Thực tế phát triển của lịch sử nhân loại, công bằng xã hội là vấn đề
mang tính lịch sử, được quy định bởi chế độ xã hội cụ thể. Mỗi xã hội đều đưa
ra chuẩn mực riêng về công bằng xã hội, tùy theo tính chất giai cấp nhất định.

8


Trong Phê phán cương lĩnh Gơta, C. Mác đã hình dung ra công bằng xã
hội dưới chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao
động. Ông chỉ ra rằng, trong xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản
cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng
đồng, tồn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc:
mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu
dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau
khi đã khấu trừ số lao động của anh ta trong các quỹ xã hội(8). Cách phân phối này
là công bằng, bởi lẽ tất cả những người cùng sản xuất/làm một công việc ngang
nhau đều có quyền ngang nhau trong tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội.
Tuy vậy, với đặc thù của giai đoạn chủ nghĩa xã hội, C.Mác đã chỉ ra
rằng, sự phân phối cơng bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn cịn
chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã
hội, bởi “với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn
người kia, người này vẫn giàu hơn người kia,…” (9). Theo C. Mác, đó vừa là ưu
việt, vừa là hạn chế không tránh khỏi của nguyên tắc phân phối theo lao động
trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa(10).
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để bảo đảm vừa tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện công bằng
xã hội, Đảng ta chủ trương phân phối theo lao động. Đến Đại hội Đảng lần thứ
VII (năm 1991), nguyên tắc phân phối đã được bổ sung hoàn thiện và xác định:

phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh là chính. Ba
năm sau, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1 năm
1994), Đảng nêu nguyên tắc “phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích
và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng
góp vào sản xuất, kinh doanh”. Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng tiếp tục bổ
sung: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua

9


phúc lợi xã hội”(11). Đây là nguyên tắc phân phối công bằng phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua cho thấy, việc thực hiện các
nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng này đã kích thích mọi người, mọi
nguồn lực tham gia sản xuất, kinh doanh, đó là một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh. Đây chính là ưu việt về sự thực hiện cơng
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay. Bên cạnh nguyên tắc phân phối ngày càng hài hòa giữa phát triển và công
bằng xã hội, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển
bền vững, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thể hiện tính ưu việt, cơng bằng xã
hội của mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng
định: “Hệ thống an sinh xã hội… có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người
dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững,
công bằng; Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có cơng và giữ
vai trị chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội”(12).
2. Thực trạng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển
kinh tế ở Việt Nam

Hơn 35 năm đổi mới, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu: Lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học
ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; kinh tế tăng trưởng nhanh, chất lượng được cải thiện; quyền làm chủ của
nhân dân đối với mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm; Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng hoàn thiện theo hướng trong
sạch, vững mạnh.
Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được bảo đảm; văn hóa, giáo
dục - đào tạo, khoa học - cơng nghệ được mở mang, trình độ dân trí phát triển;
những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đấu tranh loại bỏ dần; môi trường sinh

10


thái được quan tâm bảo vệ hơn; con người có điều kiện hơn để phát triển về thể
chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc;
được cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự phát triển. Đích
hướng tới của tiến bộ xã hội nhằm phát triển toàn diện con người đã đạt được
những bước tiến dài.
Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Đảng ta đánh
giá: “Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các
lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ
môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam,… có nhiều
chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.”(13)
Trên cơ sở thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực tế những năm qua, nhiều chính sách xã hội lớn được
Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện đạt kết quả khả quan:
- Chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đạt được
nhiều thành quả tích cực, đã góp phần quan trọng bảo đảm tỷ lệ cao dân số từ 15

tuổi trở lên có việc làm (trên 77%) và giảm nghèo bền vững. Trong 10 năm qua,
nước ta ln duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp (từ 2% - 3%) và thuộc nhóm các
quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới. Thu nhập bình quân của người lao
động được cải thiện, tăng bình quân 8,7%/năm trong giai đoạn 2013 - 2018(14). Tỷ
lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 11,76% năm 2011 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 2015) xuống còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều)(15).
- Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã mở rộng cơ hội tham gia,
thụ hưởng của người dân, thu hút người lao động trong độ tuổi tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng nhanh, đặc biệt bảo hiểm y tế cả
nước có 85,39 triệu người tham gia, chiếm 90% dân số năm 2019, cơ bản bao
phủ tồn dân(16).
- Cơng tác trợ giúp xã hội cho người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, từng
bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là
trung tâm góp phần ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế.

11


Ví dụ, những chính sách trợ giúp xã hội đột xuất hỗ trợ kịp thời người
dân bị rủi ro do thiên tai bão lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, cứu đói giáp hạt và
nhân dịp Tết Nguyên đán hằng năm... Đặc biệt, trước những khó khăn do đại
dịch COVID-19 gây ra, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày
9-4-2020, “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19” và Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg,
ngày 24-4-2020, “Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân
gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” với gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng... Những
trợ giúp đó khơng chỉ tạo điều kiện cho những hồn cảnh khó khăn vượt qua đại
dịch mà cịn tạo nên sự cơng bằng tương đối trong cộng đồng lúc hoạn nạn, thể
hiện tính tương thân của dân tộc, tính ưu việt của chế độ.
- Hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư,
phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, được thể

hiện trong việc phổ cập giáo dục; chương trình đào tạo nghề cho lao động nông
thôn; xây dựng hệ thống y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình nhà ở cho các nhóm đối tượng yếu
thế, dễ bị tổn thương, cho công nhân khu công nghiệp; mạng lưới cấp nước sạch
nông thôn; hệ thống thông tin truyền thông cơ sở… được triển khai hiệu quả. Hệ
thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng.
- Tài chính cho an sinh xã hội được tăng cường, trong đó ngân sách nhà
nước giữ vai trị chủ đạo và phát huy sự tham gia đóng góp của doanh nghiệp,
người dân và cộng đồng xã hội như thực hiện chính sách ưu đãi người có cơng
với cách mạng; chi thực hiện an sinh xã hội; chương trình tín dụng ưu đãi… đã
góp phần hiện thực hóa quan điểm lấy con người là trung tâm và không ai bị bỏ
lại phía sau trong q trình phát triển.
Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc (UNDP) xác nhận chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam ngày càng

12


tiến bộ và đến nay được xếp vào “nhóm nước có thứ hạng cao” trong nhóm nước
có mức phát triển con người trung bình.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định “Chính sách xã hội đúng đắn, công
bằng là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.(17)
Những thành tựu trong phát triển kinh tế giúp con người có điều kiện hơn
để phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng
ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vẫn
cịn những hạn chế, như tình trạng phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ thất nghiệp cao,
giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch mức sống

ngày càng tăng, khơng ít giá trị văn hóa, đạo đức bị mai một, xuống cấp.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập đó, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sự
tiến bộ xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh chủ trương tiếp tục
thực hiện tiến bộ xã hội trong từng bước đi của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày càng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa đang được Đảng, nhân dân đồng thuận xây dựng.
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GẮN KẾT TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
1. Định hướng gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ở Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển, đang chịu tác động của q trình tồn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế nên
việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy cần phải có định hướng rõ ràng, trong đó tập
trung vào: Mơ hình phát triển kinh tế nước ta là phát triển toàn diện; nội dung là
thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ, công bằng xã hội

13


ngay từ đầu và trong từng bước đi phát triển. Điều này được khẳng định trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, đó là: Khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát
huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực
quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính

sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần và hạnh phúc của nhân dân.
2. Giải pháp đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam
* Giải pháp tổng quát
Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu
quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt
động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh tồn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh,
dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an tồn, bảo đảm cuộc sống
bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu
đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đến nay, Chính phủ đã
xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021- 2025 đặt ra 5 quan
điểm. Trong đó, nhấn mạnh tập trung khắc phục những hạn chế, hoàn thành cơ
cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch giai đoạn 2016- 2020; bổ sung các
nhiệm vụ nhằm tận dụng các cơ hội, các mơ hình kinh doanh mới và giải quyết
tốt các vấn đề chiến lược để phát triển nhanh và bền vững.

14


Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt,
được thực hiện đồng bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung ương với địa
phương, là bước đi cần thiết để đổi mới mơ hình tăng trưởng theo hướng dựa
nhiều hơn vào khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, cơ cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện thực chất, hiệu quả

hơn nữa trên cơ sở củng cố và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành linh
hoạt và phối hợp hài hịa, hiệu quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các
chính sách vĩ mơ khác, gắn với thực hiện ba đột phá chiến lược và sáu nhiệm vụ
trọng tâm theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Lấy hoàn thiện thể
chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá, lấy cơ cấu lại không gian
kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết đô thị- nơng
thơn và vai trị dẫn dắt đổi mới mơ hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng
điểm, các đô thị lớn làm nhiệm vụ trọng tâm.
* Giải pháp cụ thể
Bối cảnh thế giới và trong nước thời gian tới có nhiều nhân tố tích cực và
hạn chế, thời cơ và thách thức trong việc phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ở Việt Nam. Quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đi vào chiều
sâu, những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho Việt Nam, phát triển
kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, mặt trái của q trình
tồn cầu hóa, kinh tế thị trường.... Do đó, trong thời gian tới, để tiếp tục phát
huy thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau gần 35 năm đổi mới,
tiến tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030, 100 năm thành lập
nước vào năm 2045, cơ đồ của đất nước bước sang một trang mới tươi sáng
hơn,Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về
phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện
mới. Xác định tiến bộ và cơng bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với phát
triển kinh tế, kinh tế chỉ phát triển nhanh và bền vững khi coi trọng phát triển

15


văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội và đặt con người là trung tâm của
sự phát triển.

Tiến bộ và công bằng xã hội cần được tập trung trong phát triển văn hóa,
con người. Do đó, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát
triển tồn diện. Xây dựng mơi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; ngăn chặn sự
xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt
chẽ xây dựng văn hóa với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; phát triển văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt
là Nghị quyết Đại hội XIII về phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và
cơng bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xử lý hài hòa
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với
phát triển văn hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế, khơng quan
tâm đúng mức các giá trị văn hóa.
Thực hiện tốt quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách phát triển kinh tế phải hướng tới phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội
phải tập trung vào việc xây dựng mơ hình phát triển xã hội hợp lý, không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát
triển, như: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế phát
triển chưa cao, nguồn lực còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế với xây dựng văn
hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, nhưng
một số lĩnh vực văn hóa, giáo dục phát triển không tương xứng; giữa chủ trương
phát triển, quản lý xã hội với việc tổ chức thực hiện; giữa yêu cầu phát triển xã
hội, phát triển con người với thực trạng hạn chế về nguồn nhân lực; giữa thực tiễn
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với công tác lý luận, định hướng phát triển.

16



Bốn là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy sự
phát triển. Quán triệt quan điểm tiến bộ và công bằng xã hội trong thực hiện chủ
trương phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực quan trọng, đặc biệt là các
khu vực cịn nhiều khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dân tộc thiểu số.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vai trị đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc
quản lý, phát triển xã hội.
Cần có định hướng và những chính sách nhằm phát huy năng lực, bồi
dưỡng chuyên môn và nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong lĩnh vực này. Bố
trí cán bộ chỉ đạo, quản lý xã hội đúng chuyên môn sở trường, có năng lực, kinh
nghiệm. Thường xuyên có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ để đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ.
Năm là, xây dựng, củng cố, phát huy thiết chế xã hội các cấp trong việc
gắn kết phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các địa
phương quan tâm đầu tư, phải dành quỹ đất và ưu tiên bố trí địa điểm cho việc
xây dựng và mở rộng, phát triển hệ thống thiết chế xã hội các cấp, đồng thời
thực hiện chủ trương xã hội hố. Xây dựng, hồn thiện cơ sở vật chất phục vụ
phát triển xã hội, quyền tiếp cận bình đẳng của người dân và phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Chính quyền các cấp đầu tư đúng mức
cho lĩnh vực quản lý, phát triển xã hội,tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để nâng cao khả năng dự báo
về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và định hướng phát triển; xây dựng con
người Việt Nam toàn diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, góp phần phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Trung đoàn 148/ Sư đoàn 316 quán triệt quan điểm thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội trong chăm lo, bảo đảm chính sách, đời sống CBCS
Trong những năm qua, quán triệt và thực hiện chỉ thị, nghị quyết của các
cấp, nhất là Chỉ thị 523-CT/QUTW ngày 02/12/2011 của Thường vụ Quân ủy


17


Trung ương về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính sách đối với Quân
đội và hậu phương Quân đội”, Với cương vị là UVTV- Phó Chính ủy Trung
đồn, bản thân cùng với Ban Thường vụ và Đảng ủy- chỉ huy Trung đoàn đã
thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tồn diện, đồng bộ cơng tác chính
sách đối với quân nhân tại ngũ và hậu phương của cán bộ, chiến sĩ và đạt được
nhiều hiệu quả thiết thực.
Là đơn vị chủ lực đủ quân thuộc Sư đoàn 316/ Qn khu 2 có nhiều đối
tượng chính sách. Từ đặc điểm trên Đảng ủy - Chỉ huy Trung đoàn đã chỉ đạo
tuyên truyền nội dung tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội là quan điểm đúng đắn của Đảng ta; là tâm điểm trong chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước đến mọi CBCS trong đơn vị và nhân dân.
Trên cơ sở đó, chủ động đề xuất với Đảng ủy - Chỉ huy Sư đoàn 316 và cấp trên
ban hành và thực hiện tốt nhiều chế độ chính sách, góp phần từng bước cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và các đối tượng chính sách, tạo
động lực thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, góp phần xây dựng
Trung đồn vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”.
Đơn vị đã chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chỉ
huy, cơ quan chính trị cấp trên tổ chức triển khai thực hiện tốt các chế độ chính
sách đối với quân nhân tại ngũ, như: chế độ phụ cấp đặc thù quân sự, tổ chức rà
soát, xét và đề nghị Bộ Quốc phịng hỗ trợ cho 06 đồng chí thuộc đối tượng
hiếm muộn vơ sinh, gia đình có nhiều khó khăn; đề nghị với Cục Chính trị Qn
khu xét, đề nghị Bộ Quốc phòng hỗ trợ 02 trường hợp là con liệt sĩ có khó khăn
về nhà ở, đang cơng tác trong Trung đồn, sửa chữa nhà ở theo mức quy định
(70 triệu đồng/ một trường hợp).
Trong toàn Trung đồn đã tổ chức phong trào tự nguyện qun góp xây
dựng quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”, quỹ “Ngày vì người nghèo” với số tiền quyên

góp là 96.000.000 đồng. Tổ chức giúp đỡ nhiều gia đình cán bộ, nhân viên có
hồn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống, tặng hàng trăm suất quà cho gia
đình quân nhân trực tiếp làm nhiệm vụ trực SSCĐ nhân dịp các sự kiện, ngày lễ

18


lớn với số tiền hơn 134.000.000 đồng; hỗ trợ xây dựng 02 căn “ Nhà tình
nghĩa”, 3 căn “Nhà đồng đội”, tổng trị giá 230.000.000 đồng qua đó tạo niềm tin
cho cán bộ, chiến sĩ an tâm công tác, yêu mến đơn vị, sẵn sàng nhận và hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
Đảng ủy - Chỉ huy Trung đoàn cũng như cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn
vị đã thực sự quan tâm đối với công tác hậu phương quân đội, nhất là việc hỗ trợ
gia đình các đồng chí có điều kiện khó khăn về vật chất, đề nghị với địa phương
hỗ trợ về chính sách, những việc làm đó thực sự đã mang lại nhiều ý nghĩa xã
hội sâu rộng, đã tạo niềm tin trong quần chúng nhân dân địa phương và cán bộ,
chiến sĩ đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội cũng như CBCS Trung đoàn.
Để tiếp tục thực hiện tốt cơng tác chính sách, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ đang cơng tác trong Trung đồn, với phương
châm: “Đúng, đủ, chính xác và kịp thời”, Đảng ủy - Chỉ huy Trung đoàn yêu cầu
các cơ quan, đơn vị trực thuộc cần thường xuyên quán triệt tốt và triển khai thực
hiện nghiêm túc chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn công tác chính sách và đền ơn, đáp
nghĩa của trên, tập trung vào những nội dung cơ bản sau đây:
Một là: Cơ quan, đơn vị, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp
trong tồn Trung đồn kịp thời quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Quân khu và Sư đồn 316 về Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác Chính sách đối với Quân đội và hậu phương
Quân đội đến mọi cán bộ, chiến sĩ.
Hai là: Thường xuyên phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để giải
quyết tốt chế độ; thực hiện chính xác mọi chế độ, chính sách được thụ hưởng

cho qn nhân tại ngũ, khơng để hiện tượng chi trả không đúng chế độ quy định;
kịp thời giải thích, phúc đáp các vấn đề cịn gây thắc mắc trong cơ quan, đơn vị
về chế độ tiêu chuẩn, tránh không để đơn thư vượt cấp.
Ba là: Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách, phát huy
sức mạnh tổng hợp của cơ quan, đơn vị, địa phương, gia đình để thực hiện tốt công
tác bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; lồng ghép trong các chương

19


trình tuyên truyền, vận động quần chúng, nhân dân địa phương nhằm phát hiện, hỗ
trợ kịp thời gia đình các đồng chí làm nhiệm vụ ở những địa bàn khó khăn (rà phá
bom mìn, vật cản, vật liệu nổ sót lại sau chiến tranh trên địa bàn biên giới Hà Giang,
Lào Cai), gia đình qn nhân có thân nhân mắc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo...
Bốn là: Tổ chức thực hiện tốt phong trào đền ơn, đáp nghĩa. Thực hiện tốt việc
hỗ trợ quân nhân trong đơn vị xây dựng “Nhà tình nghĩa”, “Nhà đồng đội”, sửa chữa,
cải tạo nâng cấp nhà ở đối với thân nhân liệt sỹ đang cơng tác trong Trung đồn và
người có cơng với cách mạng trên địa bàn đóng quân có khó khăn về nhà ở.
Năm là: Thực hiện tốt các chế độ phép, tranh thủ, ưu tiên cho những đồng chí nhà
xa, đối tượng có hồn cảnh khó khăn, cơng việc đột xuất. Kiến nghị với cấp trên sớm có
cơ chế cải cách tiền lương, phụ cấp để nâng cao đời sống CBCS. Tạo điều kiện cho
những đồng chí trên 30 tuổi có cơ hội tìm hiểu để lập gia đình (đơn vị hiện có 46/300 SQ,
QNCN trong diện này). Làm tốt chính sách hậu phương quân đội nhằm ngăn chặn, giảm
tỉ lệ ly hơn của SQ, QNCN đang có xu hướng tăng có ngun nhân từ điều kiện cơng tác
xa nhà, thu nhập chưa tương xứng với đặc thù công việc. Cán bộ chủ trì trong đơn vị phải
thật sự quan tâm và là là điểm tựa vững chắc cho bộ đội, u mến gắn bó với đơn vị.
KẾT LUẬN
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Từ một nước
nghèo nàn, lạc hậu, trình độ rất thấp, hầu như khơng có tên trên bản đồ thế giới,

ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có quy mơ gần 100 triệu
dân, đang phát triển, có thu nhập trung bình, có quan hệ với hầu hết các nước
trên thế giới, tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và là thành viên, đối tác tin
cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Sau 35 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người Việt Nam đạt 2.750 USD/
người/năm. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam ở vị trí 42/131 quốc gia. GDP
của Việt Nam đã tăng gấp 42 lần; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 28 lần;
Quy mô nền kinh tế là 266,5 tỷ USD. Việt Nam cũng là 1 trong 38 quốc gia có
thành tích nổi bật về xóa đói giảm nghèo, từ 60% trước đổi mới, nay chỉ còn dưới

20



×