Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận một số vấn đề chung về văn hóa chính trị và giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.77 KB, 32 trang )

1

MỞ ĐẦU
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh tồn bộ
các giá trị, phẩm chất, trình độ, năng lực chính trị, được hình thành trên một
nền chính trị nhất định; là văn hóa được thể hiện trong hoạt động chính trị của
con người, tổ chức và thể chế chính trị. Văn hóa chính trị là tập hợp các giá
trị, thái độ, niềm tin được cộng đồng chia sẻ và nó có thể chi phối, định hướng
hoạt động của các cá nhân và tổ chức khi các chủ thể này tham gia vào đời
sống chính trị.
Văn hóa chính trị ln có một vai trị rất to lớn đối với mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và
quan hệ xã hội. Đồng thời, thúc đẩy hoạt động của giai cấp, cá nhân trong
chính trị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị.
Trong xu hướng tồn cầu hóa đã mở ra cơ hội phát, song cũng tạo ra những
thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Văn hóa chính trị ở nước ta có
một q trình hình thành và phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử dựng nước,
giữ nước của dân tộc và dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh”. Điều đó đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa
tính cách mạng và tính khoa học, truyền thống với hiện đại.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến văn hóa, văn
hóa chính trị. Trong sự nghiệp đổi mới, bên cạnh những mặt tích cực, q
trình hội nhập quốc tế sâu rộng và mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác
động khơng nhỏ đến văn hóa chính trị. Việc giữ vững những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc, đặc biệt là những giá trị văn hóa chính trị có vai trị
rất quan trọng đối với sự ổn định nền chính trị, từ đó sẽ tạo ra động lực cho sự
hòa nhập, phát triển, ổn định của nước ta. Với lý do trên, tôi lựa chọn nội
dung “Văn hóa chính trị và giải pháp xây dựng văn hóa chính trị ở Việt



2

Nam hiện nay” làm tiểu luận tốt nghiệp lớp Hoàn chỉnh kiến thức cao cấp lý
luận chính trị.

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VÀ
GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

1. Văn hóa và văn hóa chính trị
Văn hóa là do con người tạo dựng và sáng tạo ra trong suốt quá trình
lịch sử, trong ứng xử với tự nhiên và xã hội, bao gồm văn hóa vật thể và phi
vật thể; là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Ở
nước ta hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa. Trong đó, quan
niệm chiếm số đơng các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn
hóa Việt Nam thì văn hóa được hiểu là cộng đồng văn hóa dân tộc - quốc gia.
Đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc
người. Khái niệm dân tộ - quốc gia chỉ một quốc gia có chủ quyền, trong đó
phần lớn cơng dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc.
Theo đó, nói tới văn hóa phải nhấn mạnh hai đặc trưng căn bản:
Một là, văn hóa khơng phải là sản phẩm của từng cá nhân riêng lẻ (đối
với cá nhân, người ta gọi là nhân cách, phong cách), mà nó là sản phẩm của
một nhóm, một tập thể, một cộng đồng.
Hai là, văn hóa là nói tới các giá trị đã tồn tại trong một thời gian tương
đối dài, được xác lập tương đối ổn định.
Do đó, để xây dựng, thay đổi văn hóa không thể diễn ra trong ngày một
ngày hai bằng các biện pháp mang tính tình thế.
Sinh thời, Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ



3

cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố.” 1. Văn hố là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Theo quan niệm của Người, văn hóa chính là biểu hiện của sự hiểu biết, tài
năng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn, v.v.. của con người và của mỗi cộng
đồng dân tộc trong mối quan hệ với xã hội và tự nhiên. Đó là cách tiếp cận
khơng chỉ coi văn hóa đơn thuần là đời sống tinh thần của con người - xã hội
mà từ trong bản chất của mình. Văn hóa chính là linh hồn của một xã hội, là
sức mạnh trường tồn của một dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại.
Người cũng chỉ ra năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc. 1) Xây dựng
tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình,
làm lợi cho quần chúng. 3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến
phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4) Xây dựng chính trị: dân quyền. 5) Xây
dựng kinh tế.
Theo quan niệm và cách tiếp cận trên, văn hóa chính trị là một phương
diện của văn hóa, ở đó kết tinh tồn bộ các giá trị, phẩm chất, trình độ, năng lực
chính trị, được hình thành trên một nền chính trị nhất định. Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln coi trọng vai trị của văn hóa. Văn hóa giữ vị trí, vai trị quan trọng
trong tồn bộ đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Trong cơng cuộc
kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. “Đưa nghệ thuật vào chính trị. Đúng lắm.
Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngồi, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị”2 và ngược lại kinh tế, chính trị cũng phải nằm
trong văn hóa. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Người
chỉ rõ: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì

sao khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới
1
2

Hồ Chí Minh, tồn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 458.
Hồ Chí Minh, tồn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 246.


4

vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta. “Với quyết tâm tự lực cánh
sinh của mình và sự giúp đỡ vô tư của các nước bạn, chúng ta đang ra sức khôi
phục kinh tế, nhằm cải thiện dần đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
ta”3.
Vật chất và tinh thần là hai mặt của đời sống xã hội nói chung và đời
sống mỗi con người nói riêng, nên, nếu coi kinh tế là nền tảng vật chất của xã
hội, đáp ứng nhu cầu vật chất, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Không thể phát triển ổn định và
bền vững nếu chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà bỏ quên, thậm chí hy sinh
các giá trị văn hóa. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc là một quá trình nội
sinh và có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển kinh tế và văn hóa; trong đó
văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội; khơng chỉ chi
phối, tác động mà cịn có khả năng quy định sự phát triển của xã hội. Một quốc
gia nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì khơng những mơi
trường xã hội bị hủy hoại, xung đột ngày càng gay gắt, sự suy thối về đạo đức,
lối sống, văn hóa ngày càng tăng mà có thể, gần nhất là mục tiêu kinh tế cũng
khó đạt được. Với ý nghĩa đó, khả năng phát triển ổn định và bền vững của một
dân tộc khơng chỉ dựa vào nền tảng vật chất mà cịn cần phải dựa vào nền tảng
tinh thần.


3

Hồ Chí Minh, tồn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 204.


5

Văn hố chính trị bao gồm các thành tố khác nhau. Tùy thuộc vào cách
tiếp cận, định nghĩa về văn hóa chính trị mà người ta xác định các thành tố
của văn hóa chính trị cũng khác nhau. Qua nghiên cứu nhận thấy các thành tố
của văn hóa chính trị được xác định gồm các yếu tố như:
Hệ tư tưởng chính trị là một tập hợp các tư tưởng tạo thành các mục
tiêu, đường lối, chiến lược, sách lược chính trị của một chủ thể. Các giá trị
chính trị là những điều được tin là đúng đắn, có ý nghĩa, được cộng đồng thừa
nhận và chia sẻ một cách rộng rãi. Các giá trị thường được tiếp nhận từ truyền
thống, hoặc được định hình qua thực tiễn chính trị. Các giá trị thường mang
tính chủ quan, được tiếp nhận từ truyền thống, hoặc được định hình thơng qua
thực tiễn chính trị. Các giá trị có tính ổn định và bền vững, có ý nghĩa chi
phối hành vi của các cá nhân, các nhóm trong cộng đồng.
Các chuẩn mực chính trị xác định cách ứng xử phù hợp với điều mà
một xã hội cho là tốt, là đúng, và nó được hầu hết các thành viên trong xã hội
tôn trọng. Hành vi chính trị là hành vi thể hiện trong hoạt động, qua hoạt
động. Đó là hành động, việc làm, là sự giao tiếp, ứng xử của con người trong
quá trình tham gia vào đời sống chính trị. Hành vi chính trị của các cá nhân
thường bị chi phối bởi các giá trị và chuẩn mực mà mỗi cá nhân theo đuổi.
Các nghi thức và truyền thống là các yếu tố hữu hình của văn hóa chính
trị, là một phần của bản sắc văn hóa quốc gia. Các biểu tượng chính trị là
những cái chứa đựng các ý nghĩa, các giá trị nhất định. Các truyền thuyết
chính trị là những câu chuyện về lịch sử, về con người được người dân truyền

từ đời này qua đời khác. Các nhân vật anh hùng là hiện thân của các phẩm
chất và tính cách mà một quốc gia tự hào.
2. Giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị Việt Nam
Văn hóa là hệ thống các giá trị và chuẩn mực chung được cộng đồng
chia sẻ và thừa nhận. Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa chứa đựng cả
yếu tố vật chất và phi vật chất, tuy nhiên vai trò chủ yếu của văn hóa là về
lĩnh vực tinh thần - phi vật chất (tâm hồn, tri thức, cảm xúc, văn học, nghệ
thuật, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, đức tin…). Hơn nữa, theo
định nghĩa này văn hóa thuộc phạm trù của cả một xã hội hay một nhóm


6

người, như vậy vai trị của văn hóa trong cá nhân con người và vai trị của văn
hóa trong thể chế chính trị - xã hội (nhất là nhà nước) đã không được đề cập
tới. Trong Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác đã viết: “Nếu
các ông lấy những quan niệm tư sản của các ông về tự do, về văn hóa, về luật
pháp, v.v., làm tiêu chuẩn để xét việc xóa bỏ sở hữu tư sản thì chẳng cần phải
tranh cãi với chúng tơi làm gì. Chính những tư tưởng của các ông là sản phẩm
của những quan hệ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các
ơng chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà
nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết
định”4. Văn hóa chính trị là những giá trị cốt lõi, huyết mạch trong mỗi hệ
thống chính trị; là một hệ giá trị văn hóa được con người lựa chọn tiếp nhận
và biểu hiện ra trong q trình hoạt động chính trị. Trước hết, đó là trình độ
giác ngộ khoa học về chính trị, tức là sự nắm vững các tri thức, giúp con
người nhận thức đúng bản chất của lợi ích và quyền lực chính trị, biết phân
biệt sự khác nhau, động cơ, thái độ và hành vi trong hoạt động chính trị. Sự
giác ngộ về văn hóa chính trị được hình thành từ hai nguồn tri thức khoa học
lý luận và từ kinh nghiệm thực tiễn. Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hợp

của tri thức và kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính
trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị, động cơ thúc đẩy họ vươn tới
những hành động chính trị một cách tự giác phù hợp với lý tưởng chính trị
của xã hội.
Văn hóa chính trị có thể được nhận dạng qua một số nét khái quát chính
như sau:
Thứ nhất, là nhu cầu và thói quen, qua hành động tích cực tham gia của
cá nhân vào các sinh hoạt chính trị - xã hội theo những chuẩn mực nhất định
vì lợi ích của cộng đồng, bảo vệ, tán thành, ủng hộ hoặc phê phán, phản đối
những hiện tượng, những sự việc ở các lĩnh vực trong đời sống xã hội (chính
trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật...) theo những chuẩn mực văn hóa và quan
điểm, lập trường chính trị nhất định. Thứ hai, là qua giao tiếp, ứng xử trong
các mối quan hệ (cá nhân với cá nhân, đồng nghiệp, đồng cấp, cấp
trên với cấp dưới; cá nhân với tổ chức; cá nhân với xã hội trên các vấn đề
4

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn Tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.619.


7

thuộc về lợi ích). Một trong những biểu hiện của hình thức này là văn hóa
tranh luận, văn hóa đối thoại. Văn hóa chính trị của từng cá nhân bộc lộ qua
quan điểm giai cấp, lập trường chính trị, khí chất, năng lực trí tuệ, trình độ tư
duy, dấu ấn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong, nhân cách... của mỗi
người, từ mỗi cơng dân bình thường đến các chính khách, các nhà lãnh đạo,
quản lý nắm trong tay quyền lực chính trị. Thơng qua quan hệ giao tiếp, ứng
xử có thể đánh giá trình độ văn hóa chính trị của mỗi người ở các mức độ:
Mức độ tự biết mình; mức độ biết lắng nghe tiếp nhận, chọn lọc và xử lý
thơng tin; mức độ biết thích ứng và đáp ứng để thỏa mãn nhu cầu của người

khác vì mục tiêu chính trị; trung thành với lý tưởng chính trị, tính trung thực
và khiêm nhường, sự kiên quyết, khéo léo, mưu lược, lòng nhân ái, hướng về
nhân dân, dân tộc và tận tụy phục vụ nhân dân một cách có hiệu quả.
Văn hóa chính trị khơng có mục đích tự thân trong đời sống chính trị,
khơng tự nhiên hình thành ở mỗi cá nhân cũng như ở các nhà chính trị, ở đảng
chính trị, nhưng cần xây dựng, bồi dưỡng để trở thành nhu cầu nội sinh trong
từng cá nhân, tổ chức. Từ đó, mới tạo được nền tảng để tập hợp, giáo dục
quần chúng, tìm ra được các hình thức tổ chức phù hợp để quy tụ mọi tầng
lớp, giai cấp xã hội phấn đấu theo định hướng của đảng chính trị. Con đường
hình thành văn hóa chính trị ở mỗi con người khác nhau nhưng nhìn tổng qt
có thể thấy một số điểm chung: Thơng qua một quá trình giáo dục và giáo
dưỡng của hệ thống giáo dục gồm gia đình, nhà trường, xã hội và từ sự tự nỗ
lực tìm kiếm, học hỏi của mỗi người; hình thành từ hoạt động thực tiễn, từ sự
trải nghiệm của mỗi người trong đời sống chính trị, trong lao động sản xuất và
giao tiếp với cộng đồng.
Giá trị là phạm trù riêng có của lồi người, liên quan đến lợi ích vật
chất cũng như tinh thần của con người. Bản chất và ý nghĩa bao quát của giá
trị là tính nhân văn. Chức năng cơ bản nhất của giá trị là định hướng, đánh giá
và điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Giá trị gắn liền với
nhu cầu con người. Nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và được
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính nhu cầu là động cơ thúc đẩy


8

mạnh mẽ hành động của con người, giúp con người tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần.
Có những giá trị có thể định lượng bởi một giá, nhưng cũng có những
giá trị khơng thể định giá - vơ giá: lịng u nước, tình u tình bạn, các tác
phẩm nghệ thuật... Những hành động của con người vì nhu cầu và thỏa mãn

nhu cầu trong quá trình tồn tại của mình ẩn chứa các giá trị văn hóa. Khía
cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng nhân văn của con người biểu hiện
trong hoạt động sống của cá nhân, cộng đồng, dân tộc: ăn, mặc, ở, đi lại, giao
tiếp xã hội, giáo dục, tập quán, tín ngưỡng,... tạo nên nét đặc trưng của giá trị
văn hóa. Nhu cầu của con người càng cao càng tạo điều kiện cho việc hình
thành các giá trị văn hóa. Giá trị văn hóa là cái hình thành trong q trình vận
động của các cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội vươn tới thỏa mãn nhu cầu
của mình. Do vậy, nói tới giá trị văn hóa là nói tới những thành tựu của một
cá nhân hay một dân tộc đã đạt được trong quan hệ với thiên nhiên, với xã hội
và trong sự phát triển bản thân mình; nói tới giá trị văn hóa cũng là nói tới
thái độ, trách nhiệm và những quy tắc ứng xử của mỗi người trong quan hệ
của bản thân với gia đình, xã hội và thiên nhiên; nói tới giá trị văn hóa cũng là
nói tới những biểu tượng cho cái chân - thiện - mỹ.
Từ những phân tích, luận giải trên, văn hóa chính trị là một trong những
tiêu chí quan trọng hàng đầu để cho mỗi người hướng tới để rèn luyện, học
tập và tu dưỡng bản thân, xứng đáng là một công dân trong một đất nước và
xã hội tiến bộ, văn minh. Các giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị Việt Nam
được biểu hiện như sau:
Chủ nghĩa yêu nước, ý thức dân tộc: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
phát triển qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, từ thời vua Hùng dựng nước cho
đến ngày nay. Trong mỗi giai đoạn, tư tưởng yêu nước lại có những biểu hiện
khác nhau do tính lịch sử quy định. Thời kỳ trung đại, yêu nước là “trung
quân, ái quốc”, nhưng đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, yêu nước lại


9

mang một ý nghĩa khác, đó là yêu nhân dân, yêu dân tộc; “trung với nước,
hiếu với dân”. Chủ nghĩa u nước biểu hiện ở việc ln đặt lợi ích của tổ
quốc lên trên, sẵn sàng hy sịnh vì độc lập của tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước

Việt Nam còn được tâm linh hóa thành một thứ tín ngưỡng. Lịng u nước
khơng đơn giản là một thứ tình cảm thuần túy, mà nó có thể trở thành thứ mọi
người thờ phụng. Nhiều gia đình Việt Nam ở vùng nơng thơn hiện vẫn còn
lập bàn thờ Tổ quốc với lá cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
phía trên bàn thờ tổ tiên. Hệ thống thành hồng làng ở các tỉnh khu vực đồng
bằng Bắc Bộ chủ yếu thờ phụng các nhân vật lịch sử, những người khi cịn
sống đã có cơng với dân, với nước. Lịng yêu nước trở thành dòng chủ lưu
xuyên suốt trong lịch sử hằng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Tính cộng đồng: Tính cộng đồng bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước.
Tính cộng đồng đã góp phần củng cố khối đồn kết dân tộc. Tinh thần cộng
đồng được hình thành do tác động của quá trình sản xuất. Lịch sử đã chứng
minh, ngay từ khi thành lập nhà nước Văn Lang, điều kiện quan trọng nhất để
nhà nước đó hình thành là công cuộc đắp đê ngăn lũ để sản xuất, chứ khơng
phải do phân hóa xã hội. Chính cơng cuộc đắp đê địi hỏi phải có sự cố kết
của cộng đồng. Tinh thần cộng đồng của người Việt được còn được thể hiện
rõ nét qua trục: Nhà - Làng - Nước. Tuy nhiên, trong làng, quan hệ huyết
thống vẫn giữ vai trò quan trọng. Nước là yếu tố bao trùm cả nhà và làng.
Làng là thành trì chống ngoại xâm từ phương Bắc xuống, cưỡng lại sự đồng
hóa của Trung Quốc, cố thủ tinh thần dân tộc. Hơn nữa, chính các cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm cũng góp phần củng cố tính cộng đồng của người
Việt. Đứng trước kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần thì chỉ có tinh thần
đồn kết, tính cộng đồng mới có thể giúp người Việt tạo nên sức mạnh chiến
thắng kẻ thù. Để duy trì tính cộng đồng và sự đồn kết thống nhất, người Việt
Nam có một chuẩn mực xã hội truyền thống là quyền lợi cá nhân phải phục
tùng quyền lợi của cộng đồng, quyền lợi của các cộng đồng nhỏ phải phục
tùng quyền lợi của cộng đồng lớn, quyền lợi của cả dân tộc.


10


Trọng lão: Trọng lão trở thành một chuẩn mực quan trọng trong các ứng
xử xã hội nói chung và trong ứng xử chính trị nói riêng được thể hiện trong
suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Trong một cộng đồng, người lớn tuổi, người
già luôn được tôn trọng. Từ hành động triệu tập Hội nghị Diên Hồng của vua
Trần để hỏi ý kiến các bơ lão về việc có đánh quân Nguyên Mông hay không,
cho tới các ứng xử mang tính cá nhân, đều cho thấy văn hóa trọng lão được đề
cao.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước
sau năm 1975 là sự nghiệp khó khăn, mới mẻ. Cùng với xây dựng, củng cố chế
độ chính trị, xây dựng, phát triển kinh tế phải tạo dựng những giá trị văn hóa.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trong đó có kháng chiến về văn hóa,
chống văn hóa thực dân, phản động, xây dựng nền văn hóa cách mạng, yêu
nước mang tính dân tộc, dân chủ, khoa học và tiến bộ. Mặt trận văn hóa tạo nên
sức mạnh chính trị, tinh thần, tư tưởng to lớn cùng với sức mạnh chính trị, quân
sự, kinh tế trong chiến lược tổng hợp để chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất
và tàn bạo nhất, văn hóa, văn minh Việt Nam chiến thắng bạo tàn.
Từ những đặc trưng trên cho thấy, trong cơng cuộc đổi mới hiện nay,
văn hóa chính trị càng cần được đề cao, nhất là đối với những nhà hoạt động
chính trị, bởi vì họ chính là tấm gương học tập, là biểu tượng của một nền văn
hóa chính trị hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam hiện nay. Năm
1986, Đảng ta kế thừa và phát triển quan điểm về văn hóa của các giai đoạn
trước, đưa ra quan điểm: Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người,
thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần,
tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống. Xây dựng và phát triển
văn hóa khơng phải là một vấn đề riêng, nó liên quan mật thiết với sự nghiệp
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa



11

đất nước. Ngay từ Đại hội V, Đảng ta đã yêu cầu “Ngoài số đầu tư của Nhà
nước, cần động viên khả năng của nhân dân, của các cơ sở, các đồn thể và sử
dụng tốt quỹ phúc lợi xí nghiệp để phát triển sự nghiệp văn hóa”5.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh, trong đó phải giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa,
bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản
Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi
hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa
phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn
hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt
để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển các ngành cơng nghiệp văn
hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa… Như vậy, văn hóa không phải là
kết quả thụ động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam
thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết
của các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống
nhất ở việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
việc xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện
vọng chung của cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6/1991) đã xác định nền văn hóa
5


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1982, tr.69.


12

tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nhắc lại lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định văn hóa là một mặt
căn bản của xã hội. Người chỉ rõ trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Văn hóa là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa”6. Đồng thời, khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những
giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong
quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của
nhiều nền văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt
Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử
vẻ vang của dân tộc”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đến Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô
đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng; là một trong sáu
đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) khẳng định “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần

sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ
và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” 7. Nghị quyết Trung ương 9
6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.9.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.75,
76.


13

(khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nhấn mạnh: Xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Tiếp tục phát triển các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại
hội XII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Như vậy, quan niệm
của Đảng ta về văn hóa cũng khẳng định: Văn hóa là tổng thể những giá trị vật

chất và tinh thần, nhưng đồng thời khẳng định vai trị của văn hóa là nhu cầu
thiết yếu của đời sống con người, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá
trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống, là nền tảng tinh thần của xã hội, sức
mạnh nội sinh, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”8. Đồng thời chỉ rõ vị trí của văn hóa, văn
hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.126.


14

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong xây dựng, phát triển nền văn
hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc cũng còn những hạn chế bất cập. Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã chỉ rõ những mặt yếu kém mà
nổi lên trước hết là ở nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống. “Một số
người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa… Khơng ít người
cịn mơ hồ, bàng quang hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch,
xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta… Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức,
lối sống ở một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có
chức, có quyền”9. Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ ra nhiều hạn chế, yếu kém
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; văn học, nghệ thuật; về thơng tin đại chúng;
giao lưu văn hóa; xây dựng thể chế văn hóa…

Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI cũng nhận định: Lĩnh vực văn hóa
cịn nhiều vấn đề bức xúc, chậm được giải quyết. Đặc biệt là việc xây dựng
nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thối, xuống
cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại,
nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa cịn nhiều sơ hở, yếu kém.
Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn
nhiều khuyết điểm, bất cập. Q trình tồn cầu hóa cũng là nguy cơ làm mai
một bản sắc văn hóa dân tộc. Sự suy thối về phẩm chất, đạo đức, lối sống
tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại khơng
nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.Việc xây dựng
và phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt...10.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ ra những yếu kém, hạn chế ở
lĩnh vực văn hóa như: “Chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính
trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền
vững đất nước.”11. Đồng thời chỉ rõ “Vai trị của văn hóa trong xây dựng con
người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng
giải trí đơn thuần...mơi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ơ nhiễm bởi các tệ
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.9.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.169.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011,
tr.84


15


nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các
vùng, miền cịn lón; đời sơng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn... Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn,
đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống,
gây bức xúc xã hội”12. Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước cũng chỉ rõ:
“Việc xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chưa đạt được
mục tiêu đề ra. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Mơi trường
văn hố có những mặt chưa thực sự lành mạnh. Việc bảo tồn, phát huy giá trị
di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao”13.
II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HĨA
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Định hướng xây dựng văn hóa chính trị ở Việt
Nam hiện nay
Qua 35 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử. 35 năm mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, một q trình
cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để mọi lĩnh vực của đời sống.
Đại hội XII, Đảng ta xác định phải bảo đảm tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế nổi bật ở xây dựng và phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó phải là nền kinh tế
thị trường hiện đại, vận động theo quy luật của thị trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh trong hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế. Động lực và phương
thức căn bản để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, văn
minh là khoa học - công nghệ, là nguồn nhân lực chất lượng cao, đó là vốn
12


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011,
tr.84.
13
Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW,
ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.


16

người, thành phần quan trọng bậc nhất của vốn xã hội. Đó phải là nền kinh tế
giải quyết hài hịa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, các hoạt
động sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ luật pháp của Nhà nước, làm giàu
hợp pháp, chính đáng được khuyến khích và bảo vệ.
Nguyên lý của nhà nước pháp quyền hết sức rõ ràng, minh định: mọi
công dân được phép làm tất cả những gì mà luật pháp không cấm, nhưng
những người đang giữ chức quyền trong các cơ quan cơng quyền thì khơng
được làm những gì mà luật pháp không cho phép. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải do Đảng lãnh đạo và được quản lý bởi
Nhà nước pháp quyền theo tinh thần thượng tơn pháp luật. Đó là định hướng
chính trị đối với sự phát triển kinh tế thị trường.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị nghĩ rộng cũng là văn hóa và văn
hóa nghĩ sâu cũng là chính trị. Như vậy, văn hóa khơng ở bên ngồi mà ở
trong kinh tế và chính trị. Do đó, bảo đảm tốt định hướng chính trị đối với sự
phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa là đem văn hóa chính trị thâm nhập
vào kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người với thước đo
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, tốc độ tăng trưởng
phải gắn liền với chất lượng tăng trưởng. Chất lượng ấy không chỉ là kinh tế
mà cịn là văn hóa, văn hóa trong kinh tế và kinh tế trong văn hóa. Phát triển

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không những là mục tiêu và
kết quả của đổi mới kinh tế mà còn xác lập nền tảng kinh tế, cơ sở vật chất,
kinh tế cho đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta. Đổi mới hệ
thống chính trị khơng những bảo đảm cho tổ chức và hoạt động chính trị
tương thích, phù hợp, đồng bộ với đổi mới kinh tế mà cịn làm cho chính trị
đóng vai trò động lực thúc đẩy đổi mới kinh tế.
Để làm cho hệ thống chính trị thể hiện được các đặc trưng đó, nhờ đó mà
phát huy được tác dụng, có sức lơi cuốn sự chú ý, sự tham gia của nhân dân, có
sức hấp dẫn và lan tỏa đối với quần chúng đoàn viên, hội viên các tổ chức, đoàn


17

thể trong hệ thống chính trị thì phải tìm được cách thức đưa văn hóa vào hệ
thống chính trị, làm cho hệ thống chính trị thấm nhuần các chuẩn mực văn hóa,
nói cách khác phải xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, tiêu biểu và tập
trung nhất là văn hóa chính trị. Đây là nội dung chính yếu, nổi bật nhất về văn
hóa cần phải xây dựng trong q trình đổi mới hệ thống chính trị từ văn hóa của
Đảng Cộng sản cầm quyền, văn hóa trong Đảng, ở từng tổ chức đảng, từng cấp
ủy và người đứng đầu cấp ủy các cấp cho đến văn hóa của mỗi cán bộ, đảng
viên.
Văn hóa chính trị cần được xây dựng trong Nhà nước, trong hệ thống
chính quyền các cấp, rõ nhất là văn hóa pháp luật, là đạo đức công chức và kỷ
luật công vụ. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức phải vừa là tấm gương đạo
đức, vừa là hiện thân của nền nếp, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động cơng
quyền. Văn hóa chính trị cũng phải thể hiện trong hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam với tư cách là liên minh chính trị, xã hội rộng rãi nhất, linh hồn
của đại đoàn kết dân tộc, hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, là
một trong những kênh xã hội rộng rãi, quan trọng nhất để nhân dân thực hiện
vai trò của mình trong tham chính, trong xây dựng chính thể (xây dựng Đảng,

xây dựng chính quyền), trong kiểm sốt quyền lực, trong giám sát và phản biện
xã hội. Các tổ chức, đoàn thể của nhân dân, do nhân dân lập ra cũng vậy, cũng
thể hiện văn hóa chính trị của mình trong các hoạt động, các lĩnh vực công tác
đặc thù.
Thước đo hiệu quả, tác dụng của hệ thống chính trị là những thước đo
văn hóa và văn hóa chính trị. Đó là: Thực hành dân chủ rộng rãi, phổ biến và
thực chất; củng cố đoàn kết, tạo dựng sự đồng thuận; giảm thiểu và đẩy lùi
quan liêu, tham nhũng; xác lập ổn định chính trị, xã hội tích cực, bền vững để
thúc đẩy đổi mới. Mức độ hài lòng của người dân, niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chế độ được tăng tiến là kết quả tổng hợp từ những tác
động văn hóa đó. Để đạt được những thước đo đó, phải rất cơng phu, bền bỉ,


18

sáng tạo trong đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng văn hóa và văn hóa chính
trị trong từng tổ chức và trong cả hệ thống. Sự gương mẫu của cá nhân và tổ
chức lãnh đạo (Đảng), quản lý (Nhà nước) và tự quản lý (ở các cộng đồng cơ
sở, để người dân thực hiện quy chế và pháp lệnh dân chủ ở cơ sở) có tác dụng
tập hợp, lơi cuốn, thúc đẩy đối với toàn dân và xã hội. Đảng ta là đạo đức, là
văn minh, là hiện thân của văn hóa. Từ đó có thể thấy, đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta, trong đó có đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đây là nội dung cốt yếu,
quan trọng và quyết định nhất đối với thành công của đổi mới hệ thống chính
trị và tồn bộ sự nghiệp đổi mới nói chung, đồng thời là q trình xây dựng văn
hóa, bảo đảm cho văn hóa tham dự vào đời sống chính trị như một tác nhân sâu
xa, mạnh mẽ và bền bỉ nhất để chính trị trở thành văn hóa chính trị. Theo đó,
văn hóa chẳng những là mục tiêu mà còn là động lực của phát triển.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước đã nêu lên những quan điểm cơ bản là:

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh
tế, chính trị, xã hội.
Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các
đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Thứ ba, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Thứ tư, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai
trị của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần
chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.


19

Thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí
thức giữ vai trị quan trọng.
Xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta về thực chất là làm cho hệ thống
chính trị phát triển và trưởng thành từ nhân tố nội sinh là văn hóa, là văn hóa
chính trị, với tác động của khoa học hóa, dân chủ hóa, nhân văn hóa chính trị.
Từ những phân tích, luận giải đó, việc xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta
thời gian tới cần bảo đảm tốt một số định hướng sau:
Một là, xây dựng văn hóa chính trị trở thành một bộ phận không tách
rời của chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta. Trong đó đặc
biệt quan tâm xây dựng, bồi dưỡng và phát triển các yếu tố về tư tưởng, đạo
đức, lối sống và đời sống văn hóa tinh thần.
Hai là, hồn thiện các chuẩn mực, giá trị văn hóa và con người, tạo môi

trường và điều kiện để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, lương tâm và trách nhiệm
với đất nước, cộng đồng, gia đình và bản thân.
Ba là, xây dựng văn hóa chính trị gắn với giáo dục quan điểm của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giáo dục ý thức chính trị, tình
cảm và đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ học vấn và dân trí để quần
chúng tham gia vào đời sống chính trị.
Bốn là, hồn thiện thể chế pháp lý và văn hóa đảm bảo xây dựng và
phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ hội nhập. Những nội dung cơ bản
của Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước. Trong đó nhấn mạnh, chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước,
thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế
về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh
hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế,


20

chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia
và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngồi.
2. Giải pháp xây dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam
hiện nay
Theo Giáo sư Hồng Chí Bảo, xây dựng văn hóa chính trị, làm cho văn
hóa thấm sâu vào chính trị, nhờ đó chính trị được văn hóa hóa. Do đó, cần phải
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế
- xã hội, trong tổ chức và hoạt động chính trị, cả trong lãnh đạo và cầm quyền
của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, kiểm tra, giám sát quyền lực của
nhân dân và tham gia đời sống chính trị của các cán bộ và công chức, của công
dân và mọi người dân với vị thế, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm khác nhau,

phù hợp với từng đối tượng. Để xây dựng văn hóa trong chính trị một cách đúng
đắn, thiết thực, cần tận dụng được sức mạnh ưu thế của văn hóa để thúc đẩy dân
chủ hóa chính trị, thực hiện đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị. Để giải quyết
những vấn đề bất cập đang đặt ra đối với văn hóa chính trị và hướng tới bồi đắp
các giá trị chính trị tốt đẹp của Đảng và của dân tộc; xây dựng văn hóa chính trị
ở Việt Nam thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về văn hóa và xây dựng văn hóa trong chính
trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức, nhất là cho cán bộ lãnh đạo, quản lý
Nâng cao nhận thức về văn hóa và xây dựng văn hóa trong chính trị cho
đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức, nhất là cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong đó cần chú trọng vai trị của tư tưởng, lý luận, của ý thức hệ trong xã
hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của
Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng. Đây là quan điểm nhất quán,
cần thường xuyên củng cố sự thống nhất nhận thức trong Đảng và trong xã hội
về vấn đề hệ trọng này. Thấm nhuần các quan điểm của Đảng về xây dựng văn
hóa theo các đặc trưng dân tộc - nhân văn - dân chủ và khoa học, xây dựng con
người để phát triển văn hóa và phát triển văn hóa để hồn thiện nhân cách.



×