Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả và vận dụng trong xây dựng nhà nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.1 KB, 28 trang )

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1

KHÁI LƯỢC Q TRÌNH HỒ CHÍ MINH KHẢO

1

2

NGHIỆM VÀ LỰA CHỌN MƠ HÌNH NHÀ NƯỚC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ

3

NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, HOẠT
2.1
2.2
3

3.1

3.2

ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ
Quản lý đất nước bằng “pháp trị” và “đức trị”
Xây dựng nhà nước vững mạnh
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG
MẠNH, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ TRONG


GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
Giai đoạn lịch sử mới và yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
9
15

15

20

25
26

MỞ ĐẦU
Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đạt được những thành


2
tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, trong đó có thành tựu xây dựng nhà nước trên nhiều
phương diện, thể hiện rõ bản chất của một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất

là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc,
biết dựa vào dân, thể hiện việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”1. Nhà nước cũng tích cực đấu tranh chống tệ nạn xã hội, xử lý
nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận bằng bộ máy nhà nước ta chưa
thực sự trong sạch, vững mạnh; nạn tham nhũng, quan liêu cửa quyền sách nhiễu
nhân dân; tình trạng mất dân chủ ở cơ sở còn xảy ra ở nhiều nơi đang gây bức
xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội được
những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong đó có vấn đề về nhà nước. Với một tư duy sắc bén, một sự mẫn cảm chính
trị tuyệt vời, Hồ Chí Minh nhanh chóng nhận ra chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp
với đặc điểm lịch sử, văn hoá và xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam nhất
định phải đi theo con đường cách mạng vô sản; tập hợp và phát huy sức mạnh
của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản; đập tan bộ máy nhà
nước thực dân phong kiến, giành lấy quyền lực nhà nước; các quyền dân chủ
khác trao về tay “dân chúng số nhiều”, và xây dựng một chế độ xã hội mới
mang lại hành phúc cho mọi người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước là một tài sản quý giá trong
di sản tư tưởng mà Người kế thừa từ tinh hoa văn hoá nhân loại, nhất là các
nước tư bản hàng đầu thế giới và các nước Phương Đông để lại cho chúng ta,
chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với
công cuộc đổi mới nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
nói riêng. Tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
Đảng Cộng sản Việt Nam ng Cộng sản Việt Nam ng sảng Cộng sản Việt Nam n Việt Nam t Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,n kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,n Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,i hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,i đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,i biểu toàn quốc lần thứ XIII,u toàn quốc lần thứ XIII,n quốc lần thứ XIII,c lần thứ XIII,n thứ XIII, XIII, tập 2, Nxb.p 2, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 248 quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 248c gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 248 thập 2, Nxb.t, Hà Nội, 2021, tr. 248 Nộng sản Việt Nam i, 2021, tr. 248
1


3

hoạt động có hiệu quả như ngọn đuốc soi đường cho chúng ta, góp phần đẩy
nhanh cơng cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Vì những lý do như trên, tôi chọn chủ đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả và vận
dụng trong xây dựng Nhà nước ta hiện nay” làm nội dung Tiểu luận tốt
nghiệp thuộc Chương trình Hồn chỉnh cao cấp Lý luận chính trị.

NỘI DUNG
1. Khái lược q trình Hồ Chí Minh khảo nghiệm và lựa chọn mơ
hình nhà nước
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc lịch
sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của các triều đại Việt Nam, nghiên
cứu những kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được thể hiện trong các
bộ sử lớn của dân tộc: Đại việt sử ký toàn thư; Lịch triều hiến chương loại chí;
trong những bộ luật nổi tiếng như Hình như (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời
Trần), Bộ luật Hồng Đức (đời Lê). Đó là những cơng trình phản ánh tư tưởng
pháp quyền của nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử dân tộc ta.
Những yếu tố lịch sử của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng
thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà nước “nước lấy
dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo là những hành trang đầu tiên Hồ Chí
Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà nước
tiến bộ cho đất nước sau khi giành được độc lập.
Trên hành trình cứu nước, Người đã khảo sát mơ hình nhà nước tư sản Mỹ,
Pháp. Người đã phát hiện ra rằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tuyên Ngôn độc lập của


4
Mỹ 1776 là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và sự tàn bạo, bất

công khác, nhất là đối với người da đen. Người coi đó là “những cuộc cách mạng
khơng đến nơi”, vì ở đó, chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người vì “cách
mệnh thành cơng đã hơn 150 năm nay, nhưng cơng nơng vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo
tính cách mệnh lẫn thứ hai”1. Từ đó Người kết luận: Giai cấp tư sản đã lợi dụng sức
mạnh của nhân dân, mị dân bằng những lời hoa mỹ để lôi kéo nhân dân vào cuộc
đấu tranh chống chế độ phong kiến. Khi giành được chính quyền, thiết lập được bộ
máy nhà nước tư sản thì giai cấp tư sản quay lại đàn áp, bóc lột nhân dân, khơng
thực hiện chính những điều mà họ đã khẳng định trong Tuyên ngôn. Quyền lực nhà
nước khơng thuộc về nhân dân, do đó quyền lợi chính đáng của dân khơng được
thực hiện. Như vậy, nhà nước dù được tổ chức dưới bất kỳ hình thức nào (cộng hòa
dân chủ hay cộng hòa đại nghị... nhà vua hay tổng thống...) mà mang bản chất tư
sản thì khơng bao giờ đem lại cho nhân dân lao động cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc. Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam không thể đi theo khuynh
hướng dân chủ tư sản, nhà nước của Việt Nam sau khi giành được độc lập, không
mang bản chất tư sản.
Sau khi đến Liên Xơ, Người đã tìm thấy một mơ hình nhà nước kiểu mới
“phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, ra sức tổ chức kinh tế
mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”2. Mơ hình nhà nước đó đã gợi ý cho
Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
Hồ Chí Minh đã xây dựng các mơ hình nhà nước trong các thời kỳ cách
mạng Việt Nam phù hợp với điều kiện khách quan và phục vụ cho chiến lược
cách mạng.
Đầu tiên là mơ hình Xơviết được Người nêu ra trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng năm 1930: “dựng ra chính phủ cơng nông binh” (ý tưởng về nhà
nước công nông binh). Và mơ hình nhà nước này trong thực tế được thiết lập ở
một số địa phương (Nghệ An, Hà Tĩnh) trong cao trào cách mạng 1930 - 1931.
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 270

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 280


5
Chính quyền Xơviết ở các nơi này tồn tại khơng lâu. Hình thức chính quyền
Xơviết chưa thật phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam.
Tiếp theo là mơ hình nhà nước dân chủ cộng hịa: Hồ Chí Minh và Đảng
ta nhận diện, phân loại mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
trong xã hội Việt Nam khi đó và đề ra chủ trương thích hợp giải quyết từng loại
mâu thuẫn (mâu thuẫn đối kháng: giải quyết triệt để; mâu thuẫn nội bộ: giải
quyết có lý, có tình). Do vậy, có sự chuyển về mơ hình nhà nước như Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941) đề ra: khơng nên nói cơng
nơng liên hiệp và lập chính quyền Xơ-viết mà phải nói tồn thể nhân dân liên
hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hịa. Trong Thư gửi đồng bào tồn quốc
(10/1944), Hồ Chí Minh nói rõ: trước hết cần có một chính phủ đại biểu cho sự
chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của tồn thể quốc dân, gồm tất cả các
đảng phái cách mạng, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra, “một cơ cấu
như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo cơng việc cứu quốc, kiến
quốc, ngồi thì giao thiệp với các hữu bang”1. Kiểu nhà nước này thực tế đã hình
thành trong khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, được Hồ Chí Minh khai
sinh ngày 2/9/1945 - là nhà nước hiện nay chúng ta đang tiếp tục xây dựng.
Như vậy từ mô hình nhà nước cơng nơng binh chuyển sang mơ hình nhà
nước dân chủ cộng hòa - đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân do quốc dân đại hội bầu ra - là một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh,
của Đảng ta, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự
chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Hai mươi bốn năm trên cương vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam
mới, Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây dựng một nhà nước kiểu mới
trong lịch sử dân tộc: nhà nước mang tính chất nhân dân - nhà nước của dân, do
dân, vì dân; một nhà nước thể hiện quyền lực của nhân dân lao động.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững

mạnh, hoạt động có hiệu quả
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 505


6
2.1. Quản lý đất nước bằng “pháp trị” và “đức trị”.
2.1.1. Tăng cường pháp luật
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp
đầu tiên của Chính phủ (3-9-1945), trong 6 nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra nhiệm vụ thứ ba là “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tơi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ
phổ thông đầu phiếu”1 để sớm có một Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển
cử. Ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh 34 thành lập Ủy ban dự thảo hiến pháp
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Chính phủ
liên hiệp kháng chiến được Quốc hội họp phiên đầu tiên ngày 2-3-1946 bầu ra là
Chính phủ hợp hiến đầu tiên có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết
mọi vấn đề đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, Việt Nam từ một nền văn hóa nơng
nghiệp, trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế và hàng
trăm năm dưới chế độ thực dân cũng không kém phần chuyên chế, chúng ta
không thể đi nhanh tới việc xác lập một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên phải
nhấn mạnh tới vai trò của pháp luật trong quản lý điều hành đất nước và phải có
những hoạt động tích cực, kịp thời để từng bước hồn thiện hệ thống pháp luật.
Nói tới pháp luật của chế độ mới dân chủ cộng hòa là phải gắn với dân chủ, hai
nội dung đó nương tựa vào nhau. Pháp luật là bệ đỡ của dân chủ và khơng thể có
dân chủ ngồi pháp luật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi quyền dân chủ phải
được thể chế hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm cho quyền tự do dân chủ

được thực thi trong thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có cơng lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và
lập pháp. Nhưng điều quan trọng hơn là Người tập trung chỉ đạo đưa pháp luật vào
cuộc sống, làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế, tạo cơ chế bảo đảm cho
pháp luật được thi hành. Đối với một nước dân chủ, Hồ Chí Minh quan tâm tới
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 7


7
năng lực làm chủ của người dân. Trước đây, dưới chế độ cũ, bọn thực dân phong
kiến tìm cách làm cho dân ngu để dễ trị. Trong chế độ mới, Hồ Chí Minh quan tâm
giáo dục lại nhân dân, nâng cao dân trí, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền
dân chủ, biết dựng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Pháp luật chỉ có
hiệu lực trong thực tế khi nhân dân có những hiểu biết nhất định về văn hóa, chính
trị, về pháp luật, về quyền cơng dân. Người dân chỉ có thể “dám mở mồm ra” - như
cách nói của Bác Hồ - khi có những hiểu biết nhất định về pháp luật.
Tư tưởng “pháp trị” của Hồ Chí Minh đặc biệt thể hiện nổi bật ở việc bảo
đảm tính khoa học, hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật. Hơn hai tháng sau
khi tuyên bố độc lập, ngày 23- 11-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64-SL về
việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Tồ án đặc biệt có nhiệm vụ giám
sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ trong các uỷ ban nhân dân các
cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền (các Bộ).
Bốn ngày sau khi ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và Tồ án
đặc biệt, Hồ Chí Minh lại ký tiếp Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối
lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối
lộ. Cuối năm đó, khi giao cho đồng chí Lê Giản phụ trách ngành Cơng an (Ty
Liêm phóng), Người đã dặn rằng: Chú phụ trách ngành này là phải “thiết diện
vô tư”, tức là mặt sắt không thiên vị. Nếu chú khơng “thiết diện vơ tư” thì Bác

sẽ “thiết diện vô tư” đối với chú.
Như vậy, chỉ trong vòng 3-4 tháng sau ngày tuyên bố nước Việt Nam độc
lập, Hồ Chí Minh đã tập trung cao độ cho việc xây dựng bộ máy, trong đó có
khía cạnh pháp luật chống tham nhũng, một trong những vấn đề lớn liên quan
tới sự sống còn của chế độ mới. Ngay cả khi nói về Đảng, gắn vấn đề pháp luật
chống tham nhũng, Người khẳng định: “nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân
tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hồn tồn độc
lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản
quốc và những kẻ tham ơ ra ngồi”1. Trong trường hợp này, Chủ tịch Hồ Chí
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187


8
Minh đã đặt ngang hàng kẻ tham ô với kẻ phản quốc. Và hai tội danh này đều
xếp vào khung hình phạt tử hình theo Quốc lệnh 10 điều thưởng và 10 điều phạt
ngày 26-1-1946 do Hồ Chí Minh ký.
Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Hồ Chí Minh trăn trở với vận
nước, với “nền dân chủ mới chưa hoàn toàn”. Năm tháng sau khi tranh được
quyền độc lập, Hồ Chí Minh đã có bài “tự phê bình” trên báo Cứu quốc số 153,
ngày 28-1-1946. Sau khi khẳng định Chính phủ có làm được một số việc, Hồ
Chí Minh đau lòng thừa nhận rằng “tuy nhiều người trong ban hành chính làm
việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét sạch”. Đây là
lần đầu tiên trong chế độ mới, Hồ Chí Minh dựng hai từ “nhũng lạm” với nghĩa
lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Người lạm dụng quyền lực thì trước hết
phải có quyền lực. Vậy thì ai là những người có quyền lực? Theo Hồ Chí Minh,
đó chỉ có thể là những người làm việc trong các công sở, cán bộ các cơ quan,
các đoàn thể. Và quyền lực ở đây được đặt trong mối tương quan giữa cán bộ
công chức với nhân dân. Người dân khơng thể có quyền hành, quyền lực; chỉ có

cán bộ cơng chức mới có quyền hành, quyền lực. Người viết: “Những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu khơng giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Sau này
Người lại viết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì
quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”.
Trong năm 1946, những chuyện về ăn hối lộ, tham nhũng trong Chính
phủ đã được Quốc hội nước ta lúc bấy giờ hết sức quan tâm. Đặc biệt là sau vụ
Chu Bỏ Phượng, Bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến, là
đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, thành viên trong đồn Chính phủ ta dự
Hội nghị Fontainbleau, bị các nhà chức trách Pháp bắt được vì mang vàng đi
bn. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khó I (11-1946), có đại biểu Quốc hội đã chất
vấn Chính phủ về vụ việc này. Thay mặt Chính phủ, Bác Hồ đã trả lời thẳng
thắn rằng, “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong chính


9
phủ, từ Hồ chí Minh đến những người làm việc ở các uỷ ban làng, đông lắm,
phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương
khơng xong, thì sẽ dựng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và
sẽ trị cho kỳ hết”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nghiêm minh của pháp luật
thật rõ ràng, dứt khốt: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất
kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Trong kháng chiến chống Pháp (91950), Bác Hồ – dự rất đau lòng – vẫn đã y án tử hình Trần Dụ Châu, Đại tá,
Cục trưởng Cục quân nhu, phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn, bớt xén phần
cơm áo của bộ đội để sống trác táng, trụy lạc. Người tâm sự với Trần Đăng Ninh
trước khi ký bác đơn chống án của Trần Dụ Châu: “Với loài sâu mọt đục khét
nhân dân, nếu phải giết đi một con mà cứu được cả rừng cây, thì việc đó là cần
thiết, hơn nữa là nhân đạo” .
Để bảo đảm nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh, với tư tưởng ‘tìm người
tài đức”, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới

việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức vừa “hồng” vừa “chuyên”. “Hồng” ở đây
là nói tới phẩm chất đạo đức của người cán bộ công chức, mà hàng đầu và xuyên
suốt là ý thức và tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Còn
“chuyên’ là nói tới năng lực thực tế của cơng chức Việt Nam nói chung và năng lực
trong việc giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước nói riêng với tinh thần
“làm nghề gì cũng phải học” và “làm nghề gì phải giỏi nghề đó”.
2.1.2. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức
Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng
điều tiết mọi hành vi thì đâu chỉ có luật pháp. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả
“đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi cơng việc phải vừa có lý, vừa có tình, ngay cả
trong việc căn dặn hậu thế giải quyết sự bất đồng trong phong trào cộng sản và
cơng nhân quốc tế, khơi phục tình đồn kết giữa các đảng cộng sản anh em, ông
cũng nhắc tới điều đó. Để thực thực hiện tốt luật pháp hay để làm tốt bất kỳ việc gì
đi chăng nữa thì trước hết vẫn cần cái đức. Lại có người bày tỏ quan điểm rằng,
tiếp cận sự phát triển phải là từ pháp trị, chứ không theo đức trị; rằng, cái mà theo


10
đức thì xã hội đâu có phát triển, phải theo pháp thì xã hội, cả cổ - kim, đơng - tây,
mới phát triển được. Nhưng tôi thấy, pháp ở đây do con người làm ra, con người tự
quy ước với nhau để hành xử ở đời. Vì vậy, khi nói tới pháp (đúng đắn) thì đã có
yếu tố đức rồi. Ngược lại, khi nói tới hành đức (chân chính) thì đã bao hàm cả chấp
pháp rồi. Bảo rằng, pháp là duy lý, đúng như vậy. Bảo rằng, đức là duy tình (tâm),
khơng sai. Nhưng, có thật 100% vậy khơng? Nói vậy nhưng đâu phải vậy.
Giáo dục nhân dân hiểu biết về pháp luật là cần thiết, vì điều đó tạo ra tính
chủ động của người dân trong thực thi pháp luật. Nhưng cán bộ - nhất là cán bộ
ngành tư pháp - làm gương trong việc tuân thủ pháp luật cũng rất cần thiết. Nói
chung thì đạo làm gương cần thiết trong mọi hoạt động. Bởi vì văn hố phương
Đơng chứa đựng một triết lý “một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài
diễn văn tuyên truyền”1.

Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 2-1948, Hồ Chí Minh viết:
“Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là làm
gương cho dân trong mọi việc… Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp
luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương phụng công, thủ pháp, chí cơng
vơ tư cho nhân dân noi theo”2.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng, mẫu mực trong việc thực thi pháp luật.
Những câu chuyện về việc Người chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông, đèn đỏ
dừng lại, hay đơn giản là tôn trọng quy định của nhà chùa cởi dép khi vào lễ Phật,
… được nhân dân truyền tụng, học tập, có sức giáo dục to lớn cho cán bộ, nhân dân
trong việc thực thi pháp luật.
Hiện nay, trong kỷ ngun tồn cầu hóa, chúng ta phải có tư duy tồn cầu
về một Quốc hội, một Chính phủ thời hội nhập. Vấn đề rộng lớn, nhưng lõi cốt
là tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; Chính phủ phải thật sự là công bộc của dân. Chúng ta coi

1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 284
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 472 – 473


11
việc giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa cơ bản, lâu dài và cấp bách.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế mà pháp luật khơng nghiêm thì phải trả giá
đắt. Chúng ta đã có quá nhiều bài học về vấn đề này do sự kém hiểu biết về pháp
luật (Việt Nam và quốc tế), non kém trong trình độ quản lý, khơng nghiêm và
minh về pháp luật.
2.2. Xây dựng Nhà nước vững mạnh

2.2.1. Kiên quyết chống các bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu trong bộ
máy Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Tham ơ, lãng phí là căn bệnh tứ chứng
nan y của mọi nhà nước. Dù nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản hay nhà
nước xã hội chủ nghĩa... nếu khơng có sự giáo dục sâu sắc và mọi hoạt động của
nhà nước không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh
khỏi tình trạng tham ơ, lãng phí.
Tham ơ là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách để ăn cắp của cơng; lãng
phí là làm tốn kém hao tổn một cách vơ ích. Tham ô là hành động xấu xa nhất
của con người. Nhân dân lao động làm lụng đổ mồ hôi, sôi nước mắt để góp
phần xây dựng của cơng - của Nhà nước và của tập thể. Của công ấy là nền tảng
vật chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời
sống nhân dân ta. Người cho rằng, tham ô là lấy trộm của cơng, chiếm của cơng
làm của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến cơng việc
cải thiện đời sống của nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng. Lãng phí và
tham ơ tuy có khác nhau ở chỗ lãng phí thì khơng trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của
công, nhưng kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước, của tập thể thì cũng có tội.
Đứng về phía cán bộ mà nói tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư; Đục
khoét của nhân dân; Ăn bớt của bộ đội; Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình. Hay


12
nói cách khác, tham ơ, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân
là hành động trộm cắp mà ai cũng phải thù ghét, phải từ bỏ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì lãng phí bao gồm nhiều mặt: Lãng phí sức
lao động, lãng phí thời gian, lãng phí của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên của
nhân dân, của đất nước. Lãng phí có thể do nhiều nguyên nhân: về trình độ non
kém, thiếu kiến thức nghiệp vụ chun mơn, độc đốn đưa ra những quyết định
sai lầm gây tốn kém hàng chục, hàng trăm tỉ đồng công quỹ của Nhà nước hoặc

do chủ ý “ném tiền qua cửa sổ”; coi của công là “của chùa”; ăn uống, biếu xén,
tiêu xài xa hoa lãng phí.
Để nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của bệnh tham ơ, lãng phí, Chủ tịch
Hồ Chí Minh kết luận: “Tham ơ là trộm cướp. Lãng phí tuy khơng lấy của cơng
đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại
hơn nạn tham ô”1.
Chống tham ô, lãng phí là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm và đã trở thành một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa dẫn đến căn bệnh tham ơ, lãng
phí, đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Chủ nghĩa cá nhân như
một thứ vi trùng rất độc, nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại
gian khổ, khó khăn, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tham ơ, hủ hóa,
lãng phí, xa hoa... Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tích tổ
chức, tích kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, khơng chấp hành đúng đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.
Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra tệ nạn tham ơ, lãng phí. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: Có tham ơ, lãng phí là vì bệnh quan liêu. Tham ơ, lãng phí
và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, bộ đội và Chính phủ. Nó là kẻ thù khá
nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng và nằm trong các tổ chức của ta
để làm hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 357


13
của cán bộ ta, phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính... Nó là một
thứ giặc trong lịng, “giặc nội xâm”... Vì vậy: “Chống tham ơ, lãng phí và bệnh
quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là

mặt trận tư tưởng và chính trị”1.
Tham ơ, lãng phí cịn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa và trình độ tổ
chức quản lý nhà nước yếu kém. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc nhở từ lâu. Mỗi người đảng viên, cán bộ từ trên xuống dưới đừng tưởng
mình ở cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi khinh nhân dân, cứ lúc nào
cũng vác mặt “quan cách mệnh”. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi. Họ xa rời
quần chúng và chỉ muốn làm thầy quần chúng. Nói chuyện với cán bộ, đảng
viên, Bác nhắc nhở mọi người phải ghi nhớ và làm theo câu nói của Lê-nin là
“học, học nữa, học mãi”. Cán bộ ở cấp càng cao càng phải học nhiều, học văn
hóa, học chuyên môn, học đạo đức, học cách cư xử và cách sống làm người... Do
trình độ văn hóa, trình độ chun mơn, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, thiếu hiểu
biết thực tiễn, quen chỉ đạo, giáo huấn chung chung lại không chịu rèn luyện tu
dưỡng nên một số cán bộ, đảng viên đã rơi vào tình trạng tham ơ, lãng phí, suy
thối phẩm chất đạo đức... gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Từ những nguyên nhân cơ bản trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những phương thuốc chữa và triệt tận gốc bệnh tham ơ, lãng phí, đó là:
Muốn chống tham ơ, lãng phí, trước hết và quan trọng nhất là phải chống
chủ nghĩa cá nhân. Bác nói: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng có nghĩa
là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường
riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”.
Bác khuyên dạy cán bộ, đảng viên, quân đội... không xâm phạm cái kim
sợi chỉ của dân, lên án những cán bộ, đảng viên nặng đầu óc cá nhân chủ nghĩa,
chỉ biết chăm lo thu vén cho bản thân mình, khơng quan tâm đến lợi ích của tập
thể cộng đồng và của những người xung quanh mình. Phải kiên quyết qt sạch

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 385



14
chủ nghĩa cá nhân trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước thì Đảng mới thực sự
trong sạch và vững mạnh, mới giành được sự tin yêu thực sự của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: cơng khai và mạnh dạn gạt bỏ cho thật
sạch các ung nhọt ấy thì thân thể càng khỏe mạnh. Và: “Mỗi cán bộ, đảng viên
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi
dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” 1. Điều
đó có nghĩa là Đảng phải thực hành kỷ luật nghiêm minh, Nhà nước phải có thể
chế cụ thể, rõ ràng và quan trọng hơn là phải biết dựa vào lực lượng quần chúng
đấu tranh, phê bình, giáo dục và xử lý nghiêm minh những cán bộ đảng viên
mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, tham ơ, lãng phí gây nguy hại cho Đảng, cho Nhà
nước, cho nhân dân.
Muốn chống tham ô, lãng phí phải phát huy quyền làm chủ tối đa của nhân
dân, phải biết dựa vào dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân chủ là thế nào?
Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Uỷ viên này
khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm
quan cách mạng. Thực hiện dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết
mọi khó khăn”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chỉ khi nào toàn thể nhân
dân đều tham gia vào quản lý thì khi ấy mới có thể đã phá tận gốc chủ nghĩa quan
liêu. Trên thực tế, nếu các cơ quan nhà nước thực hiện nghiêm chỉnh và đồng bộ
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cũng là một biện pháp
chống chủ nghĩa quan liêu, chống tham ơ lãng phí một cách tích cực, có hiệu quả.
Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đào tạo và nâng cao trình độ
đội ngũ cán bộ. Hướng tới việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước theo tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: nhà nước đó phải thể hiện và thực hiện trên thực tế
quyền lực của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; thực hiện dân
chủ hóa, cơng khai hóa sự quản lý của nhà nước. Việc hồn thiện bộ máy quản lý
1
2


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 547
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 572


15
gọn, nhẹ, có hiệu lực, bảo đảm cho bộ máy đó phải đi sâu đi sát thực tế, gắn quần
chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Nhìn vào thực tế tình trạng tham ơ, lãng
phí hiện nay, chúng ta càng thấy những lời dạy bảo của Bác là vô cùng sâu sắc
và hết sức quý báu. Chúng ta mong rằng các cơ quan có trách nhiệm của Đảng
và Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn những lời dạy nghiêm túc và chí tình
chí lý của Người về thực hành tiết kiệm và chống tham ơ, lãng phí.
2.2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật hồn chỉnh
Xây dựng chính thể dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã
hội dân chủ để nhân dân là chủ và làm chủ, Hồ Chí Minh đã cơng phu chỉ đạo
xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện luật pháp, chú trọng hành pháp của các cơ quan
Chính phủ, tính cơng bằng, nghiêm minh, quang minh chính đại, thiết diện vơ tư
của ngành tư pháp, kết hợp đức trị với pháp trị, sớm có chủ trương chun
nghiệp hóa và hiện đại hóa cơng chức và nền hành chính cơng vụ, cải cách và
đổi mới thường xuyên tổ chức bộ máy cùng với nội dung, phương thức hoạt
động của hệ thống công quyền, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phép nước theo các
chuẩn mực dân chủ. Tất cả đều vì lợi ích, quyền lực của dân. Một nhà nước
mạnh, có thực lực và thực quyền phải chú trọng vào lập pháp, hành pháp và tư
pháp, đề cao luật pháp dân chủ và tiến bộ, bảo vệ quyền cơ bản của công dân,
đảm bảo tốt dân quyền để thực hiện đầy đủ nhân quyền, không chỉ tôn trọng
quyền sở hữu tài sản của cơng dân mà cịn trọng nhân cách con người. Xây dựng
một nhà nước mạnh thì phải chú trọng sự trong sạch của bộ máy, tính liêm khiết
của cơng chức, phải là một chính phủ hành động, trọng công việc thực tế. Công

chức phải thạo chính trị, giỏi chun mơn, tinh thơng nghiệp vụ, tận tụy, mẫn
cán, hết lòng, hết sức phục vụ dân, tuyệt đối trung thành với chính phủ, kính
trọng, lễ phép với dân chúng. Do đó, trong chính thể dân chủ cộng hòa, địa vị
cao nhất là dân, quyền lực cao nhất cũng là của dân, nhà nước vừa mạnh về luật
pháp, vừa giỏi giang thông suốt trong quản lý, lại phải đảm bảo đạo đức công


16
chức và cơng vụ cũng như văn hóa nơi cơng sở thực sự là văn hóa dân chủ. Hễ
chính phủ khơng cịn xứng đáng với lịng tin cậy của dân thì dân khơng cần đến
nữa, dân đuổi chính phủ đi, tức là bãi nhiệm. Đủ thấy, Hồ Chí Minh chú trọng
pháp quyền nhân nghĩa, chính trị dân chủ, đồn kết và thanh khiết đến thế nào.
Nhân dân làm chủ bằng nhà nước của mình, đó là một kênh chủ yếu và quan
trọng trực tiếp nhất. Từ Quốc dân Đại hội ở Tân Trào lịch sử, trong những ngày
sôi động của Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương
Đảng và Bác Hồ ta đã thấy hình bóng của một nhà nước dân chủ đang định hình.
Từ chính phủ lâm thời, ngay sau lễ Tun ngơn Độc lập đã bắt tay ngay vào
công việc quản lý, làm tất cả để lo cho cuộc sống của dân, tập trung sức chống
giặc đói, chống giặc dốt đi liền với xây dựng chính thể, củng cố nền tảng sức
mạnh là lòng dân để sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập tự do
non trẻ mới ra đời. Từ Chủ tịch Chính phủ đến các vị bộ trưởng, thứ trưởng và
công chức các cơ quan theo lời kêu gọi của Bác Hồ, mười ngày nhịn ăn một bữa
để lấy gạo nuôi dân. Sự kiện này đã đi vào lịch sử như một nét đẹp cao quý của
chế độ dân chủ được lịng dân nhất, cũng vì thế dân hết lịng ủng hộ Chính phủ,
ai ai cũng một lịng, một chí, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, thà hy sinh tất cả
chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Rõ ràng dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa
theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh đã khơi dậy động lực vĩ đại của nhân
dân, của dân tộc, tạo ra sức mạnh đánh bại mọi kẻ thù.
2.2.3. Làm cho hệ thống pháp luật có hiệu lực trong thực tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln chủ trương đề cao việc quản lý nhà nước

bằng công cụ pháp luật. Trước khi có Hiến pháp, Người cho rằng, một xã hội
khơng thể sống một ngày khơng có pháp luật, cho nên Người đã ký Sắc lệnh giữ
lại mọi luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do.
Đồng thời, Người ký một loạt Sắc lệnh cấp bách: Sắc lệnh bảo đảm tự do cá
nhân, Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân, Sắc lệnh tổ chức Tịa án độc lập với hành
chính... Đó là nền tảng trước mắt và lâu dài cho một nhà nước pháp quyền. Tư
tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong hoạt động của


17
Chính phủ, của các cấp chính quyền, của các tổ chức, Người đòi hỏi tất cả mọi
tổ chức và cá nhân phải chấp hành pháp luật, không ai được đứng trên, đứng
ngồi pháp luật. Trong điều kiện có chính quyền người đặc biệt quan tâm, nhắc
nhở đội ngũ cán bộ cơng chức : Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là
có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ cơng vi tư". Thực chất những căn
bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là độc tố phản văn
hóa đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngồi việc giáo
dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị
những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”1.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng (từ 1945-1969), Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất chú trọng việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật và đưa các
văn bản pháp luật vào cuộc sống. Ngồi hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, Hồ
Chí Minh cịn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định cơng bố 16 đạo luật và khoảng
1.300 văn bản dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước.
Ngồi ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng, ban hành, thực thi
pháp luật trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời Người khơng bao giờ
xem nhẹ các hình thức, biện pháp khác, nhất là trong vận động tổ chức quần
chúng, trong việc tuyên truyền giáo dục, việc nêu gương trước quần chúng của
đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là việc giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và đạo đức cách mạng, bởi tác dụng lớn lao của nó đối với hoạt động quản lý

của nhà nước và thực hiện quyền dân chủ của công dân. Cuộc đời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về chấp hành pháp luật, về đạo đức, phong
cách mà chúng ta mãi mãi học tập, noi theo.
3. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.1 Giai đoạn lịch sử mới và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 127


18
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và
diễn biến phức tạp, khó lường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đánh
giá toàn diện, sâu sắc về cục diện và những xu hướng lớn. Cách nhìn nhận biện
chứng cả hai mặt thách thức và cơ hội của tình hình quốc tế được thể hiện trên
một số nét lớn là:
Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt
hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách
thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng
trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm;
các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt
hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa

thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các
nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể
cịn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước
lớn điều chỉnh chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm
thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh
giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu
hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến
chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.


19
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với
mọi quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hịa bình, an ninh con người, thiên tai,
dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến
đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường… tiếp tục diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đơng Nam Á có vị trí
chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường
quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo
diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hịa bình, ổn định, tự do, an ninh,
an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trị quan trọng trong duy trì hịa bình, ổn định,
thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc
tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan
trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với Việt Nam, cơ đồ, vị thế và uy tín tạo dựng được từ quá trình đổi
mới là nền tảng thuận lợi để chúng ta hiện thực hóa khát vọng phát triển đất

nước. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn định. Những kinh nghiệm và
nội lực tích lũy được từ quá trình hội nhập quốc tế thời gian qua sẽ tiếp tục phát
huy giá trị, tạo động lực cho chúng ta trên con đường phát triển.
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu
kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại địch
Covid-19 và khủng hoảng kinh tế tồn cầu gây ra.
Xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa tăng
mạnh; đặc biệt biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp… ngày
càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước.


20
Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra còn tồn tại, có mặt cịn gay gắt hơn. Nguy cơ
tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình cịn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm
đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn
hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát
triển kinh tế thị trường; chưa bảo đảm phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng,
miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế - xã hội đặc
thù. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu
thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường
chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định và thích ứng với
biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối
với nước ta trong thời gian tới.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Ðảng, việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực,
tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt
động của Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà

nước, giảm bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quốc hội được kiện tồn về tổ chức, phương thức hoạt động có nhiều đổi
mới, chất lượng hoạt động được nâng cao. Công tác xây dựng pháp luật được
tăng cường. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự
tốn, quyết tốn ngân sách Nhà nước, các cơng trình trọng điểm quốc gia có chất
lượng và thực chất hơn. Hoạt động giám sát tình hình và kết quả thực hiện các
chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, các dự án, cơng trình trọng điểm



×