Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

sa mạc hóa ở vùng duyên hải nam trung bộ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.18 KB, 14 trang )

SA MẠC HÓA Ở VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
VIỆT NAM
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sa mạc hóa là một hiện tượng thoái hóa đất đai phổ biến hiện nay nó có
phạm vi ảnh hưởng rộng khắp các vùng, các nước và các châu lục. Hiện nay
diện tích đất sa mạc chiếm khoảng 40% bề mặt trái đất, có khoảng 30% diện
tích thế giới bị khô hạn. Hơn 40 năm qua, gần 1/3 đất trồng trọt trên thế giới
bị thoái hóa, không thể sử dụng. Thế giới đã mất khoảng 20.000-50.000 km
2

đất do tình trạng sa mạc hóa.
Còn tại Việt Nam hiện nay đã xuất hiện hiện tượng sa mạc hóa cục bộ ở
các dải cát hẹp trải dài dọc theo bờ biển miền Trung, đặc biệt là tại vùng
duyên hải Nam Trung Bộ từ Quảng Bình đến Bình Thuận là nơi có diện tích
sa mạc hóa lớn nhất cả nước. Khu vục duyên hải Nam Trung Bộ có khí hậu
tương đối khắc nghiệt, ít mưa đồng thời có đường bờ biển dài tập trung một
lượng cát tương đối lớn từ đó nguy cơ bị xâm chiếm bởi sa mạc hóa là rất
cao vì vậy việc tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những giải pháp khắc phục
tình trạng sa mạc hóa là hết sức cần thiết và cấp bách đối với khu vực này.
Từ thực tiễn vấn đề được đặt ra chúng em đã tiến hành tìm hiểu và thực hiện
tiểu luận: “ Sa mạc hóa ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam”
II. NỘI DUNG
1. Tình hình sa mạc hóa tại vùng duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam
Việt Nam hiện có khoảng hơn 9 triệu ha đất đồi núi trọc, đồi cát, trảng cỏ
có liên quan tới sa mạc hóa, chiếm 28% tổng diện tích đất đai trên toàn quốc.
Trong đó, có trên 5 triệu ha đất trống trọc chưa sử dụng, khoảng 2 triệu ha
đất đang được sử dụng nhưng đã bị thoái hóa nặng và 1 triệu ha đang có
nguy cơ thoái hóa cao.Ðất sa mạc hóa (hay hoang mạc hoá) ở Việt Nam
không tập trung thành hoang mạc rộng hàng trăm nghìn ha như một số quốc
gia khác, mà phân bố trên khắp cả nước, tập trung chủ yếu ở khu vực nông
thôn, miền núi, những vùng đất trống, đất cát ven biển và đất nghèo bị suy


thoái. Các hệ sinh thái đất khô cằn rất nhạy cảm với việc khai thác quá mức
và sử dụng đất không hợp lý. Tình trạng nghèo đói, mất ổn định chính trị,
phá rừng, chăn thả quá mức và các hoạt động tưới tiêu nghèo nàn đều đóng
góp vào việc “xây dựng” sa mạc hóa.
Theo điều tra, nghiên cứu của Trung tâm Quy hoạch đất đai (Bộ Tài
nguyên và Môi trường), miền Trung có 12 nhóm đất, 49 loại đất, đất có độ
phì thấp, phần lớn diện tích là đất dốc (khoảng 80%) và đất có vấn đề như
mặn, phèn, xám bạc. Ở khu vực này đã xuất hiện đất thoái hóa diện tích khá
lớn, trong đó có đất xói mòn trơ sỏi đá nguy cơ sa mạc hóa cao. Qua nghiên
cứu của các nhà khoa học Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp duyên hải
Nam Trung bộ, tình trạng thoái hóa đất và hoang mạc hóa tại vùng duyên hải
Nam Trung bộ đang ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Trong tổng số khoảng hơn 852.000 ha đất trống, đồi núi trọc và
hoang hóa của vùng duyên hải Nam Trung bộ thì diện tích đất đã và đang
chịu tác động mạnh bởi hoang mạc hóa vào khoảng 45%. Duyên hải miền
Trung có hiện tượng hoang mạc hóa xảy ra mạnh. Diện tích hoang mạc hóa
ở Ninh Thuận đã lên gần 90.000ha, Bình Thuận là 81.000ha chiếm 23,6 và
11,3% diện tích ở tỉnh. Tại Quảng Ngãi, hoang mạc hóa đã bùng ra hơn
122ha, Bình Định là 786ha.
Hàng trục triệu người ở miền Trung và đồng bào dân tộc ở miền núi đang
phải chịu những hậu quả nặng nề do hiện tượng sa mạc hóa và suy thoái đất
gây nên. Trong suốt 10 năm qua, các tỉnh trong khu vực luôn bị hạn hán đe
dọa và chỉ trong năm 1998 có khoảng 203.000 người bị thiếu nước ngọt.
Vùng khô hạn thường xuyên tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và phía
Nam tỉnh Khánh Hòa có diện tích 200.000 - 300.000ha với lượng mưa hàng
năm trung bình chỉ 500-700mm, khí hậu nắng nóng đã tạo thành vùng đất
bán sa mạc, vùng cát vàng khô hạn với những trảng cây bụi thưa có gai rất
khó phát triển sản xuất.
Vùng duyên hải Nam Trung bộ cũng đã hình thành những dải cồn cát kéo
dài khá liên tục từ Đà Nẵng đến Bình Thuận góp phần gây nên sa mạc hóa,

nhất là phân bố ở các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, nhưng điển
hình là 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận là vùng khô hạn nhất nước, đã tạo
thành vùng cát hoang mạc hóa trên diện tích hơn 131.000 ha.
Bình Thuận là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, ít mưa nhiều
nắng, gió với đặc điểm nổi bật là đất cát và đồi cát ven biển chiếm một diện
tích khá lớn (khoảng 16% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Do đặc điểm về khí
hậu khô hạn cộng với trình độ dân trí thấp và hạn chế về kinh tế, vùng đất
cát của tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn như thiếu nguồn nước tưới, nước
cho sinh hoạt, hiện tượng sa mạc hóa, cát nhảy, cát bay (bão cát) đang là mối
đe dọa uy hiếp cuộc sống của hàng ngàn con người.Với diện tích tự nhiên
khoảng 125.000 ha nằm dọc theo bờ biển, vùng đất cát ven biển Bình Thuận
kéo dài 192 km từ ranh giới Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu Do đặc
điểm tự nhiên cộng với nền kinh tế địa phương còn khó khăn nên vùng đất
cát ven biển Bình Thuận đang phải đối mặt trước nguy cơ sa mạc hoá trầm
trọng
. Nhóm đất cát ven biển được phân bố như sau:
Bảng 1. Phân bố diện tích đất cát ven biển Bình Thuận
TT Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ %
1 Đất cồn cát trắng (Ct) 7.710 6,1
2 Đất cồn cát trắng vàng (Ctv) 7.270 5,8
3 Đất cồn cát đỏ (Cđ) 77.960 61,9
4 Đất cát biển (C) 32.995 26,2
Tổng cộng 125.935 100
Dưới tác động của con người và các yếu tố khí hậu như mưa, gió, bão
v.v đã làm cho quá trình chuyển vận và cát lấp tại các khu vực sản xuất và
sinh hoạt của con người tăng lên.Sự rửa trôi và xói mòn đất ngày càng diễn
ra rất nghiêm trọng theo không gian và thời gian.
Hiện nay tình hình sa mạc hoá, hiện tượng cát nhảy, cát bay diễn ra rất
nghiêm trọng và phổ biến trong mùa khô tại các địa phương vùng ven biển
Bình Thuận, đặc biệt tại các xã Hòa Thắng, Hồng Phong (Bắc Bình), xã Tiến

Thành, Phường Hàm Tiến (Tp. Phan Thiết).
Trong những năm gần đây, tình hình sa mạc hóa đã trở nên hết sức
nguy hiểm. Vào mùa khô (bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), gió
mùa Đông Bắc thổi mạnh thường xuyên, kéo theo cát, bụi bay trong không
trung và trên bề mặt đất từ biển vào bên trong đất liền, do thiếu hệ thống
rừng vành đai chắn gió nên việc di chuyển dễ dàng của cát như vậy đã tràn
lấp lên những khu vực canh tác, các khu dân cư tập trung sinh sống hoặc tạo
nên những cồn cát mới v.v Điển hình tại các thôn Hồng Thanh, Hồng
Thịnh, Hồng Trung thuộc xã Hồng Phong, thôn Hồng Lâm, Hồng Chính,
Hồng Thắng xã Hòa Thắng - huyện Bắc Bình.Hai huyện Tuy Phong và Bắc
Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang hóa khoảng 35.000 ha phân bố
trên chiều dài 50km bờ biển. Riêng các đồi cát di động ở đây có diện tích
khoảng 5.000ha và hiện là nguy cơ suy thoái hàng đầu trong khu vực.
Còn tại Ninh Thuận theo kết quả kiểm kê năm 2000 của sở nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh, diện tích đất trống đang bị thoái hóa và hoang mạc
hóa chiếm 33.9% tổng diện tích đất tự nhiên và phân bố tập trung ở các
huyện Ninh Phước, Ninh Hải và Ninh Sơn. Trong những năm gần đây do
những biến động bất thường của thời tiết cùng với các nguyên nhân khác từ
con người đã làm cho tình trạng thiếu nước và hạn hán ở vùng Duyên hải
Nam Trung Bộ nói chung và tỉnh Ninh Thuận nói riêng xảy ra ngày càng
nghiêm trọng và thường xuyên hơn.
Bảng 1: Tổng diện tích đất bị hoang hóa tại tỉnh Ninh Thuận
Stt Dạng hoang mạc Diện tích (ha)
2001 2004
1
2
3
4
Hoang mạc cát
Hoang mạc đá

Hoang mạc muối
Hoang mạc đất cằn
4.878
3.457
11.867
20.124
9.103
21.468
6.407
4.043
Tổng cộng
(% so với diện
tích tự nhiên)
40.326
(12,0%)
41.021 (12,21%)
Nguồn: Sở nông nghiệp và PTNT, bộ KTTV tỉnh Ninh Thuận, năm 2006
Tổng diện tích đất hoang mạc ở Ninh Thuận là 41.021ha chiếm 12,21% diện
tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Và hiện nay, thực trạng sa mạc hóa vẫn có chiều
hướng gia tăng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và các hoạt động
dân sinh kinh tế của các địa phương.
2.Nguyên nhân gây sa mạc hóa ở Duyên hải Nam Trung Bộ
Ðất sa mạc hóa (hay hoang mạc hoá) ở Việt Nam không tập trung
thành hoang mạc rộng hàng trăm nghìn ha như một số quốc gia khác, mà
phân bố trên khắp cả nước, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền
núi, những vùng đất trống, đất cát ven biển và đất nghèo bị suy thoái. Trên
90% diện tích đất đang chịu tác động của hoang mạc hóa là các khu vực đất
trống, đồi trọc bị thoái hóa mạnh, đất đá ong hóa do tình trạng phá rừng và
sử dụng đất không hợp lý trong thời gian dài. Phần còn lại là các khu vực
đụn cát, bãi cát di động tại các tỉnh ven biển, tập trung ở 10 tỉnh Duyên hải

Nam Trung Bộ từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Tại đây đã xuất hiện những
vùng sa mạc thực thụ (hoang mạc cát) như: Tuy Phong, Bắc Bình (tỉnh Bình
Thuận), Ninh Phước (tỉnh Ninh Thuận).
1. Do điều kiện tự nhiên
1.1. Điều kiện khí hậu
- Điều kiện khí hậu khu vực này rất khắc nghiệt, thường xuyên nắng
nóng và rất ít mưa với 2 mùa rõ rệt : Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng
10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vào mùa khô hanh lại
xuất hiện gió mùa Đông Bắc với vận tốc tương đối lớn (V
tb
= 2,5 - 5,6m/s,
V
max
= 10 - 13m/s), và có ảnh hưởng rất lớn tới việc vận chuyển cát từ biển
vào trong đất liền đã tạo điều kiện hình thành diện tích đất các hoang hoá
trên 200.000 ha trải dọc theo gần 250 km bờ biển. Các cồn cát sa mạc cũng
có thể di chuyển góp phần vào hiện tượng sa mạc hoá. Gió là động lực chính
đẩy các cồn cát. Những hạt cát có thể lăn trên mặt đất hoặc tung lên trên
không rồi rơi xuống. Chính tác động tung lên sẽ làm dao động thêm,
khuyếch đại lượng cát bị xô đẩy. Kết quả là lũ cát khi có cả một cồn cát
trườn vào. Khi có gió mạnh làm bão cát thì lũ cát có thể làm cồn cát tiến lên
hàng chục mét tương tự như hiện tượng tuyết truồi. Lũ cát còn có thể xảy ra
khi cát dồn lên đến đỉnh cồn sẽ trượt xuống triền dốc bên kia, làm cồn cát
tiến lên.
- Những vùng khô hạn thường xuyên là hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận
và phía Nam tỉnh Khánh Hòa với lượng mưa hàng năm trung bình chỉ 500-
700mm/năm, có năm chỉ đạt 200 - 250mm/năm; chỉ số ẩm ướt (theo Ivanov)
nhỏ hơn 0.5, lượng bốc hơi cao gấp hai lần lượng mưa (P<2T). Tại đây có
chế độ khí hậu bán khô hạn và được xem là vùng khô hạn nhất nước ta nhiệt
độ trung bình năm luôn cao trên 27

o
C, tổng nhiệt hoạt động trên 9500
o
C , khí
hậu nắng nóng đã tạo thành các vùng đất bán sa mạc, vùng cát vàng khô hạn
với những trảng cây bụi thưa có gai rất khó để phát triển sản xuất. Trong đó
hai huyện Tuy Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang
hoá khoảng 35.000 ha và phân bố trên chiều dài 50 km bờ biển. Các đồi cát
di động ở đây có diện tích khoảng 5000 ha và hiện là nguy cơ đe dọa sinh
thái hàng đầu ở khu vực này; vì với điều kiện khô hạn và gió mạnh như trên
đã thường xuyên tạo ra những cơn bão cát dữ dội làm bay bốc, di chuyển cát
từ dải ven biển trở vào đất liền chôn vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp quốc
lộ 1A trên một phạm vi rộng hàng ngàn ha, đe doạ hủy diệt những tiềm năng
to lớn của nền sản xuất khu vực, thậm chí đồi núi lân cận cũng bị cát leo lên
phủ đầu, biến đổi cây xanh thành núi cát, dẫn đến nạn sa mạc hoá, biến vùng
nội địa dân cư đông đúc thành vùng cát nghèo nàn, phi sinh địa kéo theo
nhiều hậu quả không lường về môi trường sinh thái.
1.2. Điều kiện địa hình
- Theo các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
duyên hải Nam Trung bộ, địa hình của dãy Kon Tum và hướng gió thổi gần
song song với hướng địa hình ven biển đã ảnh hưởng và làm cho khu vực
này trở nên khô nóng quanh năm.
- Hiện các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ có diện tích đất trống đồi núi trọc
khá lớn (gần 1,2 triệu ha đất hoang đồi núi và hơn 60.000 ha đất hoang đồng
bằng trên tổng diện tích đất tự nhiên hơn 3 triệu ha), đất đai khô cằn, xói
mòn thoái hóa và hoang mạc hóa diễn ra trên phạm vi nhiều địa phương. Ở
đây cũng đã hình thành những dải cồn cát kéo dài khá liên tục từ Đà Nẵng
đến Bình Thuận góp phần gây nên sa mạc hóa, nhất là phân bố ở các tỉnh:
Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, nhưng điển hình là 2 tỉnh Ninh Thuận
và Bình Thuận.

- Với đường bờ biển dài hơn 3200km với tổng diện tích đất ven biển
khoảng 3,2 triệu ha. Trong đó có hơn 0,5 triệu ha đất cát tập trung chủ yếu
dọc theo vùng duyên hải nhất là từ Quảng Bình - Quảng Trị vào đến Ninh
Thuận – Bình Thuận. Diện tích đất cát này luôn chứa đựng nhiều “tiềm
năng” dẫn đến hiểm hoạ sa mạc hoá cho vùng .
Đất bị thoái hóa (Ảnh minh họa)
Với các điểm hạn chế về tính chất của đất cát, cùng với các quá trình tác
động tới đất như đã nêu trên, trong điều kiện độ che phủ kém và sử dụng đất
thiếu các biện pháp bảo vệ, các loại đất cát trong vùng nhìn chung có độ phì
rất thấp , hiện tượng hoang mạc hóa đang diễn ra mạnh mẽ từng ngày. Càng
ngày độ che phủ trên bề mặt đất càng giảm, rừng bị chặt phá nhiều, cây cỏ
trên bề mặt không phát triển được vì thiếu nước, khả năng giữ ẩm và trữ
nước trong đất kém. Khi có mưa nước không thấm hết vào lòng đất mà lại
tạo thành những dòng chảy lớn chảy tràn trên mặt đất, hết mưa hơi nước lại
thoát đi nhanh chóng. Trong điều kiện độ che phủ kém, đất cát thường chứa
ít nước và nhiều không khí, nguồn nước mặt cung cấp hầu như không đáng
kể, mùa khô kéo dài, vì vậy vào những ngày nắng đất cát thường bị nung nóng
mạnh mẽ bởi bức xạ mặt trời. Kết cấu đất vốn đã kém bền vững lại càng dễ
bị phá hủy. Cùng với gió mạnh, hình dạng các cồn cát di động thay đổi hàng
ngày, những trận gió cát, bão cát khiến cho khu vực khô nóng càng trở nên
khắc nghiệt. Tình trạng này kéo dài đang là nguy cơ gây ra hoang mạc hóa
cục bộ tại nhiều tỉnh trong vùng và đã hình thành bốn dạng hoang mạc hóa
điển hình ở vùng này như hoang mạc cát, hoang mạc đá sạn sỏi, hoang mạc
muối và hoang mạc đất cằn
2. Do hoạt động của con người.
Nguyên nhân gây sa mạc hoá phần lớn là do tác động của con người từ
khoảng 10.000 năm nay. Việc lạm dụng đất đai trong các ngành chăn nuôi gia
súc, canh tác ruộng đất, phá rừng, đốt đồng, khai giếng… và biến đổi khí hậu
toàn cầu đã góp sức làm sa mạc hoá nhiều vùng miền.
Tình trạng phá rừng và hủy diệt lớp phủ thực vật do chiến tranh và các hoạt

động do con người gây ra làm cho diện tích rừng bị thu hẹp, độ che phủ thảm
thực vật thấp, sự xói mòn và thoái hóa đất xảy ra nghiêm trọng, làm tăng diện
tích đất trống đồi núi trọc ở vùng đồi núi thấp của các tỉnh trong vùng. Việc
khai thác rừng bừa bãi và sử dụng tài nguyên rừng không bền vững đã dẫn
đến các tác hại to lớn đối với vùng đầu nguồn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
nguồn nước và góp phần gây thiếu nước. Bên cạnh đó, đất kết cấu yếu, dễ bị
xói mòn, bạc màu cùng với khí hậu khắc nghiệt, nhất là mùa khô luôn gây hạn
hán. Hạ hán có khi bị ngộ nhận là nguyên do tiến trình sa mạc hoá. Hạn hán
góp phần trong tiến trình đó nhưng nguyên do chính là do áp lực sinh hoạt của
con người trên môi trường thiên nhiên. Theo địa chất học thì trước thời kỳ văn
minh nhân loại, không có bằng chứng khoa học noà nói rằng diện tích sa mạc
đang lan rộng thêm. Chỉ sau khi con người thay đổi môi sinh ta mới thấy hiện
tượng sa mạc hoá. Hạn hán là biến chuyển thường xuyên xảy ra ở những vùng
khô cằn nhưng khi đã có mưa thì môi sinh bình phục nhanh chóng. Vùng khô
cằn cũng có thể canh tác được nhưng khi áp lực của con người làm hư hại lớp
phủ thực vật thì đất khô dễ bị gió biến thành bụi. Quá trình này làm đất thêm
cằn cỗi, cây cỏ không mọc được và tốc độ suy thoái càng nhanh khi khí hậu
trong vùng bị biến đổi với lượng mưa ngày càng ít đi.
Bên cạnh đó là hoạt động chăn thả gia súc, móng guốc của loài gia súc thường
nện chặt các tầng đất, làm giảm lượng nước thấm xuống các mạch nước
ngầm. Những lớp đất tầng mặt thì sẽ vụn rời, tơi xốp và rất dễ bị gió mưa xói
mòn. Hiện tượng này diễn ra ở những vùng ven sa mạc khi con người chuyển
từ lối sống du mục sang lối sống ngụ canh. Dân du mục khi muốn thoát vùng
sa mạc khô cằn thường đưa đàn gia súc đến vùng ven để sinh sống nhưng
chính động tác đó đã làm sa mạc thêm rộng lớn và họ đã vô tình mang cái
khô cằn của sa mạc theo với họ.
Ngoài ra, trình độ sản xuất nông nghiệp lẫn ý thức của một bộ phận
người dân trong bảo vệ môi trường chưa cao. Vì thế, theo thời gian đất bị
thoái hóa âm ỉ từng ngày. Việc sử dụng các biện pháp canh tác thiếu bền
vững trong một thời gian dài, cơ cấu cây trồng không hợp lý, chưa chú trọng

nhiều đến tính hiệu quả và bền vững trong khai thác sử dụng đất; và việc lập
kế hoạch sản xuất, quy hoạch sử dụng đất chỉ dựa trên việc đáp ứng các nhu
cầu trước mắt, không tính đến tác hại lâu dài về môi trường sinh thái cũng là
nguyên nhân cơ bản. Mặt khác, công tác quản lý nguồn nước còn thiếu đồng
bộ, thiếu sự phối kết hợp giữa các ngành… đã khiến nguồn nước mặt cạn
kiệt. Đó là những nguyên nhân cơ bản gây nên hiện tượng thoái hóa đất ở
duyên hải Nam Trung bộ, dẫn đến tình trạng sa mạc hóa.
Giải pháp giảm sa mạc hóa
- Tăng cường công tác quản lí, khai thác đồng bộ và hiệu quả các công trình
thủy lợi đảm bảo chống hạn. Triển khai kiên cố hóa hệ thống kênh mương
tưới đảm bảo tiết kiệm nước, phân phối nước kịp thời và chất lượng. Thực
hiện tốt nạo vét các kênh mương nội đồng để dẫn và lấy nước nhanh
- Thực hiện đúng theo quy hoạch cân bằng nước của các sông suối trong tỉnh
từng bước đầu tư thêm các công trình thủy lợi đặc biệt hồ chứa để bôe sung
nước về mùa khô tham gia điều tiết lũ vào mùa mưa yêu cầu khi lập dự án
xây dựng các hồ chứa phải tính toán diều tiế nhiều khả năng nhằm dữ nước
- Xây dựng các công trình dữ nước trũ lượng nhỏ dâng nước trong đó ưu tiên
xây dựng các hồ chứa nước và đập dâng ở miền núi, các ao hồ nhỏ kênh th
nước ngầm tầng nông trren vùng đất cát nhắm tăng cường thêm nguồn nước
trong mùa khô phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và cho sinh hoạt cảu người
dân
- Khai thác nước ngầm tầng sâu hợp lí bằng hệ thống các giếng khoan ở
những nơi có trữ lượng nước ngầm tốt để tăng thêm nguồn nước để phục vụ
cho sản xuất và dân sinh
- Điều tiết hợp lí các hồ chứa lớn để dảm bảo nhu cầu phát điện và tăng được
nguồn nước tưới cho hạ lưu vào thời điểm cần thiết
- Láp đặt các hệ thống trạm bơm dã chiến trong trường hợp chống hạn cấp
bách lấy nước sông ở các hồ chứa nước hỗ trợ các vùng tưới khi các hồ đập
bị cạn kiệt
- Canh tác trên đất dốc, chống sa mạc hóa góp phần phòng chống và giảm

nhẹ thiên tai: khuyến khích thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, đổi
mới cơ cấu cây trồng, đưa các loài cây có tính chịu hạn lên vùng đất dốc để
tăng thu nhập
- Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, ngăn chặn có hiệu quả nạn đốt phá rừng làm
nương rẫy, làm suy giảm vốn rừng, suy giảm chức năng phòng hộ của rừng,
nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến sa mạc hóa.
- Cần nhân rộng mô hình trồng rừng chống cát bay: Bằng các loại cây như
phi lao, keo, xoan chịu hạn….
- Tăng cường công tác phát triển hệ thống thủy lợi; thực hiện các chương
trình sản xuất nông nghiệp bền vững; trạng biến đổi khí hậu hết sức đáng lo
ngại đối với loài người trong thời gian hiện nay.
-

- Ninh Thuận: Phát triển trồng cây Neem và Cóc
Hành: Theo các nhà khoa học, chi phí cho đầu tư
trồng cây Neem rất thấp; quá trình sinh trưởng và
phát triển tốt, thích ứng cao với khí hậu vùng khô
hạn; bảo vệ môi trường môi sinh; các chế phẩm
sinh học được chiết xuất dùng làm thuốc trị bệnh
cho con người và gia súc; phục trong nông nghiệp
(phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ).
Lót nilong trồng cỏ: Phương pháp canh tác đơn giản, dễ áp dụng. Trên các
vùng đất cát đang bị sa mạc hóa, chỉ cần đào một lớp cát sâu khoảng 40cm,
rộng 4m, dài 100m, rải nilon trên diện tích mặt đáy đã đào. Sau khi rải
nylon, cứ 1 lớp đất dày 5-10 cm lại rải đều 1 lớp phân chuồng hoặc phân hữu
cơ đã được ủ hoai mục lên trên rồi lấp đầy, tạo thành các băng canh tác giàu
chất dinh dưỡng cho các loại cây trồng ngắn ngày, đặc biệt là trồng cỏ phục
vụ cho chăn nuôi.
- Xương rồng trồng để ăn và chăn nuôi : Chúng ta đã rất thành công trong
việc trồng một loài xương rồng vừa để lấy quả ăn vừa để xuất khẩu, đó là

cây Thanh Long với tên khoa học là Hylocereus undatus
-
- Hiệu quả mô hình trữ nước trên cát để chống sa mạc hóa tại Bình Thuận:
Từ việc trữ nước trên cát, các mô hình kinh tế sinh thái theo phương thức
nông lâm kết hợp với cơ cấu cây trồng, vật nuôi được hình thành và phát huy
hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
/>phuc/128-canh-tac-tren-dat-doc.html
THỰC TRẠNG HẠN HÁN HOANG MẠC Ở NINH THUẬN NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC-Gs.Ts Lê Sâm-Ths.ncs Nguyễn
Đình Vượng

×