VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC XUẤT BẢN
SÁCH PHÁP LÝ CỦA NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
CNĐT : TRƯƠNG QUANG VINH
8983
HÀ NỘI – 2010
1
TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ ÁN
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
XUẤT BẢN SÁCH PHÁP LÝ CỦA NHÀ XUẤT BẢN TƯ
PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP VÀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề án
Qua hơn mười năm thực hiện các qui định của Luật xuất bản năm
1993 và đặc biệt là Luật xuất bản năm 2004 đã nhanh chóng đi vào thực tế
cuộc sống. Các quy định này đã phát huy tác dụng một cách tích cực, tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động xuất bản phát triển mạnh cả về tốc độ
, qui mô, chất
lượng và hiệu quả. Về cơ bản, ngành xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu đọc
của toàn xã hội. Nhiều bộ sách có giá trị với hình thức đẹp, chất lượng tốt
được dư luận xã hội cũng như độc giả hoan nghênh đón nhận. Nhìn chung,
hoạt động xuất bản đã góp phần phục vụ tích cực sự nghiệp đổi mớ
i đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao
lưu văn hoá đồng thời nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chú
trọng đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu
hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền, do vậy, yêu cầu về
tuyên
truyền pháp luật và nhu cầu về tìm hiểu pháp luật trong xã hội ngày càng
cao. Đặc biệt tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đến
với người dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Tư pháp,
cùng với Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp cũng có
trách nhiệm thực hiện chức năng này. Trong khi đó, Nhà xuất bản mới được
tái thành l
ập cuối năm 2003, đến nay hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp
đã từng bước ổn định và đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên,
2
hiện tại xét về mọi phương diện như: Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm xuất bản, cơ sở vật chất, mạng lưới phát hành,
hoạt động in… của Nhà xuất bản trước nhu cầu về sách pháp lý to lớn của xã
hội và những yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xuất bản trong nền kinh tế thị
trường đị
nh hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế còn nhiều bất cập. Do vậy, đòi hỏi Nhà xuất bản Tư pháp cần phải
tăng cường năng lực xuất bản sách trong đó có sách pháp lý nhằm đáp ứng
một cách tốt nhất nhu cầu của thực tiễn khách quan. Với nh
ững lý do trên,
Nhà xuất bản Tư pháp đã lựa chọn đề án nghiên cứu: “Các giải pháp tăng
cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nhằm
đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền” là một yêu
cầu cấp bách và cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Trong những nă
m gần đây có một số đơn vị trong Bộ nghiên cứu một
số đề án như: Đề án đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Đề án tăng
cường năng lực cho cơ quan Thanh tra Tư pháp… Những đề án này đề cập
riêng lẻ đến các lĩnh vực hoạt động của Bộ.
Về đề tài khoa học có một số luận án như: Luận án Tiến s
ỹ của tác giả
Đỗ Mạnh Chu về hoàn thiện pháp luật xuất bản trong tình hình hiện nay.
Tuy nhiên, luận án này mới chỉ đề cập đến các quy định hiện hành của pháp
luật về công tác xuất bản nói chung.
Tóm lại, tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản
Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền
là một vấn đề mới ch
ưa có công trình nào nghiên cứu khoa học nào.
1.3. Mục đích, yêu cầu của đề án
1. 3.1. Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động xuất bản sách pháp
lý, qua đó đề xuất một số giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng
3
lực xuất bản sách pháp lý cho Nhà xuất bản Tư pháp, đồng thời đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp, hội nhập và xây dựng Nhà nước pháp quyền trong tình
hình mới.
1.3.2. Yêu cầu
Để thực hiện mục tiêu này Đề án giải quyết một số vấn đề sau :
- Làm rõ khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực xuất bản, đặc thù
của hoạt động xuất bản sách pháp lý.
- Làm rõ các yếu tố tác
động, ảnh hưởng cũng như những yêu cầu mới đặt
ra đối với công tác xuất bản nói chung và xuất bản sách pháp lý nói riêng.
- Đánh giá thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay với
những ưu, nhược điểm và các nguyên nhân của nó.
- Tình hình phát triển xuất bản trong nước và nước ngoài
- Đề xuất các giải pháp, lộ trình cụ thể nhằm tăng cường năng lực cho
Nhà xuất bả
n Tư pháp trong việc xuất bản sách pháp lý.
1.4. Phạm vi nghiên cứu của Đề án.
- Trong thời hạn 12 tháng với kinh phí có hạn nên đề án chỉ tập trung
đánh giá năng lực hiện nay nhà xuất bản tư pháp, đồng thời có đánh giá khái
quát năng lực của một số nhà xuất bản có thị phần xuất bản sách tương đối
lớn.
- Nhu cầu sách pháp lý trong thời gian tới cũng được đề án đánh giá,
khảo sát các
đối tượng, vùng miền mang tính đại diện chứ không thể triển
khai trong toàn quốc.
1.5. Phương pháp nghiên cứu Đề án
Để nghiên cứu Đề án, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật
cũng như những quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống
như phươ
ng pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu, phương pháp điều tra bằng
4
bảng hỏi cá nhân, phương pháp thống kê toán học… để từ đó làm rõ những
yêu cầu, mục đích mà đề án đặt ra.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Một số vấn đề chung về năng lực xuất bản và sự cần thiết
phải tăng cường năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư
pháp
2.1.1. Các yếu tố cấu thành năng lực, tiêu chí đánh giá năng lực
xuất bản sách pháp lý
Năng lực xuất bản được thể hiện trước hết và tập trung ở giá trị mang
lại của xuất bản phẩm trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hay nói một
cách khái quát thì năng lực xuất bản là khả năng sản xuất, phát hành các
xuất bản phẩm để chuyển tải thông tin, đáp ứng nhu cầu của độc giả, phục
v
ụ cho việc thực hiện các mục tiêu xuất bản và mang lại những lợi ích kinh
tế, xã hội nhất định.
Năng lực xuất bản được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản sau đây:
- Cơ sở pháp lý của hoạt động xuất bản. Cơ sở pháp lý của hoạt động
xuất bản được thể hiện ở tư cách pháp nhân của nhà xuất bản và các c
ơ sở
liên kết trong quá trình tổ chức hoạt động xuất bản. Điều này đòi hỏi nhà
xuất bản phải được cơ quan chủ quản đứng tên xin phép thành lập một cách
hợp pháp theo những tôn chỉ, mục đích, phương hướng hoạt động xác định;
- Yếu tố con người. Yếu tố này đòi hỏi nhà xuất bản khi được thành
lập và trong quá trình hoạt động phải có đủ ngu
ồn lực con người để thực
hiện nhiệm vụ
- Yếu tố cơ sở vật chất, điều kiện làm việc. Cơ sở vật chất, điều kiện
làm việc của nhà xuất bản phải được cơ quan chủ quan cấp vốn ban đầu và
đảm bảo các điều kiện cần thiết khác để đi vào hoạt động. Ngoài ra, trong
quá trình hoạt độ
ng, để đảm bảo sự phát triển của hoạt động xuất bản, trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh các xuất bản phẩm, nhà xuất bản còn cần
phải có doanh thu, có lãi và tích lũy tài chính để đầu tư lại cho hoạt động
xuất bản nhằm thúc đẩy, mở rộng việc sản xuất, đầu tư trang thiết bị, tài sản,
5
mở rộng mạng lưới cơ sở phát hành các xuất bản phẩm, giải quyết các vấn
đề phúc lợi xã hội khác
- Cơ chế quản lý, cách thức tổ chức hoạt động xuất bản: Yếu tố này
đòi hỏi người lãnh đạo nhà xuất bản phải tạo lập được bộ máy tổ chức và
nhân lực của nhà xuất bản đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao c
ủa
hoạt động xuất bản.
Từ những vấn đề cơ bản về năng lực xuất bản nói chung, có thể khái
quát năng lực xuất bản sách pháp lý là khả năng tạo ra những xuất bản
phẩm nội dung pháp lý đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của độc giả về pháp luật,
thực tiễn pháp luật, góp phần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dụ
c
pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật và thực thi pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức và nhân dân.
Để đánh giá hiệu quả năng lực xuất bản sách pháp lý, cần phải căn cứ
vào những tiêu chí nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, tiêu chí về số lượng, chất lượng, sự đa dạng của sách pháp
lý. Tiêu chí này đòi hỏi xuất bản phẩm là sách pháp lý phải có số lượng phát
hành lớn. Cùng v
ới yêu cầu về số lượng, sách pháp lý còn phải đáp ứng yêu
cầu cao đối với chất lượng thông tin và sự đa dạng các loại hình xuất bản
phẩm.
Thứ hai, khả năng phát hành các xuất bản phẩm pháp lý. Tiêu chí này
đòi hỏi nhà xuất bản phải có một cơ chế quản lý và cách thức tổ chức hoạt
động một cách khoa học và hiệu quả.
Thứ ba, sự đáp ứ
ng nhu cầu của thị trường và độc giả đối với sách
pháp lý. Tiêu chí này đòi hỏi việc sản xuất và phát hành sách pháp lý cần
phải tính toán được sự cung cầu của thị trường sách pháp lý cũng như nhu
cầu của các độc giả quan tâm.
2.1.2. Các yếu tố chi phối và ảnh hưởng đến năng lực xuất bản sách
pháp lý
Trong điều kiện hiện nay, năng lực xuất bản của các nhà xuất b
ản nói
chung và năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp nói
6
riêng, chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi hai nhóm yếu tố: Các yếu tố bên
ngoài và các yếu tố bên trong.
2.1.2.1. Các yếu tố bên ngoài chi phối và ảnh hưởng đến năng lực
xuất bản sách pháp lý
* Những yêu cầu từ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
* Những ảnh hưởng và chi phối từ thị trường xuất bản
Những yếu tố ảnh hưởng và chi phối t
ừ thị trường xuất bản có thể kể
đến như khả năng chiếm giữ thị phần, khả năng cạnh tranh, giá cả, khả năng
đáp ứng thị hiếu và nhu cầu của độc giả Trong điều kiện kinh tế thị
trường, những ảnh hưởng của các yếu tố này tác động rất mạnh đến năng lực
và hiệu quả củ
a việc xuất bản sách pháp lý.
2.1.2.2. Các yếu tố bên trong chi phối và ảnh hưởng đến năng lực
xuất bản sách pháp lý
* Ảnh hưởng của chiến lược và kế hoạch xuất bản sách pháp lý
Chiến lược phát triển và kế hoạch công tác được coi như kim chỉ nam
dẫn đường trong hành động. Bất luận đối với một đơn vị sản xuất, kinh
doanh nào, nếu như không xây dựng được chiến l
ược phát triển và kế hoạch
cụ thể trong từng thời kỳ, giai đoạn trước mắt và lâu dài, thì chắc chắn hoạt
động sẽ không đạt hiệu quả. Nhà xuất bản và hoạt động xuất bản sách pháp
lý không nằm ngoài quy luật trên.
* Chất lượng của đội ngũ cán bộ, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật
Yếu tố con người được coi là yếu tố quan trọng nhất của nhóm các
yếu t
ố bên trong. Điều này phụ thuộc cơ cấu tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán
bộ, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật.
* Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ đảm bảo để đáp ứng nhu cầu
hoạt động
Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ được coi là nền tảng để đảm bảo
cho hoạt động xuất bản
được hiệu quả. Các yếu tố về vật chất, kỹ thuật, công
nghệ bao hàm: Trụ sở làm việc, các phương tiện, máy móc thiết bị, công
7
nghệ kỹ thuật chế bản, đồ hoạ vi tính và cả vốn để thực hiện quá trình xuất
bản
Nếu các yếu tố này được trang bị đầy đủ, hiện đại sẽ thúc đẩy việc
tăng năng suất lao động và chất lượng của các xuất bản phẩm, rút ngắn thời
gian, công đoạn xuất bản, đáp ứng được tính thời sự của n
ội dung các ấn
phẩm.
*. Phương pháp quản trị, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản
Phương pháp quản trị, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản cũng ảnh
hướng và chi phối mạnh mẽ đến năng lực xuất bản của Nhà xuất bản. Nói
đến phương pháp quản trị là nói đến tính khoa học, hiệu quả, minh bạch của
kế hoạch kinh doanh xuất b
ản phẩm, trong đó, người ta quan tâm đến việc sử
dụng vốn, lưu chuyển vốn trong kinh doanh xuất bản phẩm. Điều này có mối
liên hệ chặt chẽ với phương pháp, trình độ quản lý và tổ chức xuất bản các
ấn phẩm.
Các vấn đề ở trên được vận hành trong một mối quan hệ chặt chẽ và
chi phối lẫn nhau. Nếu có chiến lược và kế hoạch tố
t, sẽ tạo ra cơ chế quản
lý và tổ chức xuất bản khoa học, tạo ra các xuất bản phẩm có chất lượng cao
cả về nội dung và hình thức, chiếm lĩnh được thị trường và đưa lại hiệu quả
thiết thực trong việc sử dụng vốn đầu tư cho quá trình xuất bản.
2.1.3. Lịch sử hình thành, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Nhà xuấ
t bản Tư pháp
2.1.3.1. Lịch sử hình thành của Nhà xuất bản Tư pháp
Nhà xuất bản Tư pháp (tiền thân là Nhà xuất bản Pháp lý) là một nhà
xuất bản chuyên ngành về pháp luật. Năm 1978 Nhà nước ta đã cho phép
thành lập Nhà xuất bản chuyên ngành về pháp luật - Nhà xuất bản Pháp lý.
Ngày 22/11/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã ký ban
hành Nghị định số 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm v
ụ, quyền hạn và
tổ chức Bộ Tư pháp, trong đó có Nhà xuất bản Pháp lý.
Theo yêu cầu tập trung sức mạnh cho hoạt động xuất bản sách chính
trị, lý luận, pháp luật, Ban Bí thứ Trung ương Đảng khoá VII đã ra Quyết
8
định số 50 ngày 20/11/1992 quyết định hợp nhất 4 nhà xuất bản: Nhà xuất
bản Sự thật thuộc Ban Bí thư, Nhà xuất bản Thông tin lý luận thuộc Viện
Nghiên cứu Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Tư tưởng -
Văn hoá thuộc Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Nhà xuất bản Pháp
lý thuộc Bộ Tư pháp thành Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quy
ền xã hội chủ nghĩa, cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật,
nâng cao dân trí pháp lý của cán bộ, nhân dân tăng lên, việc có một nhà xuất
bản chuyên về pháp luật là rất cần thiết. Được sự đồng ý của các cơ quan có
thẩm quyền, năm 2003 Nhà xuất bản Tư pháp được thành lập theo Quyết
định số 2240/QĐ-BVHTT ngày 08/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá -
Thông tin và Quyết định số 396/2003/Q
Đ-BTP ngày 08/9/2003 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp.
2.1.3.2. Vị trí của Nhà xuất bản Tư pháp
Theo quy định tại Quyết định số 1243/QĐ-BTP, Nhà xuất bản Tư pháp
là chủ thể chịu trách nhiệm độc lập về các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong
quan hệ với các cơ quan, tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ. Nhà xuất bản chịu
sự chỉ đạo trực tiếp củ
a Bộ trưởng và Thứ trưởng được phân công phụ trách,
có trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và trước pháp
luật về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Nhà xuất bản Tư pháp có mối quan hệ chặt chẽ với một số đơn vị thuộc
Bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của Bộ, ngành, cụ thể:
- Phối hợp với Vụ
Phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc giúp Bộ
trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý báo chí của Bộ Tư pháp theo quy định
của pháp luật.
- Phối hợp với Viện Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Học viện Tư pháp, các cơ sở đào tạo luật và bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành
Tư pháp trong việc xuất bản các loại sách, giáo trình, tài liệu phụ
c vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy.
9
- Phối hợp với Vụ Hành chính tư pháp, Cục con nuôi trong việc xây
dựng các loại sổ, biểu mẫu hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp và chứng thực.
- Chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ trong việc kiện toàn tổ chức,
quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Nhà xuất
bản theo quy định của pháp luật.
- Phối hợ
p với Vụ Kế hoạch – Tài chính trong việc thực hiện các chế
độ, chính sách về tài chính, kế toán theo quy định.
2.1.3.3. Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp
* Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ của
Bộ, ngành
Theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm
2008 của Chính phủ, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà n
ước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự;
hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm
vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của Bộ. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
công tác hành chính tư pháp của Bộ Tư pháp là quản lý thống nhất các loại
biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp
1
. Để thực
hiện nhiệm vụ đó, với tư cách là đơn vị giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về công tác quản lý và đăng ký hộ tịch, Vụ Hành chính -Tư pháp
là đơn vị chịu trách nhiệm thiết kế biểu mẫu, sổ hộ tịch để áp dụng thống
nhất trong cả nước, và với Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP ngày 29 tháng 3
năm 2006 củ
a Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu
hộ tịch, Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp được Bộ giao nhiệm vụ “phối hợp
với Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp tổ chức in và phát hành đối với 16
loại biểu mẫu hộ tịch…, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về đăng ký và quản lý hộ
tịch củ
a địa phương…”
2
.
1
Khoản 11 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP
2
Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP
10
Thực hiện nhiệm vụ được giao, công tác in, phát hành biểu mẫu, sổ hộ
tịch đáp ứng nhu cầu của các địa phương đã được Nhà xuất bản Tư pháp nỗ
lực cố gắng. Mặc dù vậy, do điều kiện nhân lực, vật lực hạn chế, có thời gian
Nhà xuất bản chưa thực sự hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Tuy nhiên, dưới sự
quan tâm chỉ đạo sát sao c
ủa Lãnh đạo Bộ, sự đồng lòng, quyết tâm của tập
thể cán bộ, viên chức Nhà xuất bản, việc đáp ứng nhu cầu về biểu mẫu, sổ
hộ tịch cho 64 tỉnh, thành phố trên cả nước của Nhà xuất bản Tư pháp từ quý
II năm 2009 đã đi vào nề nếp. Nhu cầu về biểu mẫu, sổ hộ tịch của địa
phươ
ng được đáp ứng kịp thời với tỉ lệ gần 100%.
* Vai trò của Nhà xuất bản Tư pháp trong việc phúc đáp nhu cầu của
thị trường
Số đầu sách pháp luật thông thường vốn chiếm một tỉ lệ không cao
trong thị trường sách Việt Nam: năm 2008, sách chính trị, pháp luật xuất bản
được 3.628 cuốn với 8,590 triệu bản/tổng số 25.120 cuốn với 279,913 triệu
bản
, 6 tháng đầu năm 2009, số sách chính trị pháp lý đạt 1.316 cuốn với
2,752 bản/tổng số 10.677 cuốn với 163,256 triệu bản. Tuy nhiên, hiện nay
nó là một mảng sách có tầm quan trọng nhất định đối với cộng đồng xã hội
bởi nhiều lý do:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta hiện nay rất coi trọng công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của mọi cá nhân, tổ
ch
ức.
Thứ hai, cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, tinh thần, ý thức
pháp luật của người dân cũng đang được nâng lên. Nhu cầu tìm hiểu pháp
luật, nắm bắt các quy định pháp luật về mọi mặt đời sống để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của bản thân mỗi cá nhân đang là một xu thế tất yếu.
Thứ ba, hội nhập kinh t
ế toàn cầu là một xu thế tất yếu của một thế
giới luôn có sự thay đổi để phát triển. Cùng với các cuộc cách mạng về khoa
học, thế giới dường như ngày càng nhỏ bé trước sức mạnh của con người.
Quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng của Việt Nam vào sân chơi quốc tế
đã đặt ra cho các chủ thể tham gia cuộc chơi yêu cầu phải hiểu biết luật chơi
11
- luật pháp quốc tế một cách bài bản. Sách pháp luật là một kênh quan trọng
đem đến tri thức cho người đọc về các kiến thức đó.
Thứ tư, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu pháp luật phục vụ công
tác giảng dạy, học tập và phục vụ nhiệm vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ
giảng viên, sinh viên, các cán bộ chức danh tư pháp ngày càng cao.
Tuy nhiên, về mặt bằng chung, sách pháp lý hiện nay dù nhiều về
số
lượng, song nội dung sách mới chỉ dừng ở việc sao chép lại các văn bản
pháp luật, số đầu sách nghiên cứu mang tính hàn lâm, sách tham khảo kinh
nghiệm nước ngoài (sách dịch thuộc tủ sách nước ngoài) còn hạn chế; nội
dung sách hướng dẫn nghiệp vụ còn khô cứng, thiếu sinh động; sách phổ
biến, hướng dẫn pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa được chú
trọng đầu tư đúng m
ức do hạn chế về kinh phí và gặp khó khăn trong việc
dịch nội dung từ tiếng Việt ra tiếng dân tộc thiểu số… Chính vì vậy, trong
thời gian tới, Nhà xuất bản Tư pháp cần tập trung nguồn lực cho hoạt động
xuất bản sách để đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, đồng thời, từng bước
tựchủ về tài chính, hướng tới sự phát triể
n bền vững trong tương lai.
2.1.3.4 Chức năng của Nhà xuất bản Tư pháp
Nhà xuất bản Tư pháp là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư pháp, có
trụ sở tại thành phố Hà Nội, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
được mở tại kho bạc và ngân hàng theo quy định của pháp luật, có các chức
năng sau đây:
- Tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; hướng d
ẫn chuyên môn, nghiệp vụ; phổ biến kiến thức, giáo dục pháp
luật, trợ giúp pháp lý nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành
Tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Xuất bản các xuất bản phẩm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của
Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi
dưỡng cán b
ộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
12
2.1.3.5. Nhiệm vụ của Nhà xuất bản Tư pháp
Điều 2 Quyết định số 1243/QĐ-BTP đã quy định những nhiệm vụ cụ
thể của Nhà xuất bản Tư pháp.
2.1.4. Cơ sở pháp lý về công tác xuất bản và các quy định, quy chế
hoạt động hiện nay của Nhà xuất bản Tư pháp
2.1.4.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về công tác xuất bản và
việc thực hiệ
n trong thực tiễn
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản có hiệu quả và đúng
pháp luật, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp thời nhiều chủ trương, chính
sách, chế độ quy định về hoạt động xuất bản phù hợp với thực tiễn, tạo điều
kiện cho hoạt động xuất bản phù hợp với thực tiễn, tạo điề
u kiện cho hoạt
động xuất bản phát triển nhanh, đúng hướng trong cơ chế kinh tế mới. Cụ
thể, Luật xuất bản đã được Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XI, kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 7 năm 2005 đã thể hiện nhiều nội dung mới, tiến bộ hơn Luật xuất
bản năm 1997. Đó là cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa th
ủ tục,
phân cấp mạnh cho cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất bản, cơ
sở in, phát hành xuất bản phẩm chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh
doanh. Đồng thời có cơ chế quản lý chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản; cho phép tư nhân có thể
liên kết cả trong khâu xu
ất bản, tổ chức biên tập, khai thác bản thảo, mua
bản quyền. (Điều 20 Luật xuất bản 2004 quy định cụ thể)
Bên cạnh đó, để có cơ sở thực hiện Luật xuất bản năm 2004 có hiệu quả,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2005/NĐ – CP ngày 26/8/2005
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản và
Ngh
ị định 105/2006/NĐ-CP ngày 21/6/2006 về in các sản phẩm không phải
là xuất bản phẩm; Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Thông tin – truyền
thông) ban hành Thông tư số 30/2006/TT-BVHTT ngày 22/02/2006 hướng
dẫn thi hành Nghị định 111/2005/NĐ-CP ngày 26/8/2005 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xuất bản. Đây
chính là hệ thống văn bản pháp luật khá hoàn chỉnh tạo hành lang pháp lý
cho hoạt động xuất bản phát tri
ển cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt
13
nhiệm vụ chính trị của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời hệ
thống văn bản pháp lụt này cũng là cơ sở pháp lý cần thiết để xử lý đối với
những hành vi vi phạm trong hoạt động xuất bản, in và phát hành.
Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42 –CT-TW ngày 25/8/2004 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng toàn diện của ho
ạt động
xuất bản, và sau 4 năm thực hiện Luật xuất bản, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, hoạt động xuất bản vẫn còn một số thiếu sót, bất cập cần được
xem xét nghiêm túc để có biện pháp khắc phục kịp thời. Đó là:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản còn thiếu,
chư
a đồng bộ, cơ chế chính sách chưa cụ thể; việc thực hiện chức năng định
hướng thông qua dự báo, thông tin, gợi ý và xây dựng các mô hình, công
nghệ mới đối với hoạt động xuất bản còn yếu.
Thứ hai, việc chấp hành quy định của pháp luật trong hoạt động xuất
bản chưa nghiêm như: quyết định xuất bản không đúng với tên sách và nội
dung đề tài đ
ã đăng ký trong kế hoạch xuất bản, không thực hiện đúng “Quy
chế liên doanh về in và phát hành xuất bản phẩm”. Tình trạng chưa nộp lưu
chiểu đã phát hành hoặc giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng
chưa được khắc phục; trong hoạt động xuất bản có biểu hiện đề cao lợi ích
kinh tế, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận bạn
đọc; một số nhà
xuất bản buông lỏng quản lý, thậm chí giao toàn bộ khâu biên tập bản thỏa
cho đối tác liên kết làm ảnh hưởng đến nội dung xuất bản phẩm và cho ra
đời những ấn phẩm xa rời tôn chỉ mục đích, thuần phong mỹ tục của dân tộc,
thậm chí còn có nội dung xấu, độc hại.
Thứ ba, một số cơ quan chủ quản chưa nhận thứ
c và thực hiện đúng
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: chưa tổ chức được bộ máy
tham mưu giúp việc về công tác xuất bản; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ
quan chức năng để tìm ra những biện pháp khắc phục những yếu kém của
Nhà xuất bản; có địa phương nhìn nhận Nhà xuất bản như một doanh nghiệp
kinh doanh thuầ
n túy, khoản thu cho ngân sách mà ít quan tâm đến việc tạo
điều kiện về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt theo luật định ; chưa
thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức tư tưởng và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo và biên tập viên. Đến nay, rất ít
14
cơ quan chủ quản ban hành được quy chế về mối quan hệ giữa cơ quan chủ
quản và Nhà xuất bản.
Thứ tư, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng ở trung
ương và địa phương trong việc kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh xuất
bản phẩm. Việc kiểm tra thị trường xuất bản phẩm không được tiến hành
thường xuyên, x
ử lý các vụ việc vi phạm cón thiếu tính kiên quyết và thiếu
tính răn đe.
Thứ năm, trình độ cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, lúng túng trước
những vấn đề mới phát sinh trong hoạt động phát hành xuất bản phẩm. Chưa
tập trung đầu tư nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm tháo
gỡ khó khăn và giải quyết kịp thời những vấn đề bất c
ập trong hoạt động,
phát hành xuất bản phẩm.
Những hạn chế, tồn tại nêu trên của hoạt động xuất bản nói chung và
của một số nhà xuất bản nói riêng, chúng tôi thấy có một số nguyên nhân cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, chưa nhận thức rõ vị trí, tính chất và mục đích của hoạt
động xuất bản, vẫn còn tình trạng một số cấp ủy
Đảng, chính quyền nhất là
cơ quan chủ quản chưa thấy rõ hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực tư tưởng
văn hóa, thậm chí coi Nhà xuất bản như cơ sở làm kinh tế đơn thuần, thiếu
quan tâm lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng.
Thứ hai, việc thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng thành
những quy định pháp lý, chế độ chính sách còn chậm, còn lúng túng, ch
ưa
đáp ứng đòi hỏi của hoạt động xuất bản. Nhiều cơ chế, chính sách về thuế,
đầu tư, đất đai, nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, gây khó khăn cho
việc xây dựng và vận hành các mô hình xuất bản mới. Việc tổ chức và triển
khai mô hình xuất bản mới còn lúng túng, bất cập, thậm chí có biểu hiện xa
rời nhiệm vụ chính trị
4
.
Thứ ba, các nhà xuất bản chưa chủ động tìm biện pháp, cách thức để
hướng tới thị trường nước ngoài. Các cơ sở in, phát hành khi tham gia quá
4
Xem: Tô Huy Ra (ã dn).
15
trình hội nhập quốc tế chưa được chuẩn bị tích cực, nghiêm túc, khoa học và
thiết thực.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chưa thật nhạy bén về
nhiều mặt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đặc biệt đội ngũ Biên
tập viên còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng với đòi hỏi c
ủa thực tiễn khách
quan.
Thứ năm, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương
và địa phương với cơ quan chủ quản đối với hoạt động xuất bản chưa chặt
chẽ.
2.1.4.2. Đánh giá các quy định, quy chế hoạt động, quy trình thực
hiện các công việc của Nhà xuất bản Tư pháp hiện nay
Nhìn lại chặng đường hơ
n 5 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của
Ban Bí thư trung ương, các nhà xuất bản nói chung và Nhà xuất bản Tư pháp
nói riêng đã nỗ lực nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản,
đặc biệt Nhà xuất bản Tư pháp đã bám sát và phục vụ có hiệu quả những
nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước và của ngành, xuất bản được
nhiều tác ph
ẩm, công trình nghiên cứu khoa học và xây dựng được một số tủ
sách có giá trị, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, phát triển cả về
tiềm lực, năng lực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xuất bản phẩm của xã
hội, góp phần xứng đáng vào phát triển một nền xuất bản độc lập, tự chủ
theo định hướ
ng XHCN. Sau 6 năm hoạt động, Nhà xuất bản Tư pháp đã có
bước trưởng thành đáng khích lệ và thu được những kết quả quan trọng trên
các mặt công tác, tạo tiền đề cho hoạt động xuất bản phát triển một cách bền
vững.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua mà chúng tôi đã
nêu ở trên là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2008 một số
mặt hoạt
động của Nhà xuất bản Tư pháp trên một số lĩnh vực vẫn còn bộc
lộ một số hạn chế, mà những hạn chế này theo chúng tôi có liên quan đến
hoạt động xây dựng thể chế, đặc biệt là các quy chế thực hiện dân chủ, quy
chế làm việc, quy chế liên kết xuất bản, quy định tạm thời về phân loại và
16
định mức lao động của Nhà xuất bản Tư pháp chậm được hoàn thiện. Cụ
thể nội dung này cvhúng tôi đã trình bày trong đề án.
2.2. Thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý hiện nay của Nhà
xuất bản Tư pháp
2.2.1. Thực trạng năng lực xuất bản sách pháp lý của Nhà xuất bản
Tư pháp trên cơ sở đánh giá nhu cầu của xã hội đối với sách pháp lý
2.2.1.1. Thực trạng hoạt
động biên tập và hoạt động thiết kế, chế bản
của Nhà xuất bản Tư pháp
* Thực trạng hoạt động biên tập của Nhà xuất bản Tư pháp
Hiện nay Nhà xuất bản Tư pháp chỉ có 1 Ban biên tập với 10 biên tập
viên, phân công biên tập tất cả các loại sách thuộc lĩnh vực xuất bản của Nhà
xuất bản, do vậy, nên chưa có sự chuyên sâu đối với từng mả
ng sách.
Trong thời gian qua Ban biên tập đó giúp Lãnh đạo Nhà xuất bản tổ
chức, biên tập bản thảo và quản lý hoạt động biên tập nội dung các ấn phẩm
liên kết theo kế hoạch được duyệt nhằm thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phục
vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu nghiên cứ
u, tìm hiểu
pháp luật của nhân dân.
Kể từ khi thành lập Nhà xuất bản tháng 10 năm 2003 đến hết năm
2008 Nhà xuất bản Tư pháp đã xuất bản được 1050 đầu sách, trong đó: hai
tháng cuối năm 2003 : 10 đầu sách; năm 2004: 107 đầu sách; năm 2005: 287
đầu sách; năm 2006: 310 đầu sách; năm 2007: 228 đầu sách; năm 2008: 108
đầu sách; năm 2009: 115 đầu sách.
Đại đa số các ấn phẩm của Nhà xuất bản Tư pháp được xuất b
ản đều
đảm bảo chất lượng cả về nội dung và hình thức, không để xảy ra những sai
phạm dẫn đến phải xử lý kỷ luật như khiển trách, cảnh cáo, buộc thu sách về
hay phải có những đính chính lớn về nội dung. Các ấn phẩm của Nhà xuất
bản được đánh giá là có hình thức đẹp và nội dung đáp ứng được nhu cầu
bạn đọc, thiết thự
c với cuộc sống. Các năm 2005, 2006, 2008 Nhà xuất bản
đều có ấn phẩm đạt giải thưởng sách hay, sách đẹp do Hội xuất bản Việt
17
nam tổ chức. Điều này cũng được thể hiện qua kết quả khảo sát trên 311
người (cán bộ lãnh đạo, quản lý hành chính nhà nước, cộng tác viên của Nhà
xuất bản Tư pháp và sinh viên Trường Đại học Luật Hà nội). Cụ thể: 55,6%
người được hỏi cho rằng Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản ấn phẩm pháp lý có
nội dung tốt nhất so với các nhà xuất bản khác như Nhà xuất bản Chính tr
ị
quốc gia, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Nhà xuất bản Lao động xã hội,
Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Nhà xuất bản Lao động. Có 93% số
người được hỏi cho rằng Nhà xuất bản Tư pháp quan tâm đến chất lượng nội
dung ấn phẩm.
Tuy nhiên, công tác biên tập của Nhà xuất bản Tư pháp còn một số tồn
tại và hạn chế sau:
- Trong công tác biên tập còn có lỗi kỹ thuật cần hiệu đính, công tác
phát hiệ
n đề tài còn hạn chế.
- Số lượng đầu sách tự in còn hạn chế, chủ yếu là sách đặt hàng, sách
liên kết. Qua kết quả khảo sát cho thấy 46,6% số người được hỏi cho rằng
chủ đề sách của Nhà xuất bản Tư pháp còn chưa phong phú.
- Tiến độ biên tập đôi khi còn hạn chế.
Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên:
- Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao và sâu, Biên tập
viên chưa được đ
ào tạo chính quy về công tác biên tập
- Biên tập viên còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tạo dựng mối
quan hệ tổ chức bản thảo, khai thác đề tài.
- Nhà xuất bản chưa có kế hoạch đề tài phù hợp với khả năng biên tập
của Ban biên tập và khả năng phát hành của Nhà xuất bản, từ đó nhà xuất
bản chưa có kế hoạch sản xuất phù hợp trong từng giai đoạn nên hiệ
u quả
hoạt động không cao.
- Khả năng phát hành của Nhà xuất bản Tư pháp còn hạn chế nên ảnh
hưởng đến số lượng xuất bản phẩm.
18
- Nhu cầu tự tìm hiểu pháp luật, nghiên cứu chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước trong nhân dân nhìn chung còn ở mức độ, trong khi các
ấn phẩm của Nhà xuất bản chủ yếu là tuyên truyền phổ biến pháp luật,
nghiên cứu chính trị pháp lý, hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp, văn bản pháp
luật vì vậy đối tượng chủ yếu là các cơ quan đơn vị trường học
* Thực trạng công tác thiết kế, chế bả
n của Nhà xuất bản Tư pháp
Hiện nay công tác thiết kế chế bản của Nhà xuất bản được bố trí nằm
trong Phòng Kế hoạch sản xuất, để làm nhiệm vụ Nhà xuất bản có 2 họa sỹ,
2 cán bộ chính thức làm công tác chế bản, đã đạt được những kết quả sau:
- Đã tạo nên phong cách riêng cho ấn phẩm của Nhà xuất bản
- Ruột sách có nhiều kiểu trình bày phù hợp vớ
i mọi đối tượng bạn
đọc
- Bìa sách đẹp ấn tượng, phù hợp với thể loại sách và phù hợp với nội
dung sách.
Tuy nhiên, công thiết kế, chế bản của Nhà xuất bản Tư pháp còn một số
tồn tại và hạn chế sau:
- Công tác thiết kế chế bản có cán bộ riêng không kiêm nhiệm việc
khác nên thời gian rảnh rỗi còn nhiều.
- Hiện nay cán bộ chế bản chỉ đổ khổ
và dàn trang chưa thực hiện việc
sửa lỗi trên bông biên tập nên tay nghề không được nâng cao và đồng thời
khối lượng công việc lại dồn lên đầu biên tập viên quá lớn nên dẫn đến có sự
mất cân đối trong khối lượng công việc mỗi cán bộ Nhà xuất bản phải thực
hiện.
- Việc thiết kế chưa chuyên nghiệp và hiện đại do máy móc cũ kỹ lạc
hậu.
- Việc thiế
t kế chưa chủ động sáng tạo còn phụ thuộc và ý tưởng của
đối tác bên ngoài.
2.2.1.2. Thực trạng công tác in, phát hành sách pháp lý, công tác xuất
bản sách liên kết của Nhà xuất bản Tư pháp
19
* Thực trạng công tác in của Nhà xuất bản Tư pháp
Nhà xuất bản Tư pháp với xuất phát điểm là một Nhà xuất bản chuyên
ngành, phần lớn đội ngũ cán bộ chưa qua chuyên ngành xuất bản mà chủ yếu
được đào chuyên ngành Luật, trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu, chưa
có xưởng in. Tuy nhiên, qua 6 năm được thành lập và đi vào hoạt động, Nhà
xuất bản Tư pháp đã xây dựng được th
ương hiệu và có vị thế trong ngành
xuất bản. Quy trình phối hợp hoạt động của các mảng công tác trong đơn vị
đã được xây dựng và hoàn thiện, trong đó có công tác in xuất bản phẩm.
Quy trình in được triển khai thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định tại Luật
đấu thầu năm 2005 (báo giá cạnh tranh hoặc chào hàng cạnh tranh). Do chưa
có nhà in nên trong những năm qua Nhà xuất bản Tư pháp đã tổ chức in các
xuấ
t bản phẩm tại rất nhiều đơn vị in khác nhau, nhìn chung đã lựa chọn
được các cơ sở in tốt đảm bảo được chất lượng ấn phẩm, chất lượng phục
vụ, giá thành và tiến độ, trong đó có các đơn vị như: Công ty in Văn hoá
phẩm, Công ty in Ba Đình- Bộ Công An; Công ty Cổ phần in Diên Hồng -
Nhà xuất bản giáo dục Tuy nhiên quá trình thực hiện còn có nhiều khó
khăn, do các ấn phẩm được in t
ại nhiều đơn vị in khác nhau nên ảnh hưởng
đến chất lượng, đặc biệt chưa chủ động về tiến độ đối với những đầu sách in
gấp, đồng thời vẫn xảy ra hiện tượng sách bị in lậu với chất lượng không
đảm bảo, ảnh hưởng đến uy tín và vấn đề về bản quyền trong công tác nối
bản, tái bản của Nhà xuất bản Tư
pháp
* Thực trạng công tác phát hành
Trong những năm qua, đặc biệt là năm 2009, mặc dù bị ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế nhưng Nhà xuất bản Tư pháp vẫn nỗ lực khắc phục khó
khăn, bên cạnh việc phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, của
ngành Tư pháp, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, đạt mức tăng
trưởng cao hơn năm trước. So v
ới các mảng công tác khác, công tác phát
hành cũng có những chuyển biến tích cực, đó tập trung trong việc đầu tư
nắm bắt nhu cầu thị trường, từ đó cung cấp cho thị trường những ấn phẩm
vừa đáp ứng nhiệm vụ chính trị, vừa phù hợp với thị hiếu lành mạnh của
bạn đọc. Công tác khai thác, mở rộng mạng lưới khách hàng, tuyên truyền
quảng cáo đã được chú tr
ọng. Các thể loại sách đã được quan tâm, đặc biệt
20
là các loại sách tuyên truyền pháp luật, sách thôn, bản, tổ phố dành cho nhân
dân và cán bộ cấp cơ sở, sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó
sách luật là thể loại phát hành rất hiệu quả, có những đầu luật số lượng bản
in lên tới trên 6000 bản (Luật thi hành án Dân sự).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xuất bản sách
pháp lý của Nhà xuất bản Tư pháp vẫn còn không ít hạn chế, nhấ
t là khâu
lựa chọn đề tài và công tác phát hành. Thực tế cho thấy một số đầu sách Luật
(Song ngữ), sách nghiên cứu do đề tài chưa phù hợp, đồng thời công tác phát
hành chưa năng động trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng tồn kho
nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.
Thị trường phát hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các cơ
quan Tư pháp, các cơ quan Thi hành án, Viện Kiểm sát, Toà án nhân dân các
tỉnh trong khi đó các huyện biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa mạng lưới
phát hành còn yếu và nhu cầu tiêu thụ sách pháp luật nói riêng cũng như các
loại sách khác đạt tỷ lệ chưa cao.
* Thực trạng công tác xuất bản sách liên kết của Nhà xuất bản Tư
pháp
Ngay từ khi thành lập và đặc biệt trong những năm gần đây, được sự
quan tâm, tạo điều kiện của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, các đơn v
ị thuộc Bộ, các
Sở Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương, công tác xuất bản sách liên kết của
Nhà xuất bản Tư pháp ngày được đẩy mạnh. Từ những cuốn sách liên kết
đầu tiên với Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Kạn, Sở
Tư pháp tỉnh Hải Dương như Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của
tỉnh Tuyên Quang, Hải Dươ
ng, Bắc Kạn trong các năm 2003, 2004 và đặc
biệt phối hợp với một số các Sở Tư pháp thành lập các trung tâm giới thiệu
sách pháp luật tại địa phương để phát hành các ấn phẩm sách pháp luật,
trong đó có phát hành đến các tủ sách Thôn, bản, tổ phố phục vụ cho nhân
dân và cán bộ cấp cơ sở góp phần tạo nên thương hiệu của Nhà xuất bản Tư
pháp. Bên cạnh đó, việc phối hợ
p với các đơn vị thuộc Bộ như Văn phòng
Bộ Tư pháp, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật, Vụ Phổ biến giáo
dục pháp luật, tiến hành làm các sách hướng dẫn nghiệp vụ phục vụ cho
ngành Tư pháp như: 101 tình huống pháp luật, Tình huống nghiệp vụ kiểm
21
tra văn bản, Nhà xuất bản Tư pháp còn phối hợp với các trường đào tạo cử
nhân Luật, đào tạo các chức danh tư pháp như Đại học Luật Hà Nội, Khoa
Luật - Viện đại học Mở, Học viện Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Kinh tế
quốc dân xuất bản các loại giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy Liên k
ết với các Nhà sách,
các công ty phát hành sách như Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa – TP Hồ
Chí Minh, Công ty văn hoá Phương Nam, Nhà sách Đông Tây, Tổng công ty
Phát hành sách Việt Nam xuất bản các sách luật mới, bình luận, chỉ dẫn áp
dụng pháp luật
Trong những năm qua, công tác xuất bản sách liên kết đã góp phần đẩy
mạnh hoạt động xuất bản cũng như tạo nên uy tín, thương hiệu của Nhà xuất
bản Tư pháp. Từ một đơn vị mới thành l
ập với đội ngũ cán bộ và trang thiết
bị còn thiếu, đến nay đã đạt được những kết quả nhất định trong việc xuất
bản sách pháp luật. Hơn thế, liên kết trong hoạt động xuất bản là một trong
những hình thức quan trọng góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong
hoạt động xuất bản. Sự kết hợp này không chỉ mang lại lợi ích cho cả
hai
bên mà còn mang đến lợi ích cho cả người đọc…
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, NXB vẫn đang gặp phải một
số khó khăn đó là không có vốn hoạt động, hệ thống phát hành chưa hiệu
quả, cơ quan chủ quản không hỗ trợ vốn kinh doanh Một vấn đề rất trăn
trở là chúng ta vừa tìm lối đi riêng nhưng rất khó khi một mặt phải đảm bảo
đờ
i sống cho cán bộ, công chức, viên chức, mặt khác phải đảm bảo về tính
tư tưởng, nội dung chính trị xã hội cho xuất bản phẩm và thực hiện nhiệm vụ
chính trị do ngành Tư pháp đã giao.
2.2.1.3. Thực trạng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của Nhà xuất
bản tư pháp
* Thực trạng về cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bả
n Tư pháp
Nhà xuất bản Tư pháp được thành lập theo Quyết định số
396/2003/QĐ-BTP ngày 08/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, theo Quyết
định này cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản bao gồm:
22
- Cơ cấu lãnh đạo (cấp Vụ) bao gồm: 01 Giám đốc – Tổng Biên tập và
các Phó Giám đốc.
- Các Phòng, ban trực thuộc gồm: Phòng Tổ chức – Hành chính –
Tổng hợp; Phòng Kế hoạch – Phát hành; Phòng Thiết kế – Chế bản; Phòng
Tài chính – Kế toán; Ban Biên tập.
Nhìn chung cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà xuất bản Tư pháp từ khi
thành lập đến nay, qua từng giai đoạn phát triển khác nhau đã từng bước
được đổi mới, ki
ện toàn và hoàn chỉnh theo hướng hợp lý hơn; chức năng,
nhiệm vụ của các phòng, ban được quy định rõ ràng hơn, bước đầu đã hạn
chế được những chồng chéo, bất cập, do đó công tác chỉ đạo, điều hành cũng
có những thuận lợi nhất định.
Tuy nhiên trước yêu cầu hội nhập, mở cửa và cải cách hành chính,
qua một thời gian vận hành, tổ chức bộ máy của Nhà xu
ất bản đã bộc lộ
nhiều bất cập, hạn chế như:
- Chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị trực thuộc chưa rõ ràng và
còn chồng chéo; cơ chế quản lý còn nhiều kẽ hở; đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp phòng trở lên còn thiếu dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành chưa thông suốt
và hiệu quả;
- Các quy trình, quy chế hoạt động và phối hợp hợp động của đơn vị
còn thiếu và nếu có thì đã lạc hậu, do đó việc phối hợp giữa các khâu công
tác phát sinh nhiều vướng mắc, thời gian xử lý công việc do vậy thường bị
kéo dài, ảnh hưởng đến kế hoạch chung của đơn vị.
- Vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể không được phát huy đầy đủ,
chức nă
ng giám sát không hiệu quả, thiếu các cơ chế để kiểm tra giám sát
lẫn nhau trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn như có những việc chỉ do một
phòng làm từ khâu đầu đến khâu cuối với quy trình khép kín, không có sự
kiểm tra thường xuyên; có hiện tượng không minh bạch, không công khai,
thiếu dân chủ trong các hoạt động của cơ quan, đơn vị, do đó đã dẫn đến
nhiều sai phạm trong quá trình điều hành và quản lý đơ
n vị của một số cán
bộ lãnh đạo.
23
Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, đồng thời phát huy
những mặt tích cực đã đạt được, ngày 09/6/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã
ký Quyết định số 1243/QĐ-BTP quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản Tư pháp, theo đó cơ cấu tổ chức của
Nhà xuất bả
n như sau:
- Lãnh đạo Nhà xuất bản Tư pháp gồm có Giám đốc - Tổng Biên tập,
các Phó Giám đốc, Phó Tổng Biên tập
- Các Phòng, ban trực thuộc bao gồm: Ban Biên tập; Phòng Tổ chức
– Hành chính; Phòng Quản lý phát hành; Phòng Kế hoạch, sản xuất; Phòng
Tài chính – Kế toán.
Ngoài ra, căn cứ vào yêu cầu công việc và điều kiện thực tế, Nhà xuất
bản Tư pháp có thể thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số
địa phương theo quy đị
nh của pháp luật.
Ngoài ra, việc Bộ Tư pháp cho phép Nhà xuất bản được thành lập các
đơn vị sự nghiệp trực thuộc là một bước đổi mới rất lớn trong công tác tổ
chức bộ máy của đơn vị. Điều này góp phần nâng cao tính tự chủ trong hoạt
động của Nhà xuất bản để có thể sớm hoàn thành mục tiêu tự chủ hoàn toàn
từ sau năm 2013 theo như lộ trình mà đề án kiệ
n toàn tổ chức, đổi mới hoạt
động của Nhà xuất bản Tư pháp đến năm 2020 đã được Bộ trưởng phê
duyệt.
Ngay sau khi Quyết định trên có hiệu lực, Nhà xuất bản Tư pháp đã
tiến hành rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các phòng ban cho phù hợp
với tình hình thực tế. Việc thực hiện, về cơ bản là thuận lợi, tuy nhiên cũng
nẩy sinh mộ
t số vấn đề khó khăn vướng mắc như: do công tác quy hoạch để
đào tạo bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo trước đây chưa được chú trọng, do
đó khi cần cán bộ để bổ nhiệm từ nguồn tại chỗ gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, trong 5 Phòng, ban mới có 4 Phòng có cấp trưởng, 01 phòng do
cấp phó Phụ trách, các Phòng ban khác mới chỉ có 1 phòng (Tổ chức – Hành
chính) có cấp phó giúp việc cho trưởng phòng; chứ
c năng, nhiệm vụ của các
Phòng, ban mặc dù đã được điều chỉnh hợp lý hơn những vẫn còn những
24
chồng chéo, bất cập do Nhà xuất bản chưa xây dựng xong quy chế làm việc
và phối hợp giữa các Phòng, ban, việc triển khai công việc do vậy vẫn còn
những lúng túng, vưỡng mắc.
* Thực trạng về đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp
Đội ngũ cán bộ hiện có của Nhà xuất bản Tư pháp là 42 người, trong
đó cán bộ trong biên chế là 28 người (chiếm %), cán bộ hợp đồng là 24
người (chi
ếm %), cơ cấu cụ thể như sau:
- Về cơ cấu ngạch: có 01 người (chiếm 2,4%) là chuyên viên cao cấp
(biên tập viên cao cấp), có 04 người (chiếm 9,5%) là chuyên viên chính, có
33 người chiếm 78,6% là chuyên viên và 04 người (chiếm 9,5%) là cán sự.
- Về trình độ chuyên môn: có 01 người (chiếm 2,4%) là tiến sỹ, có 06
người (chiếm 14,3%) là thạc sỹ, có 32 người (chiếm 76,2%) là đại học, có
03 người (chiếm 7,1%) là từ cao đẳng trở xuống.
- Về trình độ lý luận chính trị: 04 ngườ
i (chiếm 9,5%) có trình độ cao
cấp; 35 người (chiếm 83,4%) có trình độ trung cấp; 03 người (chiếm 7,1%)
có trình độ sơ cấp.
- Về cơ cấu lãnh đạo: có 02 người (chiếm 4,8%) là lãnh đạo cấp Vụ,
có 06 người (chiếm 14,3%) là lãnh đạo cấp Phòng.
- Về trình độ ngoại ngữ: 04 người (chiếm 9,5%) có trình độ đại học
hoặc D trở lên; 05 người (chiếm 11,9%) có trình độ C; 33 người (chiếm
78,6%) có trình độ B trở xuống.
- Về trình độ tin h
ọc: 100% cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp đều ít
nhất có trình độ từ A trở lên.
- Về độ tuổi: 10 người (chiếm 23,8%) có độ tuổi dưới 30 tuổi; 31
người (chiếm 73,8%) có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi; 01 người (chiếm 2,4%)
có độ tuổi trên 50.
- Về cơ cấu giới: 10 nam (chiếm 23,8%); 32 nữ (chiếm 76,2%).
Nhìn chung thì đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Tư pháp là có chất
lượng (trình
độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ cao; trình độ ngoại ngữ,