Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nghiên Cứu Tính Đa Dạng Tài Nguyên Cây Thuốc Và Đề Xuất Giải Pháp Bảo Tồn Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Thần Sa Phượng Hoàng, Tỉnh Thái Nguyên.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------

PHẠM THẾ VIỆT

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG TÀI NGUYÊN CÂY
THUỐC VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN THẦN SA
PHƯỢNG HOÀNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Lâm học
Mã ngành: 8.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thoa

Thái Nguyên - 2020


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là
trung thực, do bản thân tôi thực hiện và chưa từng được công bố. Mọi sự giúp
đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong
luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày

tháng 01 năm 2021

Tác giả


Phạm Thế Việt


ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành theo chương trình đào tạo Cao học
Lâm nghiệp của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên khóa 26.
Luận văn là một trong những nội dung nghiên cứu quan trọng của đề
tài “Điều tra hiện trạng phân bố và xây dựng kế hoạch bảo tồn tại chỗ các
loài dược liệu trong khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa – Phượng Hoàng” do
Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa – Phượng Hoàng thực hiện và
TS. Nguyễn Thị Thoa đại diện nhóm tư vấn.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ của Phịng Đào tạo Sau đại học, các thầy, cơ giáo
Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên, các cán bộ kiểm lâm
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa Phượng Hoàng, bà con nhân dân các xã
trong khu bảo tồn. Nhân dịp này tác giả xin chân thành cảm ơn về sự giúp
đỡ quý báu đó.
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn
Thị Thoa - người hướng dẫn khoa học, đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình
giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức q báu và dành những tình cảm tớt
đẹp cho tác giả trong suốt thời gian công tác, học tập cũng như trong thời
gian thực hiện luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn tập Ban Giám đốc Khu bảo tồn thiên
nhiên Thần Sa – Phượng Hoàng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả
triển khai đề tài cũng như thu thập số liệu ngoại nghiệp phục vụ cho luận văn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và
người thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian
học tập và hoàn thành luận văn này.
Tác giả



iii
DANH MỤC VIẾT TẮT

BVTV

: Bảo vệ thực vật

BTTN

: Bảo tồn thiên nhiên

IUCN

: International Union for Conservation of Nature and Natural Resources
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế

KBT

: Khu bảo tồn

LSNG

: Lâm sản ngoài ghỗ

NXB

: Nhà xuất bản




: Quyết định

QLKBT

: Quản lý khu bảo tồn

UBND

: Ủy ban nhân dân

WHO

: Orld Health Organization
Tổ chức Y tế thế giới


iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii
DANH MỤC VIẾT TẮT ............................................................................................ iii
MỤC LỤC ...................................................................................................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
1. Đặt vấn đề .................................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................3
3. Ý nghĩa của đề tài .....................................................................................................3
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học .....................................................3

3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn ..........................................................................................3
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................................4
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ......................................4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .....................................................................4
1.1.1.2. Nghiên cứu về đa dạng cây dược liệu ..............................................................5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .....................................................................10
1.2. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu .....................................23
1.2.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................................23
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội..................................................................................25
CHƯƠNG 2.NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................27
2.1. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................27
2.2. Thời gian nghiên cứu: ..........................................................................................27
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................27
2.4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................27
2.4.1. Kế thừa các tài liệu ...........................................................................................27
2.4.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu ..............................................................28
2.4.3. Xử lý số liệu ......................................................................................................32
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................34


v
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..........................................................34
3.1. Đa dạng tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng............34
3.1.1. Đa dạng về bậc ngành .......................................................................................34
3.1.2. Đa dạng bậc họ..................................................................................................36
3.1.3. Đa dạng bậc chi .................................................................................................37
3.1.4. Đa dạng về giá trị bảo tồn nguồn gen cây thuốc ...............................................38
3.2. Hiện trạng khai thác, phát triển cây thuốc tại Khu BTTN Thần Sa - Phượng
Hồng ..........................................................................................................................39
3.2.1. Đặc điểm phân bớ của một số loài cây thuốc trên các tuyến điều tra ...............39

3.2.2. Hiện trạng khai thác, phát triển cây thuốc tại địa bàn nghiên cứu ....................42
3.3. Kiến thức bản địa của người dân trong việc sử dụng, chế biến cây thuốc của
cộng đồng ....................................................................................................................45
3.3.1. Các nhóm bệnh và số loài cây thuốc để chữa trị ..............................................45
3.3.2. Sử dụng các bộ phận của cây để làm thuốc ......................................................48
3.4. Bản đồ phân bố một số loài cây được sử dụng làm thuốc có giá trị ....................51
3.5. Những hạn chế, thuận lợi trong bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc tại
Khu bảo tồn Thần Sa - Phượng Hoàng .......................................................................51
3.5.1. Những hạn chế ..................................................................................................51
3.5.2. Những thuận lợi ................................................................................................ 52
3.6. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển cây thuốc tại Khu BTTN Thần Sa Phượng Hoàng ............................................................................................................52
3.6.1. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân
về bảo tồn đa dạng sinh học và tài nguyên dược liệu ................................................53
3.6.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý về dược liệu ...........................................53
3.6.3. Giải pháp chế biến, tiêu thụ sản phẩm dược liệu ..............................................54
3.6.4. Giải pháp về kỹ thuật ........................................................................................54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................56
1. Kết luận ...................................................................................................................56
2. Tồn tại .....................................................................................................................58
3. Kiến nghị .................................................................................................................58


vi
- Thử nghiệm nhân giống một số loài cây thuốc đặc biệt là các loài quý hiếm ..............58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................59
PHỤ LỤC....................................................................................................................40


vii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tuyến điều tra thực địa ...............................................................................29
Bảng 3.1. Sự phân bố cây dược liệu theo từng ngành thực vật tại Khu BTTN
Thần Sa - Phượng Hoàng ............................................................................................34
Bảng 3.2. Các họ đa dạng nhất của tài nguyên cây thuốc Khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa - Phượng Hoàng ............................................................................................36
Bảng 3.3. Các chi đa dạng nhất của tài nguyên cây thuốc tại Khu bảo tồn
thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng .........................................................................37
Bảng 3.4: Tình trạng bảo tờn các loài quý hiếm theo mức độ phân hạng ..................38
Bảng 3.5. Đặc điểm phân bố của một số loài cây thuốc quý hiếm .............................40
Bảng 3.6. Danh mục loài cây thuốc ưu tiên phát triển ở khu vực
Thần Sa - Phượng Hoàng ............................................................................................43
Bảng 3.7. Đa dạng về nhóm loài cây thuốc chữa bệnh và các nhóm bệnh .................45
Bảng 3.8. Các bộ phận dùng của cây thuốc ở Thần Sa - Phượng Hoàng ...................48
Bảng 3.9. Các cách dùng cây Dược liệu ở Thần Sa - Phượng Hoàng ........................50


1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên quý giá, là một bộ phận quan trọng của môi trường
sống, luôn gắn liền với đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi. Rừng
không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu
khoa học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn đa dạng sinh học, điều hoà khí hậu,
phịng hộ đầu ng̀n, hạn chế thiên tai, ngăn chặn sự hoang mạc hoá, chống
xói mòn, sạt lở đất, ngăn ngừa lũ lụt, đảm bảo an ninh q́c phịng, đờng thời
rừng cũng tạo cảnh quan phục vụ cho du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Việt Nam nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ở
châu Á, được đánh giá là nước đứng thứ 16 trên thế giới về sự phong phú và
đa dạng của sinh vật. Hệ thực vật Việt Nam cũng được biết đến rất đa dạng và
phong phú. Theo ghi nhận của Phạm Hoàng Hộ (1999) có khoảng 10.500 loài

thực vật bậc cao có mạch và dự đoán có đến 12.000 loài; trong đó, số loài cây
dùng làm thuốc chiếm khoảng 36%. Theo kết quả điều tra của Viện Dược liệu,
Bộ Y tế đã xác định ở Việt Nam có 3.948 loài cây thuốc. Võ Văn Chi (2012)
đã thống kê ở Việt Nam hiện có gần 4.700 loài thực vật làm thuốc.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số hiện nay trên thế
giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng (Akérelé). Trong tuyên ngôn Alma Alta năm 1978 và "Hướng dẫn đánh
giá y học cổ truyền" năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ
truyền vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả
cũng như bảo đảm nguồn cung cấp những thuốc này.
Lợi ích nhiều mặt thu được từ nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam
thực sự là lớn lao. Song thực trạng hiện nay do con người đang gây ra là một
thảm hoạ, nạn phá rừng tràn lan, khai thác dược liệu bừa bãi, chưa có kế hoạch
tái sinh phát triển, nhiều loài cây thuốc mọc tự nhiên cho nhiều loại dược liệu


2
quý trong rừng bị phá huỷ đã và đang làm cho vốn quý đa dạng sinh học cây
dược liệu ngày càng bị cạn kiệt.
Việt Nam cũng có một lịch sử lâu đời trong sử dụng cây cỏ tự nhiên và
một nền y học cổ truyền có bản sắc riêng để phòng và chữa bệnh cho con
người. Nằm trong khu vực nhiệt đới Đông Nam Á có đa dạng sinh học rất cao.
Theo ước tính Việt Nam có khoảng trên 12.000 loài thực vật bậc cao, chiếm
khoảng 4-5% tống số loài thực vật bậc cao đã biết trên thế giới và khoảng 25%
số loài thực vật bậc cao đã biết ở châu Á. Trong sớ này, có khoảng 4.000 lồi
thực vật và 400 loài động vật được dùng làm thuốc. Thế nhưng, các thuốc này
mới chủ yếu được sử dụng trong điều trị bằng phương pháp y học cổ truyền và
y học dân gian Việt Nam. Thị trường dược liệu ở Việt Nam vẫn trong tình
trạng thả nổi, thiếu sự quản lý của các cơ quan có chức năng quản lý ví dụ:
khai thác thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá cả quản lý thị

trường, chất lượng dược liệu thuộc Sở Y tế.
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng được thành lập tại
Quyết định số 3841/QĐ-UB ngày 01 tháng 12 năm 1999 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Thái Nguyên, được tổ chức lại tại Quyết định số 1963/QĐ-UBND, ngày
31/8/2012 của UBND tỉnh Thái Nguyên, diện tích được Nhà nước giao
quản lý, bảo vệ, phát triển là 19.913,54 ha. Khu bảo tồn có hệ sinh thái rừng
núi đá độc đáo, có tính đa dạng sinh học phong phú với nhiều nguồn gen
động thực vật quý hiếm và nhiều hệ sinh thái chuẩn của vùng núi đá, tài
nguyên rừng còn nhiều cây gỗ lớn là rừng tự nhiên giáp ranh với 3 tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Lạng Sơn, có chiều dài trên 40 km vùng rừng giáp ranh,
là khu vực phịng thủ an ninh q́c phịng của Nhà nước và là khu rừng quý
duy nhất của tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài: Nghiên cứu tính đa dạng tài nguyên cây thuốc và đề xuất giải
pháp bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, tỉnh
Thái Nguyên, nhằm xác định thực trạng và tiềm năng, làm cơ sở quan trọng


3
đề xuất xây dựng các giải pháp bảo tồn tại chỗ, xây dựng vườn dược liệu, các
giải pháp đồng bộ về khai thác có kiểm soát trong việc bảo tồn và đi đôi với
phát triển bền vững cây dược liệu trong khu vực. Luận văn là một phần nội
dung của nhiệm vụ: “Điều tra hiện trạng phân bố và xây dựng kế hoạch bảo
tồn tại chỗ các loài dược liệu trong khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa – Phượng
Hoàng”, của khu bảo tồn được thực hiện năm 2019-2020.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được tính đa dạng tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Thần
Sa - Phượng Hoàng, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên cây thuốc tại
Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển các loài cây

thuốc nói riêng và hệ thực vật nói chung tại khu vực nghiên cứu.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Qua việc thực hiện đề tài sẽ giúp học viên làm quen với việc nghiên
cứu khoa học, củng cố kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tế; biết
cách thu thập, phân tích và xử lý thông tin.
- Bổ sung dẫn liệu về tính đa dạng tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN
Thần Sa - Phượng Hoàng, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là những dẫn liệu cập nhật và là cơ sở khoa học cho
việc đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc trong hệ sinh
thái rừng tại Khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng.


4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu
Từ ngày xưa, thậm chí đến ngày nay. Người ta nghĩ rằng bệnh tật là do sự
trừng phạt của các thế lực siêu tự nhiên. Do đó các thầy lang đã chữa bệnh bằng
các lời cầu nguyện, nghi lễ cúng thần linh và ma lực của cây cỏ. Cây cỏ làm thuốc
được lựa chọn bởi màu sắc, mùi, hình dáng hay sự hiếm có của chúng. Việc sử
dụng cây cỏ làm th́c là quá trình mị mẫm rút kinh nghiệm trải qua nhiều thế hệ.
Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy người Neanderthal cổ ở Iraq từ 60.000 năm
trước đã biết sử dụng một số cây cỏ mà ngày nay vẫn thấy sử dụng trong y học cổ
truyền như cỏ thi, cúc bạc,... Người dân bản xứ Mehico từ nhiều nghìn năm trước
đã biết sử dụng Xương rồng Mehico mà ngày nay được biết là chứa chất gây ảo
giác, kháng khuẩn (Theo Farnsworth N.R. and Soejarto D.D. (1991).

Các tài liệu cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc đã được người Ai Cập cổ
đại ghi chép trong khoảng thời gian 3.600 năm trước đây với 800 bài thuốc và
trên 700 cây thuốc trong đó có Lan kim tuyến (cỏ nhung), hoàng thảo tam bảo
sắc, hoàng thảo henri, lan phi điệp, cây thất diệp nhất chi hoa, hoàng liên chân
chim, quả toả dương, tam thất hoang, bạch hạc thunia, củ bạch đẳng sâm, sâm
đương quy, sâm cheo, sâm cau, quả toả dương,cây râu hùm, bát giác niên, nấm
hác linh chi, linh chi cổ cò, chè dây, cây hoằng đằng, hà thủ ơ, cớt toái, máu chó,
cây chìa vơi, Người Trung Quốc cổ đại ghi chép trong bộ Thần nông Bản thảo
(khoảng 5.000 năm trước đây) 365 vị thuốc và loài cây thuốc. Người Ấn Độ cổ
đại đã ghi chép nền y học của người Hinđu khoảng 2.000 năm trước, trong đó có
các loài cây gây ngủ, ảo giác, chữa rắn cắn,… (Theo Farnsworth N.R. and
Soejarto D.D. (1991).


5
Tư liệu từ Tổ chức bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế
(IUCN) cho biết, trong số 43.000 loài thực vật mà tổ chức này có thông tin, thì
có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác
nhau. Trong tài liệu “Các loài thực vật bị đe dọa ở Ấn Độ” xuất bản năm 1980 đã
đề cập tới 200 loài, trong đó phần lớn là cây thuốc. Hay trong bộ “Trung Q́c
thực vật hờng bì thư” (Sách đỏ về thực vật của Trung Quốc), năm 1996 cũng giới
thiệu tới gần 200 loài được sử dụng làm thuốc cần bảo vệ. Vấn đề bảo tồn đa
dạng nói chung và vào tồn cây thuốc nói riêng đang được nhiều Quốc gia và các
tổ chức quốc tế quan tâm. (Theo Nguyễn Tập, 2007).
1.1.1.2. Nghiên cứu về đa dạng cây dược liệu
Nghiên cứu đa dạng loài cây dược liệu nhằm mục đích bảo tồn nguồn tài
nguyên này trên thế giới để phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe con
người, cho sự phát triển của xã hội và để chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết
phải kết hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại với y học cổ truyền của các
dân tộc là một vấn đề cấp thiết. Chính từ những kinh nghiệm của y học cổ truyền

đã giúp cho nhân loại khám phá ra những loại thuốc có ích trong tương lai. Cho
nên, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức quan
trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về thực hiện chương trình Quốc gia kết
hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đến năm 1985, trên toàn thế giới đã
biết tới trên 20.000 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao (trong tổng số hơn
250.000 loài thực vật đã biết) được sử dụng trực tiếp để làm thuốc hay có xuất xứ
cung cấp các hoạt chất để làm thuốc (N. R. Farnsworth & D. D. Soejarto, 1985).
Con số này được ước tính từ 30.000 – 70.000 loài (Napralert, 1990). Trong đó ở
Trung Quốc đã có tới trên 10.000 loài thực vật được coi là cây thuốc; Ấn Độ hơn
6.000 loài; vùng nhiệt đới Đông Nam Á khoảng 6.500 loài,… (N. R. Farnsworth,
1985; S. K. Alok, 1991; P. G. Xiao, 2006). Tại các quốc gia đang phát triển, hiện


6
vẫn có một tỷ lệ lớn dân số đã hoặc đang được chăm sóc sức khỏe bằng y học cổ
truyền, mà trong đó có sử dụng cây thuốc. (Nguyễn Tập, 2007).
Ngày nay, ước lượng có khoảng 35.000 – 70.000 loài cây trong số
250.000 - 300.000 loài cây cỏ được sử dụng vào mục đích chữa bệnh ở khắp nơi
trên thế giới. Trong đó Trung Quốc có trên 10.000 loài, ấn Độ có khoảng 7.500
loài, Indonesia có khoảng 7.500 loài, Malaysia có khoảng 2.000 loài, Nepal có
hơn 700 loài, Sri Lanka có khoảng 550 – 700 lồi. Theo Jukovski (1971), có 12
trung tâm đa dạng sinh học cây trồng trên thế giới là Trung Quốc – Nhật Bản,
Đông Dương – Indonesia, Châu úc, ấn Độ, Trung á, Cận Đông, Địa Trung Hải,
Châu Phi, Châu Âu – Siberi, Nam Mexico, Nam Mỹ và Bắc Mỹ. Nhiều loài cây
thuốc đã được thuần dưỡng và trồng trọt từ lâu đời tại các trung tâm đó như Gai
dầu, Thuốc phiện, Nhân sâm, Đinh hương, Nhục đậu khấu, Quế xây lan, Bạc hà,
Canh kina, v.v… (Trần Văn Ơn, Lê Đình Bích, 2018).
Theo các tài liệu cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc đã được người Ai Cập
cổ đại ghi chép trong khoảng thời gian 3.600 năm trước đây với 800 bài thuốc và

trên 700 cây thuốc trong đó có Lan kim tuyến (cỏ nhung) lan thạc hộc tía, hoàng
thảo tam bảo sắc, hoàng tảo henri, lan phi điệp, cây thất diệp nhất chi hoa, hoàng
liên chân chim, quả toả dương, tam thất hoang, bạch hạc thunia, củ bạch đẳng
sâm, sâm đương quy, sâm cheo, sâm cau, quả toả dương,cây râu hùm, bát giác
niên, nấm hác linh chi, linh chi cổ cò, chè dây, cây hoằng đằng, hà thủ ơ, cớt toái,
máu chó, cây chìa vơi, Người Trung Quốc cổ đại ghi chép trong bộ Thần nông
Bản thảo (khoảng 5.000 năm trước đây) 365 vị thuốc và loài cây thuốc. Người
Ấn Độ cổ đại đã ghi chép nền y học của người Hinđu khoảng 2.000 năm trước,
trong đó có các loài cây gây ngủ, ảo giác, chữa rắn cắn,… (Farnsworth N.R. and
Soejarto D.D., 1991).
Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy người Neanderthal cổ ở Iraq từ 60.000
năm trước đã biết sử dụng một số cây cỏ mà ngày nay vẫn thấy sử dụng trong y
học cổ truyền như Cỏ thi, Cúc bạc,… Người dân bản xứ Mexico từ nhiều nghìn


7
năm trước đã biết sử dụng Xương rồng Mexico mà ngày nay được biết là chứa
chất gây ảo giác, kháng sinh. Các tài liệu cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc đã
được người Ai Cập cổ đại ghi chép trong khoảng thời gian 3.600 năm trước đây
với 800 bài thuốc và trên 700 cây thuốc trong đó có Lô hội, Kỳ nham, Gai dầu,
v.v… ; người Trung Quốc cổ đại ghi chép trong bộ Thần nông Bản thảo trong
khoảng thời gian gần 5.000 năm trước đây với 365 vị thuốc; người ấn Độ cổ đại
đã ghi chép nền y học của người Hindu khoảng 2.000 năm trước, trong đó có các
loài cây cỏ gây ngủ, ảo giác, chữa rắn cắn,… (Dẫn theo Trần Văn Ơn, Lê Đình
Bích, 2018).
Manju Panghal và cs. (2010), nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng các loài
cây thuốc của các cộng đồng tại huyện Jhajjar, bang Haryana, Ấn độ. Kết quả
cho thấy có 57 loài cây thuốc được sử dụng, thuộc 51 chi và 35 họ thực vật.
Trong đó có 19 loài thuộc 13 họ có tác dụng chữa trị rắn cắn. Có 48 loài thuộc 34
họ được sử dụng để chữa trị các bệnh khác. Phân theo dạng sống có 20 loài cây

thân thảo (36%), 16 loài cây gỗ (28%), 10 loài dây leo (18%), 9 loài cây bụi
(16%) và 1 loài thân bị (2%). Những họ có sớ loài nhiều nhất là họ Đậu
(Fabaceae) 8 loài, họ Loa kèn (Liliaceae) 5 loài, họ Hoa môi (Laminaceae) và họ
Cúc (Asteraceae) mỗi họ có 3 loài.
Koushalya Nandan Singh (2013), nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây
thuốc ở phía Tây dãy Himalaya, Ấn Độ. Kết quả ghi nhận có 86 loài thực vật
thuộc 69 chi và 34 họ được sử dụng để chữa trị khoảng 70 bệnh khác nhau. Các
loài thực vật được sử dụng trong các bài thuốc thảo dược chủ yếu thuộc về các
họ Asteraceae, Lammiaceae, Gentianaceae, và Polygonaceae. Hầu hết các loại
thuốc được sử dụng dưới dạng bột, một số là nước ép trái cây và dịch triết.
Trong số các bộ phận của cây, lá đã được ghi nhận được sử dụng phổ biến,
tiếp theo là hoa.
Năm 1992, J.H.de Beer- một chuyên gia Lâm sản ngoài gỗ của tổ chức
Nông lương thế giới khi nghiên cứu về vai trò của thị trường và của lâm sản


8
ngoài gỗ đã nhận thấy giá trị to lớn của Thảo quả đối với việc tăng thu nhập cho
người dân sống trong khu vực rừng núi, nơi có phân bố Thảo quả nhằm xóa bỏ
đói nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội vùng núi và
bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Năm 1996 Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc tại
Viện Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách “Bản thảo bức
tranh màu Trung Quốc”. Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây thuốc với nội
dung đề cấp là: Tên khoa học, một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ
bản, công dụng và thành phần hóa học (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Năm 1999, trong cuốn “Tài nguyên thực vật của Đông Nam Á” L.s.de
Padua, N. Bunyapraphatsara và R.H.M.J.Lemmens đã tổng kết các nghiên cứu về
các cây thuộc chi Amomum trong đó có Thảo quả. Ở đây tác giả đề cập đến đặc
điểm phân loại của Thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm sinh vật học

và sinh thái học của Thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật nhân giống, trồng,
chăm sốc bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và bn bán Thảo quả trên
thế giới (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Theo ước tính của quỹ thiên nhiên thế giới (WWF) có khoảng 35.000 70.000 loài trong số 250.000 loài cây được sử dụng vào mục đích chữa bệnh trên
toàn thế giới. Nguồn tài nguyên cây thuốc này là kho tàng vô cùng quý giá của
các dân tộc hiện đang khai thác và sử dụng để chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh
tế, giữ gìn bản sắc của các nền văn hóa. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) ngày nay có khoảng 80% dân số các nước đang phát triển có nhu cầu
chăm sóc sức khỏe ban đầu phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc qua các chất
chiết suất từ dược liệu (Dẫn theo Nguyễn Văn Tập, 2006).
Parinitha M. và cs. (2005), nghiên cứu kiến thức sử dụng các loài cây
thuốc của các cộng đồng tại huyện Shimoga, bang Karnataka, Ấn độ. Kết quả
cho thấy có 47 loài thực vật thuộc 46 chi trong 28 họ được sử dụng để điều trị 9
bệnh nhiễm trùng và 16 bệnh không truyền nhiễm. Mười hai tuyên bố mới về


9
kiến thức ethnomedical đã được báo cáo và có công thức mà là tương tự như mô
tả đã có trong văn học.
Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy người Neanderthal cổ ở Iraq từ 60.000
năm trước đã biết sử dụng một số cây cỏ mà ngày nay vẫn thấy sử dụng trong y
học cổ truyền như cỏ thi, cúc bạc,... Người dân bản xứ Mehico từ nhiều nghìn
năm trước đã biết sử dụng Xương rồng Mehico mà ngày nay được biết là chứa
chất gây ảo giác, kháng khuẩn (Farnsworth N.R. and Soejarto D.D., 1991).
Rey G. Tantiado (2012), nghiên cứu tài nguyên cây thuốc bản địa tại
Iloilo, Philippines. Kết quả thống kê cho thấy có 101 loài cây thuộc 92 chi và 44
họ. Bộ phận sử dụng, có 59% số loài dùng lá, 13% số loài dùng quả, 10% số loài
dùng thân, 7% số loài dùng rễ, 5% số loài dùng hoa, 4% số loài dùng cả cây và
2% số loài dùng hạt.
Gidey Yirga (2010), điều tra tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại phía

Bắc Ethiopia. Kết quả thống kê có 16 loài cây được sử dụng để trị các bệnh cho
người. Phần lớn các loài cây (68,75 %) cây hoang dại và gây trồng được sử dụng
lá. Mahwasane và cs. (2013), điều tra thi thức bản địa sử dụng cây thuốc của các
thầy lang tại khu vực Lwamondo, tỉnh Limpopo, Nam Phi. Kết quả điều tra cho
thấy có 16 loài cây thuốc, thuộc 7 họ và 14 chi. Họ Đậu (Fabaceae) có số lượng
loài nhiều nhất (43,8%), tiếp theo là họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) với 18.8%.
Rễ được sử dụng nhiều nhất (44,5%), tiếp theo là lá (25,9%), vỏ (14,8%), cả cây
(11%), và hoa (3,7%).
Gangwar và cs. (2010), nghiên cứu đa dạng thực vật dân tộc tại huyện
Kumaun Himalaya, bang Uttarakhand, Ấn độ. Kết quả cho thấy các loài cây
thuốc dân tộc truyền thống rất đa dạng. Đã thống kê được 102 loài cây thuộc 48
họ được sử dụng như là cây thuốc truyền thống của người dân bản địa, số loài
thuộc các họ được thống kê từ cao tới thấp là: các họ Asteraceae, Limiaceae và
Rosaceae (mỗi họ có 9 loài) tiếp theo là các họ Solanaceae và Poaceae (4 loài);
Araceae, Euphorbiaceae, Polygonaceae, Ranunculaceae, Scrophularaceae và


10
Valerianaceae (3 loài mỗi họ); Apiaceae, Apocynaceae, Liliaceae, Meliaceae,
Moraceae, Pinaceae, Plantaginaceae, Rutaceae, Saxiferagaceae, Verbenaceae và
Zingiberaceae (2 loài mỗi họ); và 25 họ khác (mỗi họ 1 loài). Về dạng sống, có
50 loài cây thân thảo, 24 loài cây bụi, 22 loài cây gỗ, thân bò và dây leo mỗi
dạng có 3 loài. Bộ phận sử dụng, có 21 loài sử dụng cả cây; 43 loài sử dụng một
vài bộ phận (nhiều hơn 1 bộ phận như lá, cành và rễ, thân, rễ và vỏ…); 14 loài sử
dụng rễ; 8 loài sử dụng lá; 4 loài sử dụng quả; vỏ, thân ngầm và hạt mỗi loại có 3
loài; 2 loài sử dụng thân và 1 loài sử dụng hoa.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thích hợp cho sự phát
triển của thực vật nói chung và cây thuốc nói riêng. Một số vùng cao lại có khí

hậu á nhiệt đới, phù hợp với việc trồng cây thuốc ưa khí hậu mát. Đặc biệt là
nước nhân dân sống gần đó mà họ sống xa các trạm xá, bệnh viện thì việc cứu
chữa tại chỗ là rất cần thiết và cấp bách nhất.
Nguyễn Tập (2007), trong cuốn “Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt
Nam” giới thiệu chung về nguồn tài nguyên cây thuốc và vấn đề bảo tồn cây
thuốc ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu đề cập danh sách 144 loài, thuộc 93 chi, 57
họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Trong đó có 18 loài ở bậc Cực kỳ nguy
cấp (CR), 57 loài Đang bị nguy cấp (EN) và 69 loài Sắp bị nguy cấp (VU). Trong
số đó tác giả chọn ra 102 loài tiêu biểu đang có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng ở
các mức độ khác nhau để giới thiệu về đặc điểm hình thái cơ bản, phân bố, đặc
điểm sinh thái, tái sinh, hiện trạng, giá trị bảo tồn, biện pháp bảo tồn. Tài liệu
nhằm góp phần vào những nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài
nguyên lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam.
Theo Nguyễn Văn Tập (2005), để bảo tồn cây thuốc có hiệu quả cần phải
tiến hành công tác điều tra quy hoạch, bảo vệ và khai thác bền vững, tăng cường
cây thuốc trong hệ thống các khu rừng đặc dụng và rừng phịng hộ, bảo tờn


11
chuyển vị kết hợp với nghiên cứu gieo trồng tại chỗ, có như vậy các loại cây
thuốc quý hiếm mới thoát khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng. Đồng thời lại tạo ra thêm
nguyên liệu để làm thuốc ngay tại các vùng phân bố vốn có của chúng.
Nguyễn Văn Tập (2006), tổ chức điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại
xã Đờng Lâm, hụn Hồnh Bờ, tỉnh Quảng Ninh và ghi nhận được 288 loài
thuộc 233 chi, 107 họ và 6 ngành thực vật, tất cả đều là cây thuốc mọc hoang dại
trong các quần xã rừng thứ sinh và đồi cây bụi. Trong đó có 8 loài được coi là
mới chưa có tên trong danh lục cây thuốc Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Thanh Huyền (2000), tại xã Địch Quả huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ về việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn cây
thuốc của cộng đồng dân tộc cho thấy kiến thức về việc sử dụng nguồn cây thuốc
của đồng bào dân tộc Dao ở đây. Với kiến thức đó họ có thể chữa khỏi rất nhiều

loại bệnh nan y bằng những bài thuốc cổ truyền. Tuy nhiên những kiến thức quý
báu này chưa được phát huy và có cách duy trì hiệu quả, có tổ chức. Tác giả đã
chỉ rõ những loài thực vật rừng được người dân sử dụng làm thuốc, nơi phân bố,
công dụng, cách thu hái chúng. Thêm vào đó họ còn đưa ra một cách rất chi tiết
về mục đích, thời vụ, và các điều kiêng kị khi thu hái cây thuốc; Đánh giá mức
độ tác động của người dân địa phương, nguyên nhân làm suy giảm nguồn tài
nguyên cây th́c.
Trong cơng trình cây th́c - ng̀n tài ngun lâm sản ngoài gỗ đang có
nguy cơ cạn kiệt, Trần Khắc Bảo (2003) đã đưa ra một số nguyên nhân làm cạn
kiệt nguồn tài nguyên cây thuốc như: diện tích rừng bị thu hẹp, chất lượng rừng
suy thoái hay quản lý rừng cịn nhiều bất cập, trờng chéo kém hiệu quả. Từ đó tác
giả cho rằng chiến lược bảo tồn tài nguyên cây thuốc là bảo tồn các hệ sinh thái,
sự đa dạng các loài (trước hết là các loài có giá trị Y học và kinh tế, quý hiếm,
đặc hữu, có nguy cơ tuyệt chủng) và sự đa dạng di truyền. Bảo tồn cây thuốc
phải gắn liền với bảo tồn và phát huy trí thức Y học cổ truyền và Y học dân gian
gắn với sử dụng bền vững và phát triển cây thuốc.


12
Trong 2 năm 2004-2005, Ngô Quý Công đã tiến hành điều tra việc khai
thác, sử dụng cây thuốc Nam tại vùng đệm của Vườn quốc gia Tam Đảo, nghiên
cứu kỹ thuật nhân giống, gây trồng một số loài cây thuốc quý nhằm bảo tồn và
phát triển cho mục đích gây trồng thương mại. Đề tài được Quỹ nghiên cứu của Dự
án hỗ trợ chuyên ngành Lâm sản ngoài gỗ tại Việt Nam - pha II tài trợ, nghiên cứu
chỉ rõ phương pháp thu hái cũng là vấn đề cần quan tâm, việc thu hái bằng cách
đào cả cây do bộ phận dùng chủ yếu là rễ, củ làm cho số lượng loài suy giảm
nhanh chóng và đây cũng là nguy cơ dẫn đến sự khan hiếm, thậm chí là sự tụt
chủng của một sớ lớn các cây th́c. Vì vậy việc nhân giống nhằm mục đích hỗ
trợ cây giống cho người dân có thể trồng tại vườn nhà cũng như xây dựng các
vườn cây thuốc tại địa phương đều giảm áp lực thu hái cây thuốc trong rừng tự

nhiên là việc làm rất cần thiết và đưa ra những giải pháp và đề xuất hợp lý để
bảo tồn và phát triển.
Đỗ Hoàng Sơn và cs (2009), đã tiến hành đánh giá thực trạng khai thác,
sử dụng và tiềm năng gây trồng cây thuốc tại Vườn quốc gia Tam Đảo và vùng
đệm. Qua điều tra họ thống kê được tại Vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm có
459 loài cây thuốc thuộc 346 chi và 119 họ trong 4 ngành thực vật là:
Equisetophyta, Polypodiophyta, Pinophyta và Magnoliophyta. Người dân thuộc
vùng đệm ở đây chủ yếu là cộng đồng dân tộc và Sán Dìu sử dụng cây th́c để
chữa 16 nhóm bệnh khác nhau. Trong đó trên 90% số loài được sử dụng trong
rừng tự nhiên. Mỗi năm có khoảng hơn 700 tấn thuốc tươi từ Vườn quốc gia Tam
Đảo được thu hái để buôn bán. Nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây đang bị suy
giảm khoảng 40% so với 5 năm trước đây. Trên cơ sở các nghiên cứu các tác giả
đã đề xuất 26 loài cây thuốc cần được ưu tiên và bảo tồn.
Theo Nguyễn Văn Tập, 2005, trong ng̀n Lâm sản ngồi gỗ ở Việt Nam,
cây th́c chiếm một vị trí quan trọng về thành phần loài cũng như về giá trị sử
dụng và kinh tế. Theo điều tra cơ bản của Viện Dược liệu (Bộ Y tế) đến năm 2004
đã phát hiện được ở nước ta có 3.948 loài thuộc 1.572 chi và 307 họ thực vật (kể cả


13
Rêu và Nấm) có công dụng làm thuốc. Trong số đó trên 90% tổng sớ lồi là cây
th́c mọc tự nhiên chủ yếu trong các quần thể rừng. Rừng cũng là nơi tập hợp hầu
hết cây th́c q có giá trị sử dụng và kinh tế cao. Tuy nhiên, do khai thác không
chú ý đến tái sinh trong nhiều năm qua cùng với nhiều nguyên nhân khác, nguồn
cây thuốc mọc tự nhiên ở Việt Nam đã bị giảm sút nghiêm trọng, biểu hiện qua các
thực tế sau:
- Vùng phân bố tự nhiên của cây thuốc bị thu hẹp: Nạn phá rừng làm

nương rẫy, nhất là việc mở rộng diện tích trờng Cà phê, Cao su ở các tỉnh phía
Nam đã làm mất đi những vùng rừng rộng lớn vớn có nhiều cây thuốc mọc tự

nhiên chưa kịp khai thác.
- Hầu hết các cây th́c có giá trị sử dụng và kinh tế cao, mặc dù có

vùng phân bớ rộng lớn, trữ lượng tự nhiên tới hàng ngàn tấn, như Vằng đắng
(Coscinium fenestratum); Các lồi Bình vơi (Stephania. spp)… hoặc hàng
trăm tấn như Hoằng đằng (Fidraurea timctoria)… nhưng do khai thác quá
mức, không chú ý bảo vệ tái sinh, dẫn đến tình trạng mất khả năng khai thác.
Một sớ lồi thuộc nhóm này như Ba kích (Morinda offcinalis); Đẳng sâm
(Codonopsis javanica)… đã phải đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1996) và Danh
lục Đỏ cây thuốc Việt Nam (1996, 2001, 2004) nhằm khuyến cáo bảo vệ.
- Đặc biệt đối với một số lồi cây th́c như Ba kích, Tam thất và Sâm

mọc tự nhiên, Hoàng liên, Lan một lá,… đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt
chủng cao (Nguyễn Văn Tập, 2005).
Ninh Khắc Bản và cộng sự (2013), nghiên cứu tri thức sử dụng các loài
cây thuốc của cộng đồng dân tộc Cơ tu và Vân kiều tại vùng đệm Vườn quốc gia
Bạch Mã. Kết quả thống kê cho thấy, các loài cây thuốc dùng để chữa bệnh
không những đa dạng về thành phần loài (249 loài thuộc 82 họ của người Cơ Tu,
27 loài thuộc 21 họ của người Vân Kiều), về dạng sống (thân thảo 61,0%, dạng
gỗ, bụi 39,0%), về bộ phận sử dụng (người Cơ Tu sử dụng làm thuốc vẫn là
cành, lá 77 loài chiếm 31%; tiếp đến là cả cây 73 loài chiếm 30%; rễ, củ 68 cây


14
chiếm 28%; hoa quả 15 loài chiếm 7%; các bộ phận khác 9 loài chiếm 4%.
Người Vân Kiều sử dụng rễ củ 13 loài chiếm 42%; cành lá 8 loài chiếm 26%; cả
cây 5 loài chiếm 16%; các bộ phận khác (nhựa, dịch thân,...) 4 loài chiếm 13%
và hoa quả 1 loài chiếm 3%) mà còn đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị (11
nhóm bệnh).
Bùi Văn Hướng và cộng sự (2013), nghiên cứu đa dạng nguồn tài nguyên

cây thuốc của đồng bào dân tộc tại tỉnh Gia Lai. Qua điều tra nghiên cứu, bước
đầu đã xác định được 145 loài thực vật được sử dụng làm thuốc thuộc 112 chi và
61 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch đó là Ngọc lan (Magnoliophyta),
Dương xỉ (Polypodiophyta), Thông đất (Lycopodiophyta). Ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) chiếm ưu thế với 53 họ, chiếm 86,9%; 105 chi, chiếm 93,8% và
137 loài, chiếm 94,5% so với tổng số họ, chi, loài cây th́c đã điều tra. Về dạng
sớng của cây th́c thì nhóm cây bụi với 62 loài, chiếm 42,8%; tiếp đến là nhóm
cây thân thảo với 31 loài, chiếm 21,4%; nhóm cây dây leo với 25 loài, chiếm
17,2%; nhóm cây gỗ với 21 loài, chiếm 14,5% và cuối cùng là nhóm cây thân rễ
với 6 loài, chiếm 4,1% tổng số loài cây thuốc đã điều tra được. Trong các bộ
phận của cây thuốc, rễ là bộ phận được sử dụng nhiều nhất với 51 loài chiếm
35,2%; thân với 33 loài chiếm 22,8%; lá và cả cây được sử dụng với tỷ lệ bằng
nhau là 17,2%. Các bộ phận khác như: Vỏ, củ, quả... tuy được sử dụng nhưng tỷ
lệ không đáng kể. Có 13 nhóm bệnh chủ yếu được chữa trị bằng cây thuốc bản
địa với kiến thức của đồng bào dân tộc. Trong đó, nhóm bệnh về tiêu hoá là
nhiều nhất với 14 loài chiếm 9,7%; tiếp đến là nhóm bệnh phụ nữ với 13 loài,
chiếm 9,0%. Các bệnh về ngoài da và động vật côn trùng cắn có số loài lần lượt
là 12 loài, chiếm 8,3% và 9 loài, chiếm 6,2%. Một số bệnh về răng và dạ dày tỷ
lệ sử dụng cây thuốc để chữa trị là khá ít.
Võ Văn Minh và cộng sự (2014), nghiên cứu cây thuốc của người Hre tại
huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Kết quả đã điều tra xác định được 45 loài cây
thuốc, thuộc 26 họ, thông qua việc sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của cộng


15
đồng người Hre huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi. Trong đó có 2 loài thuốc quý trong
Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, 6 loài quý theo kiến thức bản địa của người
dân. Cây thuốc được khai thác chủ yếu từ tự nhiên (84,44%), kiến thức bản địa
phong phú thể hiện ở kinh nghiệm sử dụng để chữa trị 12 nhóm bệnh khác
nhau, sớ lượng các lồi cây th́c được sử dụng chữa các nhóm bệnh cơ - xương

- khớp, thận, nội tiết, gan là nhiều nhất. Cách thức chế biến sử dụng khá đa dạng.
Những loài cây thuốc quý cần ưu tiên bảo tồn là Ba kích (Morinda officinalis),
Thổ phục linh (Smilax glabre), Sa nhân tím (Amomum longiligulare).
Lê Thanh Hương và cộng sự (2012), đánh giá thực trạng cây thuốc quý
hiếm tại tỉnh Thái Nguyên, kết quả bước đầu đã xác định được 25 loài thực vật
bậc cao có mạch sử dụng làm thuốc cần đươc phải bảo tồn. Trong đó, theo Sách
đỏ Việt Nam có 20 loài (cấp EN có 6 loài, cấp VU có 11 loài và cấp K có 3 loài);
theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP có 6 loài (1 loài ở mức độ nghiêm cấm khai
thác sử dụng - IA và 5 loài hạn chế khai thác sử dụng - IIA); theo Danh lục đỏ
cây thuốc có 15 loài (cấp EN có 10 loài và cấp VU có 5 loài).
Theo Nguyễn Thế Cường và cs (2015), bổ sung một số kết quả điều
tra, nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu rừng đặc dụng Na Hang
tỉnh Tuyên Quang, đã thống kê được 275 loài cây thuốc thuộc 204 chi và 96
họ thực vật bậc cao có mạch được người Dao và người Tày sử dụng để làm
thuốc trị bệnh.
1.1.2.2. Nghiên cứu đa dạng cây dược liệu tại Việt Nam
Để khai thác một cách hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc ở
Việt Nam, từ nhiều chục năm trở lại đây, các ngành Y tế, Lâm nghiệp, Sinh học
đã có nhiều đợt điều tra cơ bản. Trong đó đáng chú ý nhất có công tác điều tra
nghiên cứu của Viện Dược liệu - Bộ Y tế, đã được tiến hành một cách tương đối
có hệ thống ở tất cả các địa phương trên phạm vi toàn quốc. Kết quả điều tra từ
năm 1961 đến cuối năm 2004, đã ghi nhận được ở nước ta có 3.948 loài cây
thuốc, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao cũng như bậc thấp (kể cả nấm),


16
trong số 3.948 loài cây thuốc đã biết có trên 3.500 loài (hơn 90%) là cây mọc tự
nhiên, mọc chủ yếu trong các quần xã rừng. Trong số 3.948 loài cây thuốc, phần
lớn được ghi nhận từ kinh nghiệm sử dụng của cộng đồng các dân tộc ở khắp các
địa phương. Hiện đã thống kê được gần 300 loài cây thuốc mọc tự nhiên ở rừng,

thường xuyên được khai thác với khối lượng từ 10.000 - 20.000 tấn mỗi năm
cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. (Theo Nguyễn Tập, 2007).
Nguồn tài nguyên cây cỏ tập trung chủ yếu ở 6 trung tâm đa dạng sinh vật
trong cả nước là (i) Đông Bắc, (ii) Hoàng Liên Sơn, (iii) Cúc Phương, (iv) Bạch
Mã, (v) Tây Nguyên, (vi) Cao nguyên Đà Lạt. Theo thống kê của ngành Dược, cả
nước có khoảng 40 bệnh viện y học cổ truyền và các khoa y học cổ truyền trong
các bệnh viện đa khoa. Có 5.000 người hành nghề thuốc y học cổ truyền với gần
4.000 cơ sở chuẩn trị đông y. Có khoảng 700 loài thường được nhắc đến trong
sách đông y, sách về cây thuốc, 150-180 vị thuốc thường được sử dụng ở các
bệnh viện y học cổ truyền, lương y, 120 loài thường được nhân dân sử dụng như
các cây thuốc thơng thường để chữa bệnh trong gia đình, nhu cầu dược liệu cho y
học cổ truyền khoảng 30.000 tấn/năm.
Việt Nam có một nền y học cổ truyền hết sức đa dạng, đặc sắc với bề dày
lịch sử hàng nghìn năm và từ đó hình thành nên nền y học dân tộc không ngừng
phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó, nhiều cây thuốc, bài thuốc được áp
dụng chữa bệnh trong dân gian có hiệu quả cao, các kinh nghiệm dân gian quý
báu đó đã dần đúc kết thành những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi
trong nhân dân, nghiên cứu cây dược liệu không chỉ góp phần sử dụng bền vững
ng̀n tài ngun cây th́c của đất nước, làm phong phú thêm tri thức sử dụng
cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của cả dân tộc mà còn là cơ sở để sản xuất các loại
dược phẩm mới để điều trị các căn bệnh hiểm nghèo. Đây thực sự là một hướng
nghiên cứu có triển vọng lớn trong tương lai. Hiện nay, nhiều loài cây dược liệu
quý phân bố chủ yếu ở miền núi, đang có nguy cơ bị tàn phá dẫn đến tuyệt chủng
do lạm dụng khai thác quá nhiều. Vì vậy cần phải có biện pháp tiến hành điều tra,


17
tư liệu hố thực trạng sử dụng cây th́c của các dân tộc và tri thức bản địa về cây
cỏ làm thuốc để xây dựng các giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả nhằm góp
phần giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu các cây
thuốc và vị thuốc để chữa bệnh như: Sách “Cây thuốc Việt Nam” của lương y Lê
Trần Đức (1997) có ghi 830 cây thuốc; Võ Văn Chi có cuốn “Từ Điển cây thuốc
Việt Nam” ghi 3200 cây thuốc trong đó có cả cây thuốc nhập nội… Theo tài liệu
của Viện Dược liệu (2004) thì Việt Nam có đến 3.948 lồi cây làm th́c, thuộc
1.572 chi và 307 họ thực vật (kể cả rêu và nấm) có công dụng làm thuốc. Trong
số đó có trên 90% tổng số loài cây thuốc mọc tự nhiên. Nhưng qua điều tra thì
con sớ này có thể được nâng lên vì kiến thức sử dụng cây th́c của một số đồng
bào dân tộc thiểu số chúng ta nghiên cứu chưa được đầy đủ hay còn bỡ ngỡ.
Trong những năm qua, chỉ riêng ngành Y học dân tộc cổ truyền nước ta đã khai
thác một lượng dược liệu khá lớn. Theo thớng kê chưa đầy đủ thì năm 1995, chỉ
riêng ngành Đông dược cổ truyền tư nhân đã sử dụng 20.000 tấn dược liệu khô
đã chế biến từ khoảng 200 loài cây. Ngoài ra còn xuất khẩu khoảng trên 10.000
tấn nguyên liệu thô.
Trong tài liệu: “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi
(2004), bao gồm có 2 phần: Phần I tác giả trình bày một số chú ý khi sử dụng
thuốc nam; cơ sở lý ḷn về tìm th́c và tác dụng th́c theo đơng y; bào chế
thuốc theo đông y; cơ sở để xem xét tác dụng của thuốc theo khoa học hiện đại;
kê đơn thuốc đông y. Phần II: Những cây thuốc và vị thuốc bao gồm có 20 nhóm
cây thuốc và vị thuốc chữa bệnh khác nhau, các cây thuốc trong mỗi nhóm được
mơ tả hình dạng, phân bớ, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược
lý, công dụng và liều dùng.
Số loài cây thuốc được phát hiện ở Việt Nam tăng liên tục theo thời gian.
Trước năm 1952, toàn Đông Dương có 1.350 loài cây làm thuốc, GS. Đỗ Tất Lợi
(2004) giới thiệu 800 cây, con và vị thuốc. Viện Dược liệu (2003) Việt Nam có


×