Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

wto – cơ hội và thách thức đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.88 KB, 16 trang )

Hội nhập WTO – cơ hội và thách thức
Nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn toàn cầu hoá sâu rộng, sự ra
đời và phát triển của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với 150 nước thành
viên tác động sâu sắc đến nhiều quốc gia, các quốc gia có hội nhập mới khai
thác, phát huy được lợi thế so sánh của mình. Việt Nam có xuất phát điểm
muộn trong tiến trình gia nhập WTO, đến nay Việt Nam đã chính thức là thành
viên thứ 150 của tổ chức này. Nhưng để có thể cạnh tranh được trên thị trường
rộng lớn này, chúng ta cần rất nhiều sự cố gắng thực sự!

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ WTO:
WTO (World Trade Organization) là chữ viết tắt của Tổ chức Thương
mại Thế giới - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã
và đang được các nước đàm phán và ký kết.
Mục tiêu:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới
phục vụ cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo về môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng
tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống
thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp
quốc tế, bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém
phát triển được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương
mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và
khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế
thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước
thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
Chức năng:
- 1 -
- Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương
mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật


cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến
việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa
phương và nhiều bên.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên,
đảm bảo thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy
định của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm
chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
- Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ
tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách
và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
II. WTO – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội, vừa có thách thức. Thách thức là
sức ép trực tiếp, còn cơ hội tự nó không chuyển thành lực lượng vật chất trên
thị trường mà phải thông qua hoạt động của chủ thể. Cơ hội và thách thức cũng
luôn vận động, biến đổi. Tận dụng được cơ hội sẽ đẩy lùi được thách thức và
tạo ra cơ hội thì thách thức sẽ lấn át làm triệt tiêu cơ hội. Vì vậy mà vai trò
“chủ thể” của doanh nghiệp, của nhà nước là rất quyết định. Doanh nghiệp là
người “xung trận”, tức là lực lượng trực tiếp đương đầu trong cạnh tranh.
Nhưng Nhà nước phải là người mở đường.
2.1. Cơ hội:
- Hàng hoá Việt Nam sẽ được bình đẳng như hàng hoá của các nước thành
viên khác và được đối xử bình đẳng như hàng hoá ở nước sở tại. Việt Nam
- 2 -
được hưởng thành tựu cắt giảm thuế đa phương của WTO mang lợi ích nhiều
nhất cho hai ngành chủ lực của Việt Nam là nông nghiệp và may mặc.
- Việt Nam có quyền thương lượng và khiếu lại với các cường quốc
thương mại một cách công bằng hơn khi có tranh chấp. Cơ quan giải quyết

tranh chấp (DSB) của WTO là cơ quan trọng tài duy nhất và giải quyết các
mâu thuẫn thương mại mang tính xây dựng. Khi có tranh chấp, DSB khuyến
khích và cho phép các nước thành viên đàm phán để đi đến một biện pháp hoà
giải. Nếu thất bại, một ban giải quyết tranh chấp sẽ được thành lập để phân xử
và nhờ một cơ quan kháng án đưa quyết định cuối cùng. Các phán quyết cuối
cùng này phải được các bên có liên quan chấp thuận. Nếu kết quả giải quyết
tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể
áp dụng những biện pháp trả đũa. Việc thiết lập toà án quốc tế này đã nâng cao
hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên, bằng việc đưa những luật lệ chung
vào thế giới thương mại.
- Hoạt động của WTO hoàn toàn dựa trên những nguyên tắc chung chứ
không phải là sức mạnh, cho nên đã thật sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng,
giúp cho các nước nhỏ có nhiều tiếng nói hơn, và đồng thời cũng giải thoát cho
các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại
với vô số đối tác thương mại của họ. Hơn nữa, các nước nhỏ có thể hoạt động
hiệu quả hơn nếu họ tận dụng những cơ hội để thành lập các liên minh và góp
chung các nguồn lực. Việc gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam có được tiếng nói
bình đẳng hơn và giảm bớt nhiều những chi phí nguồn lực cho việc đàm phán
song phương với các đối tác.
- Việc gia nhập WTO sẽ giúp chất lượng cuộc sống được nâng cao. Người
tiêu dung có được nhiều sự lựa chọn hang hoá hơn, tiết kiệm được nhiều nguồn
lực và chi phí. Chất lượng của hang sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính
sự cạnh tranh từ hang nhập khẩu. Hơn nữa, hàng nhập khẩu còn được sử dụng
làm nguyên liệu linh kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước dẫ tới mở rộng
phạm vi của các thành phần và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm.
- 3 -
- Việc gia nhập WTO sẽ buộc Chính phủ hoạt động có hiệu quả và thận
trọng hơn khi ra các quyết sách về kinh tế. Việt Nam phải cam kết áp dụng và
giám sát hệ thống luật của mình theo các nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp
lý, công bằng và đồng bộ. Gia nhập WTO, Việt Nam phải tăng cường thực hiện

các cải cách kinh tế vĩ mô để sao cho vừa đáp ứng được những yêu cầu của quá
trình dự do hoá thương mại, vừa có thể tranh thủ được tối đa những lợi ích mà
nó mang lại. Đồng thời, Việt Nam phải cho phép và thực sự khuyến khích khu
vực kinh tế tư nhân phát triển nhằm tạo ra những lực lượng kinh tế mạnh có
khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế … Đối với các nhà doanh nghiệp và
đầu tư, cơ hội này được đồng nghĩa với sự ổn định cao hơn và rõ ràng hơn về
các điều kiện thương mại, các chính sách của Nhà nước.
- Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và cải
cách thể chế, trước hết thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính
sách của nước ta, tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và thuận
lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh
và phát triển bền vững.
- Gia nhập WTO thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu tư và chuyển
giao công nghệ, các quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa phương của
nước ta với các nước trên thế giới.
Thông qua việc mở các thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, giảm hàng
rào thuế quan và phi thuế quan, giảm sự phân biệt đối xử trong WTO, các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường do được tiếp cận
với nhiều thị trường và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh. Việt Nam có điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu những mặt
hàng truyền thống như may mặc, giầy da, thuỷ sản, gạo, đồ thủ công mỹ nghệ,
những mặt hàng mới như xuất khẩu phần mềm, xuất khẩu lao động, phát triển
du lịch …đặc biệt các mặt hàng nông sản, thuỷ sản sẽ có vị thế lớn trên thị
trường thế giới. Điều này tạo thuận lợi trong giải quyết làm tăng thu nhập cho
người lao động, nhất là nông dân.
- 4 -
- Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài (ODA, FDI và các hình thức đầu tư gián tiếp) thông qua mở rộng diện
các nước thành viên đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời với những cải cách trong

nước về thủ tục hành chính, về cơ chế chính sách, giảm chi phí đầu vào, mở
rộng lĩnh vực và phạm vi đầu tư theo lộ trình hội nhập sẽ làm tăng tính hấp dẫn
của môi trường đầu tư ở nước ta so với các nước trong khu vực, khuyến khích
nàn song đầu tư mới vào Việt Nam.
- WTO có những nguyên tắc ưu đãi riêng đối với nước đang phát triển,
Việt Nam là nước có thu nhập thấp. Do đó sẽ nhận được những đối xử đặc biệt,
miễn trừ khỏi sự ngăn cấm, hỗ trợ xuất khẩu (nếu hàng hoà là loại cạnh tranh
cao, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong vòng 8 năm).
- Gia nhập WTO tạo đà cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên, thích
nghi với những tiêu chuẩn và tập quán mới, tạo điều kiện nâng cao khả năng
cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Thách thức
- Việc thực thi Hiệp định Quyền Sở hữu trí tuệ và xây dựng luật Sở hữu
trí tuệ đồng nghĩa với việc tăng chi phí sản xuất và khả năng đổi mới nhanh
chóng của các doanh nghiệp, dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự xác lập thương hiệu, thiết kế kiểu
dáng riêng và mua quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm của mình.
- Một thách thức nữa đối với Việt Nam là phải cắt giảm thuế, bãi bỏ hàng
rào phi thuế quan. Doanh nghiệp trong nước sẽ phải tham gia cạnh tranh thực
sự với các doanh nghiệp nước ngoài ngay chính tại tị trường nội địa. Nhưng
thực tế cho thấy, khả năng của các doanh nghiệp trong nước lại thấp hơn rất
nhiều so với các doanh nghiệp nước ngoài là thành viên của WTO, điều đó bất
lợi trong việc phát triển nền kinh tế ổn định và tự chủ. Việc Chính phủ Việt
Nam muốn duy trì sự bảo hộ nhất định đối với các ngành công nghiệp non trẻ
để xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý, và trước mắt là đảm bảo nguồn
thu ngân sách, sẽ khó thực hiện được.
- 5 -
- Việc phân phối không đồng đều giữa các Quốc gia phát triển, giữa các
bộ phận dân cư trong Quốc gia phát triển nên nguy cơ phá sản của một bộ phận
doanh nghiệp làm cho thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo diễn ra mạnh

mẽ hơn và nhiều vấn đề xã hội nảy sinh.
- Sự phụ thuộc vào các Quốc gia phát triển dẫn đến sự biến động thị
trường của các nước tác động mạnh mẽ đến thị trường trong nước.
- Ngoài ra còn có những thách thức về bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh
Quốc gia và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc….
III. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC VIỆT NAM GIA NHẬP WTO TỚI NGÀNH
CÔNG NGHIỆP:
3.1 Tác động tổng thể tới ngành công nghiệp:
- Lợi thế cạnh tranh có xu hướng giảm dần:
Khả năng cạnh tranh tổng thể cuả ngành công nghiệp Việt Nam còn yếu
so với một số nước trong khu vực. Những yếu tố quyết định năng lực cạnh
tranh của ngành là năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ
khoa học công nghệ, năng lực quản lý … đều còn yếu kém. Một số mặt hàng
có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới những còn
chiếm tỷ trọng nhỏ. Một số mặt hàng định hướng xuất khẩu cso khả năng cạnh
tranh như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ lại có mức bảo hộ cao ở thị
trường nội địa. Một số nhóm hàng có khả năng cạnh tranh ở thị trường nội địa
thì lại thường là do cso lợi thế về địa lý kinh tế như các loại kết cấu thép siêu
cường, siêu trọng, các loại vật liệu xây dựng cấp thấp. Lợi thế cạnh tranh của
hàng công nghiệp hiện nay chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên
thiên nhiên sẵn có nhưng những lợi thế này đang có xu hướng giảm nhanh.
Ngoài một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh tương đối tốt như hàng
may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản nhiệt
đới, dầu thô, than đá và một số loại khoáng sản thì ngành có khả năng cạnh
tranh yếu như sắt, thép, thiết bị điện - điện tử, giấy, hoá chất – phân bón, sợi -
- 6 -
dệt và một số sản phẩm cơ khí … sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt, nhất là từ phía
hàng nhập khẩu. Trong thời gian dài, lợi thế của các nhóm sản phẩm chảu yếu
của Việt Nam sẽ ngày càng giảm, ngành công nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn
nếu không phát triển, nâng cao được năng lực cạnh tranh.

Cụ thể trong ngành dệt may - một trong những mặt hang chủ lực của Việt
Nam, và cũng là mặt hang Việt Nam có được những lợi thế so sánh do tính
chất sử dụng nhiều lao động. Việc gia nhập WTO là điều kiện thuận lợi để mở
rộng thị trường cho ngành, nhưng không phải là phép tính cộng đơn giản của
việc mở rộng thị phần. Tại thị trường thế giới, khi Hiệp định dệt may (ATC)
kết thúc, sự cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt do các đối thủ của Việt Nam
không chỉ là một số quốc gia trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia
mà là những đại gia trong ngành may mặc thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ.
Do vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO với mức thuế bị đòi hỏi cắt giảm khá lớn
thì thị phần hàng may mặc Trung Quốc tại Việt Nam sẽ có thể gia tăng đáng
kể. Ngoài ra, tại cả hai khu vực hàng may mặc cao cấp và hàng may mặc bình
dân, có thể thấy, hàng may mặc cao cấp với đặc trưng về chất lượng và tính
thời trang của EU, Mỹ, Hàn Quốc sẽ thuyết phục được khách hang thuộc tầng
lớp người giàu đang phát triển khá nhanh tại Việt Nam. Hàng bình dân sẽ chịu
tác động rất lớn từ Trung Quốc. Doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, lực
lượng khá yếu so với các doanh nghiệp nhà nước, lại đang chiếm lĩnh thị
trường nội địa, sẽ không thể cạnh tranh nổi với những nhà máy Trung Quốc
khổng lồ với thế mạnh tự cung ứng được nguyên liệu.
- Bảo hộ của Nhà nước bị thu hẹp:
Với chính sách thúc đẩy tự do hoá thương mại, WTO chỉ cho phép bảo
hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan với mức thuế bình quân ngày càng
giảm sau các vòng đàm phán chung về thương mại và chỉ trong những bối cảnh
nhất định mới cho phép sử dụng một số biện pháp phi thuế với những điều kiện
cụ thể. Từ khi WTO được thành lập năm 1995 đến tháng 01/2000, thuế suất đối
- 7 -
với hàng hoá công nghiệp đã giảm từ mức bình quân 15,9% xuống còn 12,3%
(giảm 20% trong vòng 5 năm). Kinh nghiệm của các nước mới gia nhập WTO
cho thấy, họ phải cam kết mức thuế trung bình thấp đối với 100% số dòng thuế
công nghiệp và không được áp dụng các biện pháp phụ thu đối với hàng nhập
khẩu. Đồng thời, các nước thành viên còn tham gia Sáng kiến cắt giảm thuế

quan theo ngành, Hiệp định sản phẩm công nghiệp thông tin, Hiệp định hài hòa
thuế quan đối với sản phẩm hóa chất… Ngoài ra, các nước gia nhập sau thường
phải cam kết thuế suất ở mức thấp hơn các nước gia nhập trước. Như vậy, khả
năng Nhà nước bảo hộ cho ngành công nghiệp đủ sức đối phó hiệu quả với sức
ép cạnh tranh sẽ ngày càng hạn chế và bị thu hẹp. Nói cách khác, ngành công
nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức và phải
nỗ lực tối đa để không bị biến thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của các quốc
gia khác, mà ngược lại phải cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá, dịch vụ của
mình cho thế giới.
Hơn thế, như các nước thành viên khác, ngoài việc cam kết giảm đáng
kể các mức thuế áp dụng, Việt Nam cũng sẽ phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế
(hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan, trợ cấp…) trong một thời hạn nhất
định. Hiện nay, thuế suất nhập khẩu bình quân đơn giản của Việt Nam đối với
hàng nhập khẩu khoảng 16%, trong đó hàng công nghiệp khoảng 15% và vẫn
còn áp dụng phụ thu nhập khẩu đối với trên 10 nhóm sản phẩm có sức cạnh
tranh thấp. Như vậy, sau khi gia nhập WTO, ngành công nghiệp Việt Nam sẽ
gặp khó khăn do không còn sự bảo hộ của Nhà nước như hiện nay.
3.2. Tác động tới một số ngành cụ thể
Trước hết, bàn về TRIMs, khi thực hiện các nghĩa vụ và quy định của
Hiệp định TRIMs, các ngành như sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy; chế biến các
sản phẩm sữa, đường mía, dầu thực vật và gỗ là những ngành sẽ phải chịu tác
động mạnh nhất, không chỉ ở khả năng duy trì các mục tiêu phát triển của
ngành mà còn ở khả năng thu hút vốn ĐTNN vào từng ngành cụ thể. Tuy
- 8 -
nhiên, phạm vi và mức độ tác động của TRIMs đến đâu còn phụ thuộc vào khả
năng cạnh tranh của từng ngành cũng như việc cải thiện môi trường đầu tư ở
Việt Nam. Cụ thể là, với cùng một chủ trương, chương trình phát triển ngành
nhưng Hiệp định TRIMs, cùng với những cam kết khác khi gia nhập, sẽ có
những tác động khác nhau lên những ngành khác nhau. Ngoài ra, phần này
cũng sẽ phân tích tác động của TRIPs cũng như của các cam kết khác lên

ngành dược phẩm – ngành có những đặc điểm đặc thù liên quan đến các quy
định trong TRIPs.
Ngành công nghiệp ôtô:
Ngành công nghiệp ôtô là một trong những ngành quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam. Việt Nam chủ trương phát triển ngành công nghiệp ô tô theo
hướng đi từ lắp ráp đơn giản đến nội địa hoá sản xuất phụ tùng. Đồng thời, để
phát triển ngành công nghiệp ô tô, trong thời gian qua, Chính phủ đã sử dụng
một loạt biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành công nghiệp quan trọng
này. Với chính sách bảo hộ phù hợp (chủ yếu bằng các biện pháp phi thuế
quan) và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, ngành công nghiệp ô tô của Việt
Nam đã có bước phát triển đáng kể, góp phần thu hẹp dần khoảng cách giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, việc thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs cũng như
các cam kết quốc tế có liên quan khác đã đặt ngành công nghiệp này trước
những thách thức đáng kể. Với cam kết xóa bỏ yêu cầu nội địa hóa vào năm
2006 hoặc vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (tùy thuộc thời điểm nào
diễn ra trước), Việt Nam hầu như không còn cơ hội để tiếp tục triển khai
chương trình nội địa hóa đối với ngành công nghiệp này. Bên cạnh đó, quy mô
thị trường tiêu thụ của ngành ôtô Việt Nam còn quá nhỏ bé, chỉ khoảng 45.000
chiếc/năm, bằng 10% lượng xe tiêu thụ tại Malaixia và 5% lượng xe tiêu thụ
của Thái Lan. Số lượng các nhà sản xuất phụ tùng ôtô trong nước cũng rất hạn
chế và mới chỉ dừng lại ở chỗ sản xuất các phụ tùng, chi tiết đơn giản. (Đây là
lý do giải thích tại sao tỷ lệ nội địa hoá thực tế tại Việt Nam thấp hơn nhiều so
- 9 -
với mức đã cam kết trong Giấy phép đầu tư). Do vậy, khả năng thu hút vốn đầu
tư mới vào những ngành này sẽ hạn chế ngay cả khi các rào cản đối với đầu tư
đã được xoá bỏ theo quy định của Hiệp định TRIMS.
Ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy:
Ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy cũng là một trong những
ngành được ưu tiên phát triển tại Việt Nam nhằm tạo động lực cho ngành cơ

khí, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt
Nam; trong đó mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) và thực hiện
chương trình nội địa hoá đạt tỷ lệ sản xuất trong nước từ 40 - 80% vào năm
2010 là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu này. Sự
phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp xe máy trong thời gian vừa qua có
sự đóng góp quan trọng của các công ty xe máy từ Nhật Bản và Đài Loan. Số
lượng xe do các doanh nghiệp ĐTNN sản xuất và tiêu thụ tăng dần qua các
năm, và đến năm 2002 đã chiếm 43,2% tổng số xe sản xuất, lắp ráp và tiêu thụ
trong cả nước. Các doanh nghiệp ĐTNN cũng đã thực hiện tốt cam kết về tỷ lệ
nội địa hoá (dao động từ trên 40% tới trên 60%). Tốc độ nội địa hoá của ngành
này tại Việt Nam cũng tăng khá nhanh so với Thái Lan (10 - 15% trong vòng 2
- 3 năm so với 3%/năm trong vòng 25 - 30 năm tại Thái Lan).
Do vậy, việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs vào
năm 2006 hoặc vào thời điểm gia nhập WTO về cơ bản không tác động đáng
kể đến sự phát triển của ngành này. Việc xóa bỏ ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ
lệ nội địa hóa đối với ngành này từ năm 2003 theo cam kết trong khuôn khổ
BTA đã cho thấy, dù không được hưởng chính sách ưu đãi nói trên, các doanh
nghiệp vẫn có khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của mình và do đó, tiếp
tục thực hiện chương trình nội địa hóa đã cam kết.
Ngành công nghiệp chế biến sữa:
Chế biến sữa là ngành sử dụng nguyên liệu thô của ngành chăn nuôi bò
sữa. Quy định hiện hành của Việt Nam cũng yêu cầu việc đầu tư phải gắn với
phát triển đàn bò sữa như một trong các điều kiện để cấp Giấy phép ĐTNN.
- 10 -
Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN chế biến sữa và các sản phẩm có
liên quan chiếm khoảng 25% thị phần Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có 4 doanh
nghiệp (Công ty Thanh Sơn, Công ty sữa Sài Gòn, Công ty liên doanh Bò sữa
Đồng Nai, Công ty TNHH Việt - Úc) thực hiện dự án đầu tư chế biến sữa gắn
với phát triển đàn bò. Trên thực tế, các doanh nghiệp này vẫn chủ yếu sử dụng
nguyên liệu sữa nhập khẩu hoặc thu mua từ các hộ gia đình và trang trại tư

nhân. Trong điều kiện nguồn nguyên liệu cung cấp ở trong nước còn hạn chế
(khoảng 460.000 tấn/năm, chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu sản xuất) và
với tốc độ tăng trưởng chậm của đàn bò sữa (11% so với tốc độ tăng lượng sữa
tiêu dùng hàng năm khoảng 20%), thì hoạt động chế biến của các doanh nghiệp
ĐTNN đã làm gia tăng xu hướng nhập khẩu nguyên liệu sữa bột từ nước ngoài.
Việc thực hiện TRIMs sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp ĐTNN chủ
động quyết định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến sữa từ các nguồn khác
nhau, trong đó chủ yếu sẽ là nguồn nhập khẩu. Về mặt lý thuyết, điều này sẽ
làm gia tăng nhập khẩu sữa, không tạo điều kiện để Việt Nam thúc đẩy chương
trình phát triển đàn bò sữa nhằm tạo nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên,
hạn chế này không hẳn là do tác động trực tiếp của việc thực hiện Hiệp định
TRIMs mà xuất phát chủ yếu từ những bất cập trong cơ chế, chính sách của
Việt Nam như: (i) chưa có biện pháp và chế tài thích đáng để buộc các doanh
nghiệp thực hiện đúng cam kết tại Giấy phép đầu tư về chế biến sữa gắn với
đầu tư phát triển đàn bò; (ii) chưa có chính sách ưu đãi thỏa đáng nhằm khuyến
khích sự hợp tác giữa nông dân và doanh nghiệp để phát triển đàn bò; (iii) chất
lượng giống bò sữa thấp, không đạt tiêu chuẩn cho chế biến sữa. Sau khi bỏ
yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước đối với dự án ĐTNN theo
quy định tại Hiệp định TRIMs, nếu Việt Nam có chính sách giải quyết thỏa
đáng những bất cập nói trên thì ĐTNN vào ngành chăn nuôi và chế biến bò sữa
tại Việt Nam sẽ có khả năng tăng mạnh.
Ngành công nghiệp chế biến gỗ:
- 11 -
Chế biến gỗ là một ngành rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài,
thu hút rất nhiều nhà ĐTNN nhưng chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ và vừa.
Pháp luật hiện hành yêu cầu dự án ĐTNN trong lĩnh vực này phải gắn với đầu
tư phát triển rừng để tạo nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên, hầu hết các
doanh nghiệp ĐTNN không thể thực hiện yêu cầu nói trên do một số nguyên
nhân chủ yếu sau: (1) quy mô sản xuất nhỏ, không có khả năng đầu tư vào dự
án trồng rừng đòi hỏi vốn lớn; (2) chưa có cơ chế, chính sách thích hợp về sử

dụng đất đai, bảo vệ rừng và giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa các doanh
nghiệp và người trồng rừng. Mặt khác, trong thời gian qua, thực hiện chủ
trương đóng cửa rừng, Chính phủ đã cho phép nhập khẩu nguyên liệu gỗ phục
vụ cho việc chế biến mặt hàng này. Điều đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp
nhập khẩu gỗ phục vụ cho chế biến thay vì đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu
tại chỗ ở trong nước. Hiện nay, một số doanh nghiệp ĐTNN chế biến gỗ, nhất
là ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai đã sử dụng chủ yếu nguồn gỗ nhập khẩu
và một phần gỗ khai thác từ rừng trồng để chế biến các sản phẩm gỗ phục vụ
xuất khẩu.
Bởi vậy, khó có thể khẳng định việc thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp
định TRIMs có tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp chế biến gỗ cũng như
các mục tiêu xã hội khác. Thực tế nói trên cho thấy, yêu cầu dự án ĐTNN chế
biến gỗ phải gắn với đầu tư phát triển rừng là một chủ trương đúng đắn, phù
hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội của Việt Nam, song không thật sự khả thi do
thiếu chính sách hợp lý và không có các điều kiện hạ tầng đảm bảo cho việc
thực hiện yêu cầu này. Ngược lại, tuy không thực hiện đầy đủ yêu cầu phát
triển nguồn nguyên liệu trong nước, nhưng việc các doanh nghiệp ĐTNN nhập
khẩu gỗ để chế biến hàng xuất khẩu cũng tạo điều kiện để bảo vệ môi trường
và góp phần tăng năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Đó là một hướng đi đúng,
cần được cân nhắc trong qúa trình hoạch định chính sách ĐTNN nói chung và
chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ nói riêng trong thời gian
tới.
Ngành dược phẩm:
- 12 -
Việc thực hiện hiệp định TRIPs sau khi gia nhập WTO, sẽ mang lại một
số thuận lợi cho hoạt động đầu tư đồng thời cũng mang lại những sức ép cho
hoạt động bảo hộ SHTT ở Việt Nam. Ngành dược phẩm cũng chịu những tác
động chung đó, tuy nhiên, với những đặc điểm riêng của ngành cùng với những
quy định đặc thù có liên quan đến ngành trong TRIPs mà tác động của TRIPs
lên ngành này cũng có một số đặc điểm riêng.

Phân tích một số đặc điểm của Hiệp định TRIPs liên quan tới vấn đề
dược phẩm, có thể thấy, những lĩnh vực trong hiệp định này có liên quan tới
việc tiếp cận dược phẩm là bằng phát minh sáng chế (patent), nhãn hiệu hàng
hoá và các bí mật kinh doanh, trong đó các quy định về phát minh sáng chế có
vai trò quan trọng nhất. Nguyên nhân là vì các dịch vụ y tế phụ thuộc rất lớn
vào những sáng chế để tạo ra các loại thuốc và vắc-xin mới. Trong khi đó, đối
với hoạt động nghiên cứu và phát triển, sẽ khó đảm bảo đầy đủ nhu cầu tài
chính nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước mà không có đầu tư của các khu vực
khác. Ngoài ra, công nghệ trong lĩnh vực này thường rất dễ bắt chước. Do vậy,
việc thực hiện nghiêm túc các quy định trong hệ thống phát minh sáng chế, sẽ
làm tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực dược phẩm, từ đó
sẽ thúc đẩy sự phát triển của các quy trình sản xuất và các sản phẩm mới trong
lĩnh vực này.
Tuy nhiên, những quy định liên quan đến phát minh sáng chế sẽ làm
tăng giá thuốc do những người nắm giữ phát minh sáng chế có quyền hạn chế
đối với việc sản xuất, sử dụng và buôn bán các sản phẩm được bảo hộ, từ đó
tác động tới khả năng tiếp cận thuốc của người dân. Đặc biệt, đối với Việt
Nam, điều này sẽ làm tăng gánh nặng cho những người dân nghèo vì khả năng
tiếp cận thuốc của họ vốn đã rất thấp do thu nhập thấp và ngân sách cấp cho y
tế còn hạn hẹp.
Cũng cần nói thêm rằng, ngoài những nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPs,
Việt Nam còn phải thực hiện các điều khoản [TRIPs + ] liên quan đến sở hữu
trí tuệ trong lĩnh vực dược phẩm khi ký kết Hiệp định thương mại song phương
- 13 -
Việt Nam - Mỹ. Điều khoản [TRIPs + ] cấm bên thứ ba sử dụng các trắc
nghiệm lâm sàng dược phẩm trong vòng 5 năm. Những nhà sản xuất các thế
phẩm rẻ tiền (có cùng công dụng như các chính phẩm đã được cấp bằng sáng
chế) sẽ phải lặp lại những thí nghiệm kéo dài và tốn kém để thu được những dữ
liệu cần thiết cho việc phê chuẩn theo quy định của pháp luật, hoặc là phải đình
hoãn đưa sản phẩm ra thị trường. Khi các công ty dược phẩm lớn xin được phê

chuẩn cho một thứ thuốc mới, họ phải trình lên các cơ quan chức trách các dữ
liệu trắc nghiệm về chất lượng, độ an toàn và hiệu quả của dược phẩm đó cũng
như thông tin về cấu thành hoá chất. Ở nhiều nước phát triển, những dữ liệu đó
được giữ bí mật trong một thời gian nhất định. Khi thời gian đó đã hết, các nhà
sản xuất thế phẩm có thể được phê chuẩn theo luật mà không cần phải trình các
dữ liệu lâm sàng mà thay bằng các dữ liệu “tương đương sinh học” chứng tỏ
thuốc của họ có cùng thành tố và tính năng. Cách làm này nhanh và đỡ tốn kém
hơn nhiều.
Như vậy, hiệp định TRIPs yêu cầu các thành viên phải bảo vệ các dữ
liệu đó để chống việc “sử dụng không chính đáng vào mục đích thương mại”,
nhưng lại không làm rõ điều này có nghĩa gì và thời hạn kéo dài bao lâu. Tuy
nhiên, thông qua Hiệp định thương mại song phương, Mỹ yêu cầu Việt Nam
cấm các bên thứ ba hoặc thậm chí cả những nhà chức trách chịu trách nhiệm về
quản lý sản xuất thuốc không được sử dụng các dữ liệu do công ty xuất xứ nộp
trong thời kỳ năm năm trước để xin chấp thuận dược phẩm đăng ký. Những
nhà sản xuất thế phẩm phải trải qua một quá trình thử nghiệm lâu dài và tốn
kém để đúc kết những dữ liệu của mình và trình lên để xin phê chuẩn, hoặc
đình hoãn tiếp thị sản phẩm của mình. Dù theo cách nào thì giá thuốc cũng sẽ
tăng.
Tuy nhiên, có thể coi như một giải pháp cho Chính phủ khi điều khoản
này cũng có thể hạn chế hiệu năng của hệ thống cấp phép bắt buộc vì những dữ
liệu thiết yếu không có sẵn để đăng ký dược phẩm. Việc cấp phép bắt buộc tạo
cho Chính phủ khả năng bỏ qua việc cấp bằng sáng chế cho một thứ thuốc mới
với lý do vì lợi ích công cộng và đặt làm một thế phẩm rẻ tiền hơn, và có trả
- 14 -
những khoản tiền thưởng hợp lý cho người giữ bằng sáng chế. Nếu có được
khả năng đó, các Chính phủ có thể điều đình giá thuốc với các công ty dược
phẩm lớn tốt hơn.
Phải công nhận rằng chúng ta còn nhiều yếu kém cần khắc phục. Nhiều
nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động

tốt. Chất lượng, hiệu quả, sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, chưa có
chuyển biến rõ rệt, những nhược điểm trong chính sách kinh tế và cơ chế quản
lý cũng khiến chúng ta chưa tận dụng được lợi thế về ổn định chính trị - xã hội
để thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư của nước ngoài.
Trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta bước đầu với nhiều
cơ hội mới mà thách thức cũng không nhỏ. Việc tận dụng các thời cơ, biến khó
khăn thách thức thành thời cơ đòi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức tư
tưởng, hành động thống nhất của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp. Chủ
động và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đẩy
mạnh xúc tiến thương mại, đầu tư, tham gia hệ thống phân phối toàn cầu, tăng
cường quảng cáo, tiếp thị tại các thị trường chiến lược EU, Mỹ, Trung Quốc.
Phải tìm lối đi riêng, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam!
- 15 -
MỤC LỤC
- 16 -

×