LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn
tại và phát triển đều phải có chiến lược nhằm khuyếch trương thị trường của mình.
Đó là yêu cầu sơ đẳng và cũng rất cơ bản của kinh doanh hiện đại.
Ngày nay với sự ra đời của hàng loạt các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên
doanh với nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã và đang hoạt động
tại Việt Nam sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại phải nhảy vào một cuộc cạnh
tranh vô cùng khó khăn và phức tạp.
Cùng với xu hướng mở rộng hoạt động thương mại, thị trường hối đoái đóng
vai trò ngày càng quan trọng không chỉ đối với tổng thể nền kinh tế quốc dân mà
còn đối với từng doanh nghiệp.NHTM với chức năng là tổ trung gian cung cấp các
dịch vụ hoàn hảo nhất, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế đồng thời có vị
trí trung tâm trong thị trường hối đoái cũng đã không ngừng phát triển nghiệp vụ
kinh doanh ngoại tệ của mình để cân bằng sự dư thừa về cung và cầu ngoại tệ trên
thị trường. Một mặt để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, mặt khác tìm kiếm lợi
nhuận trên thị trường và mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình. Bằng cách nào
để các NHTM có thể chiến thắng trong cạnh tranh, mở rộng được thị trường kinh
doanh của mình và có lãi ?
Chính vì nhận thấy sự bức xúc của vấn đề, đồng thời trong thời gian thực tập
và nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, em nhận thấy hoạt động kinh
doanh ngoại tệ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam diễn ra rất đa dạng nên em đã
chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam”.
1
Về kết cấu, em chia đề tài thành 3 phần như sau:
CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản về kinh doanh ngoại tệ tại NHTM
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNTVN
CHƯƠNGIII: Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại
NHNT
Để hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp
đỡ nhiệt tình của thầy giáo TS . Đàm Văn Huệ, các cán bộ phòng kinh doanh ngoại
tệ. Do kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, luận văn tốt nghiệp
của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy
cô giáo, các cán bộ ngân hàng cùng bạn bè.
2
CHƯƠNG I
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm và vai trò của thị trường hối đoái:
Thị trường hối đoái là nơi thực hiện việc trao đổi mua bán các loại ngoại tệ
và phương tiện chi trả có giá trị bằng ngoại tệ. Có thể nói thị trường hối đoái là nơi
chuyên môn hóa về trao đổi, mua bán ngoại tệ thông qua sự cọ sát giữa cung và
cầu ngoại tệ để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế đồng thời xác định các
điều kiện giao dịch tức giá cả và số lượng mua bán.
Như vậy thị trường hối đoái sẽ có những vai trò sau:
- Cho ta biết ai là người có nhu cầu về ngoại tệ, số lượng bao nhiêu, ai là
người đang có nguồn về ngoại tệ nào.
- Giúp cho Chính phủ có thể kiểm soát ngoại hối và có thể can thiệp vào thị
trường nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
- Giúp người bán và người mua gặp nhau khi họ có nhu cầu mua hay bán
ngoại tệ.
2. Đặc điểm của thị trường hối đoái
- Xét về phạm vi toàn thế giới, thị trường hối đoái hoạt động liên tục 24/24
giờ do sự chênh lệch múi giờ trên thế giới (trừ các ngày nghỉ).
- Là thị trường mang tính quốc tế cao.Hiện nay do sự phát triển mạnh mẽ
của các phương tiện thông tin liên lạc như : Điện thoại, Telex, Fax… từ đó tạo điều
kiện cho các cuộc đàm thoại giao dịch mua bán ngoại tệ được nhanh chóng và
thông suốt trên khắp thế giới. Do đó các thị trường hối đoái đang mở cửa đều có
thể liên lạc với nhau, từ đó dẫn đến việc quốc tế hóa các đồng tiền yết giá. Cụ thể
là tỷ giá hối đoái trên các thị trường không chênh lệch nhau quá lớn. Điều này giải
3
thích với chúng ta tại sao tỷ giá đóng cửa ngày hôm nay khác với tỷ giá mở cửa
ngày hôm sau trên cùng một thị trường.
3. Các thành viên tham gia trên thị trường hối đoái
Về nguyên tắc, những ai muốn đổi một đồng tiền của nước này sang đồng
tiền của nước khác đều được quyền tham gia vào thị trường hối đoái, có thể nêu
lên các bên tham gia chính như sau:
3.1. Ngân hàng Trung ương (NHTW)
NHTW ngoài việc chịu trách nhiệm trong việc phát hành tiền tệ, quản lý và
điều tiết sự vận động của tiền tệ, cân bằng cán cân quốc tế. NHTW còn có trách
nhiệm can thiệp vào thị trường ngoại hối để bình ổn đồng tiền bản xứ so với đồng
tiền nước ngoài thông qua các chính sách hoạt động công khai trên thị trường hối
đoái. Với sự can thiệp của NHTW, cung và cầu ngoại tệ luôn được giữ ở trạng thái
cân bằng và tỷ giá hối đoái tránh được những biến động lớn, gây ảnh hưởng bất lợi
cho nền kinh tế.
3.2. Ngân hàng thương mại (NHTM)
Các NHTM là thành phần đông đảo và quan trọng nhất trên thị trường hối
đoái, là thành phần chủ yếu tạo ra thị trường mua bán ngoại tệ. Với chức năng
trung gian, các NHTM mua bán ngoại tệ để hỗ trợ cho các khách hàng là những
Công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ quốc tế.
Mục đích của các NHTM khi tham gia thị trường hối đoái nhằm:
- Cung cấp dịch vụ mua bán ngoại tệ một cách tốt nhất cho khách hàng để
hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động đối ngoại.
- Quản lý và duy trì trạng thái ngoại hối ở vị thế chủ động nhằm đảm bảo
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Trong quá trình thực hiện hai mục đích kể trên, ngân hàng đã tạo thêm
phần lợi nhuận thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ.
4
3.3. Các nhà môi giới (Brokers)
Nhiều khi các ngân hàng không trực tiếp mua bán trên thị trường hối đoái
mà sử dụng các nhà môi giới để làm trung gian (midleman) cho việc mua- bán
ngoại tệ.
Việc sử dụng những nhà trung gian có các thuận lợi sau đây:
- Tiết kiệm thời gian và chi phí liên lạc
- Nhận được chào giá tốt hơn(finer quoter)
- Có thể giao dịch kín đáo(Secrecy)
3.4. Các doanh nghiệp (Businessman)
Các Doanh nghiệp tham gia vào thị trường hối đoái bắt nguồn từ thương mại
quốc tế và đầu tư trực tiếp. Việc mua bán này trước hết để thực hiện thanh toán
hàng hóa xuất nhập khẩu, sau nữa là để tránh rủi ro do biến động bất lợi của tỷ giá
hối đoái.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chủ yếu là
doanh nghiệp xuất nhập khẩu chiếm tỷ lệ không lớn trên thị trường hối đoái. Tuy
nhiên, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các công ty lớn, công ty đa quốc gia
đóng góp nhiều vào thị trường ngoại tệ. Các công ty đa quốc gia thực hiện chính
sách mở rộng cửa các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt nguy cơ thiệt hại do tỷ giá
gây ra đối với các nguồn tính bằng các đồng tiền không ổn định, đồng thời chạy
đua trên cơ sở thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá. Nếu như tỷ giá của một đồng tiền
nào đó có xu hướng giảm xuống thì các công ty này sẽ chuyển vốn của mình sang
đồng tiền khác ổn định hơn.
Sơ đồ phân cấp giao dịch trên thị trường hối đoái
5
II. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHTM
1. NHTM và hoạt động của NHTM trong nền kinh tế
1.1. Định nghĩa NHTM
Theo Luật Ngân hàng và tổ chức tín dụng ngày 12/11/1997: Ngân hàng
Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.2. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM
Qua khái niệm về NHTM trên, ta thấy NHTM là một loại hình ngân hàng
đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, có các hoạt động kinh doanh chính sau:
- Huy động vốn bằng việc nhận tiền gửi tiết kiệm và phát hành các chứng
chỉ tiền gửi khác…
- Tín dụng ngắn, trung và dài hạn
- Phục vụ nhu cầu thanh toán của khách hàng.
6
NHTW
NHTMTW NHTMTWNh môi à
giới
CNNHTM CNNHTMCNNHTM
Khách h ngà Khách h ngàKhách h ngà
- Các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng, bạc, đá
quý, các dịch vụ tư vấn, bảo quản và quản lý tài sản khách hàng…
2. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM
Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động lâu đời nhất của NHTM, nó ra đời và phát
triển cùng với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cùng với xu thế hợp tác
và quốc tế hóa kinh tế ngày càng mở rộng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của
NHTM sẽ không ngừng phát triển và trở thành một trong những hoạt động không
thể thiếu của một ngân hàng hiện đại.
2.1.Khái niệm về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Kinh doanh ngoại tệ theo nghĩa rộng bao gồm việc mua bán ngoại tệ, đảm
bảo ổn định số dư tài khoản kinh doanh ngoại hối tại nước ngoài và tìm cách thu
lời thông qua chênh lệch tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau.
- Kinh doanh ngoại tệ theo nghĩa hẹp chỉ đơn thuần là việc mua bán giữa các
đồng tiền.
2.2. Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM
- Đem lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận đáng kể, đặc biệt đối với các
ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại tệ được đa dạng hóa.
- Là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá khi ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ kỳ hạn.
- Là một nghiệp vụ có vai trò quan trọng đối với các nghiệp vụ khác của
ngân hàng như thanh toán quốc tế, bảo lãnh, vay và cho vay ngoại tệ, và tạo điều
kiện cho việc đa dạng hóa nghiệp vụ ngân hàng.
- Nhờ có hoạt động kinh doanh ngoại tệ mà ngân hàng có thể dễ dàng giao
dịch với ngân hàng nước ngoài, từ đó nâng cao vị thế của ngân hàng trên thị trường
quốc tế qua chất lượng các giao dịch quốc tế.
7
2.3. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh ngoại tệ
a) Ngân hàng
Bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng lớn của những
đường lối, chiến lược và mục tiêu đề ra của bản thân ngân hàng. Nếu một ngân
hàng có chính sách mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ như : áp dụng các điều
kiện ưu đãi về tỷ giá, về chi phí giao dịch…đầu tư vào trang thiết bị máy móc hiện
đại, đầu tư nâng cao trình độ nhân viên kinh doanh ngoại tệ… chắc chắn ngân hàng
sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và hoạt động kinh tế ngoại tệ của ngân
hàng sẽ phát triển.
Mọi hoạt động của ngân hàng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chúng
được coi như từng bộ phận của một cỗ máy hoàn chỉnh, mà nó chỉ hoạt động tốt
khi tất cả các bộ phận đều hoạt động tốt. Từng bộ phận sẽ tạo điều kiện cho nhau
hoàn thành công việc của mình và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
b) Khách hàng
Cũng như trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào của NHTM , khách hàng
có ảnh hưởng rất quan trọng tới kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
Ví dụ trong việc tạo nguồn, nếu ngân hàng có nhiều khách hàng xuất khẩu
có nguồn thu ngoại tệ lớn và ổn định thì đây là điều kiện rất thuận lợi cho ngân
hàng để có được nguồn vốn ngoại tệ trực tiếp. Nguồn này rõ ràng có được chi phí
thấp hơn so với việc huy động từ các NHTM khác hoặc mua trên thị trường. Hoặc
để hoạt động tín dụng ngoại tệ của ngân hàng có hiệu quả,trước hết khách hàng –
doanh nghiệp phải có được những dự án sinh lời. Sau đó , chữ tín của doanh
nghiệp trong vay trả nợ ngân hàng cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng ngoại tệ. Còn hoạt động mua bán ngoại tệ theo nghiệp vụ khách
hàng cũng xuất phát từ nhu cầu khách hàng. Số lượng khách hàng, quy mô của
khách hàng tham gia vào thương mại quốc tế có lớn hay không để tạo nên sự sôi
động của hoạt động này trong ngân hàng.
8
Như vậy, khách hàng của Ngân hàng có một ý nghĩa quan trọng với việc mở
rộng, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong Ngân hàng.
3. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
a. Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (Spot)
Nghiệp vụ hối đoái giao ngay được thể hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại
tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được thực hiện chậm
nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết. Tỷ giá thanh toán ngay
trong thương mại quốc tế gọi là Spot-Rates.
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình
(computer), bằng điện báo và trên các Sở giao dịch chứng khoán thực hiện băng kỹ
thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử, tức là việc
thỏa thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống “money deating”.
Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp quan hệ với nhau qua các
hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin được thực hiện bằng bàn phím với
những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất hiện trên màn hình. Đồng thời, một máy in
được nối mạng với hệ thống sẽ in lại thành biên bản thông tin được chuyển đi. Hệ
thống này có ưu điểm so vơi hinh thức điện thoại là việc ghi nhận các thỏa thuận
bằng văn bản, khắc phục được cả lỗi lầm thường gặp trong giao dịch điện thoại khi
nghe nhầm, viết nhầm. Vì thế, hệ thống “money dealing” được sử dụng rộng rãi.
Tỷ giá giao ngay (Spot-Rates) được niêm yết trên các báo cáo kinh tế hàng
ngày ở quốc gia. Thực tế hiện nay, tỷ giá của hầu hết các loại ngoại tệ được trao
đổi đều tính toán so với USD. USD được sử dụng như một ngoại tệ trung
chuyển(transport) .
b. Nghiệp vụ Arbitrage
Nghiệp vụ Arbitrage là nghiệp vụ kinh doanh của bản thân ngân hàng. Theo
ý nghĩa nguyên thủy của nó , nghiệp vụ Arbitrage là việc lợi dụng sự chênh lệch về
9
tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua
và bán.
Tuy nhiên, việc thực hiện các nghiệp vụ Arbitrage trên sẽ dẫn đến khuynh
hướng cân bằng tỷ giá tại các thị trường hối đoái khác nhau. Sự chênh lệch tỷ giá
thường chỉ không đáng kể và các chi phí giao dịch sẽ cân bằng sự chênh lệch đó.
Ngày nay, trên cơ sở những thông tin hiện đại,các thị trường ngoại hối trở
nên thông suốt, nghiệp vụ Arbitrage trên không còn ý nghĩa lớn trong kinh doanh
ngoại hối nữa.
c. Nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn (Forward)
Nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn được thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ
kỳ hạn, trong đó việc hoàn tất nghiệp vụ này được thực hiện vào một thời điểm
nhất định sau đó, với tỷ giá nhất định đã được quy định trong hợp đồng tại thời
điểm ký kết.
Chức năng kinh tế của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn nhằm tránh
những rủi ro vể tỷ giá trong kinh doanh ngoại thương. Thông qua việc thỏa thuận
một nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn với ngân hàng, cả người nhập khẩu và
người xuất khẩu đều có thể tính toán trước được hiệu quả kinh doanh của mình,
bởi vì những khoản ngoại tệ có được hoặc cần có trong tương lai đã xác định được
ngay tỷ giá vào lúc hợp đồng mua bán được thỏa thuận.
Đối với ngân hàng, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn không chỉ đáp
ứng yêu cầu chống lại rủi ro về tỷ giá mà còn có ý nghĩa sống còn đối với nghiệp
vụ kinh doanh ngoại hối của bản thân ngân hàng. Bằng việc ký kết hai loại hợp
đỗng mua, hợp đồng bán ngoại tệ có kỳ hạn, các ngân hàng vừa đáp ứng nhu cầu
của khách hàng, vừa tránh được trạng thái ngoại tệ mở đầy rủi ro đối với ngân
hàng khi tình trạng số dư tài khoản kinh doanh ngoại hối của một ngân hàng ở mức
không cân bằng.
10
d. Nghiệp vụ hối đoái tương lai (Future)
Thị trường ngoại tệ giao sau là thị trường giao dịch các hợp đồng mua bán
ngoại tệ giao sau, gọi tắt là hợp đồng giao sau. Hợp đồng giao sau là một thỏa
thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp
đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong
tương lai. Thị trường giao sau thực chất chính là thị trường kỳ hạn được tiêu chuẩn
hóa về ngoại tệ giao dịch,số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ.
Các hợp đồng giao sau thường có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng có kỳ
hạn vì phòng giao hoán đã sẵn sàng đứng ra “đảo hợp đồng” bất cứ khi nào có một
bên yêu cầu. Khi đảo hợp đồng thì hợp đồng cũ bị xóa bỏ và hai bên thanh toán
cho nhau phần chênh lệch giá trị tại thời điểm đảo hợp đồng. Đặc điểm này khiến
cho hầu hết các hợp đồng giao sau được thực hiện thông qua chuyển giao ngoại tệ
vào ngày đến hạn.
Tỷ giá trong các hợp đồng giao sau là tỷ giá giao ngay dự đoán tại thời điểm
hợp đồng đáo hạn.
e. Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ hoặc cầm cố tiền tệ(Swap)
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (cầm cố tiền tệ) là tổng hợp của hai nghiệp vụ
giao ngay và kỳ hạn.
Đây là nghiệp vụ giao ngay (Spot) ngoại tệ Arbitrage để đổi lấy ngoại tệ B,
sau khi mua lại kỳ hạn ngoại tệ Arbitrage và trả ngoại tệ B (Forward). Nguyên tắc
tính tỷ giá của nghiệp vụ này cũng tương tự nghiệp vụ kỳ hạn, dựa vào sự chênh
lệch lãi suất của hai đồng tiền.
Nghiệp vụ hoán đổi được sử dụng để cân đối nguồn vốn thanh toán tức thời.
Nghiệp vụ hoán đổi có ảnh hưởng lớn đến hoạt động phòng ngừa và rủi ro, nó cho
phép các công ty đột phá vào các thị trường vốn mới và tận dụng những ưu thế của
nó để gia tăng vốn mà không phải gia tăng rủi ro kèm theo. Thông qua hoán đổi,
người ta có thể dịch chuyển rủi ro ở một thị trường hay ở một loại tiền tệ nào đó
11
sang thị trường và loại tiền tệ khác. Hoán đổi còn mang lại kỹ thuật phòng chống
rủi ro cho các công ty đa quốc gia mà hoạt động có liên quan đến thị trường vốn
quốc tế.
f. Nghiệp vụ hối đoái theo quyền chọn(Option)
Nghiệp vụ hối đoái theo quyền chọn là một sự thỏa thuận bằng hợp đồng
giữa người mua và người bán về quyền chọn mua (call- option) hoặc quyền chọn
bán (put- option) một loại ngoại tệ nhất định, với số lượng cụ thể, theo một tỷ giá
cố định và vào một thời điểm cụ thể.
Trong hợp đồng này, người mua quyền lựa chọn phải trả cho người bán một
khoản tiền đảm bảo. Thông qua đó, người mua dành được quyền lựa chọn mua
hoặc bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác, anh ta có thể từ bỏ quyền lựa chọn
của mình khi thấy bất lợi. Rủi ro của người mua quyền chọn chỉ giới hạn ở số tiền
phải trả cho quyền đó. Ngược lại, người bán quyền chọn thu được một khoản tiền
từ việc quyền nhưng trở thành đối tác thụ động, chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ
giá biến động không thuận lợi với anh ta.
Có các loại quyền chọn mua- bán ngoại tệ sau:
Mua quyền chọn bán ngoại tệ : Người mua quyền chọn bán có quyền, nhưng
không bắt buộc, bán một lượng ngoại tệ nhất định, theo một tỷ giá cố định vào
ngày đến hạn.
Bán quyền chọn bán ngoại tệ : Người bán quyền chọn bán có trách nhiệm phải
mua một số ngoại tệ cụ thể theo tỷ giá được quy định từ trước(giá cơ sở) vào ngày
đến hạn hợp đồng.
Mua quyền chọn mua ngoại tệ : Người mua quyền chọn mua giành được
quyền chọn mua một số lượng ngoại tệ cụ thể, theo tỷ giá cố định từ trước, vào
ngày đến hạn hợp đồng, để có được quyền đó, anh ta phải trả cho người bán một
khoản phí ngay khi ký hợp đồng.
12
Bán quyền chọn mua ngoại tệ : Người bán quyền chọn mua ngoại tệ có trách
nhiệm bán một số ngoại tệ cụ thể, theo một tỷ giá cố định từ trước, vào ngày hợp
đồng đến hạn.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM .
4.1.Chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ có nhiệm vụ đảm
bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng tính kinh tế ở mức độ cao,
bền vững. Một chính sách tỷ giá có hiệu quả phải đảm bảo tính ổn định tỷ giá trên
mối quan hệ tương quan cung cầu trên thị trường, khuyến khích được xuất khẩu,
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ gắn liền với sự biến động tỷ giá trên thị
trường, vì vậy chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách tỷ giá của nhà nước.
4.2. Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia:
Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia là những quy định pháp lý, những thể
lệ của Nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng, bạc, đá quý và các
chứng từ có giả trị ngoại tệ cũng như việc trao đổi, sử dụng, mua bán ngoại tệ trên
thị trường nội địa và quan hệ thanh toán, tín dụng với nước ngoài.
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các luồng
vận động của ngoại hối từ nước ngoài vào và từ trong nước ra, có liên quan đến
quan hệ ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác bằng ngoại tệ. Đồng
thời, chính sách quản lý ngoại hối cũng quản lý và kiểm soát lưu thông ngoại hối
(đặc biệt là ngoại tệ) trong phạm vi quốc gia.
Như vậy, một chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn sẽ góp phần khuyến
khích ngoại thương, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài… từ đó sẽ thúc đẩy
hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng phát triển.
13
4.3. Sự phát triển kinh tế chung của đất nước
Thực tế cho thấy, ở những nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động kinh
doanh ngoại tệ cũng rất phát triển. Bởi vì hoạt động này gắn liền với hoạt động
ngoại thương, dịch vụ quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ kỹ thuật
quốc tếvà nhiều hoạt động kinh tế khác. Mỗi hoạt động là một bộ phận của nền
kinh tế, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chẳng hạn như kim ngạch xuất
nhập khẩutăng trưởng , đầu tư ra nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào trong
nước ra tăng thì nhu cầu về mua bán ngoại tệ, nhu cầu về tài trợ ngoại thương, nhu
cầu tự bảo vệ trước những rủi ro đặc biệt là rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn. Nó đòi hỏi
hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển để đáp ứng. Ngược lại, khi kinh doanh
ngoại tệ phát triển càng tạo ra điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đối
ngoại của đất nước.
Ngoài ra, giá trị hợp đồng bản tệ rõ ràng được hậu thuẫn bởi sự phát triển
kinh tế của quốc gia. Một nước có nền kinh tế phát triển ổn định thì đồng tiền của
nó có uy tín, có khả năng chuyển đổi cao trên thị trường thế giới. Với đồng bản tệ
mạnh, thị trường hối đoái ở nước đó sẽ phát triển hoàn thiện và là cơ sở cho hoạt
động kinh doanh ngoại tệ.
4.4. Các yếu tố khác
Kinh doanh ngoại tệ có tính nhạy cảm cao, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố. Có thể kể ra một số nhân tố như sự ra đời của các liên minh tiền tệ, liên minh
tín dụng khu vực hay sự xuất hiện của các đồng tiền chuẩn quốc tế bên cạnh đồng
USD; cán cân thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ của ngân hàng TW…
5. Một số rủi ro mà ngân hàng thường gặp phải trong kinh doanh ngoại tệ
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, lợi nhuận và khả năng rủi ro thường
là hai yếu tố song hành có mối quan hệ thuận chiều. Lợi nhuận càng cao thì khả
năng gặp rủi ro càng lớn và ngược lại. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng hàm
chứa những rủi ro bao gồm:
14
a. Rủi ro về tỷ giá: Là rủi ro do sự không chắc chắn về giá trị của một khoản thu
nhập hay chi trả do sự biến động của tỷ giá gây ra làm tổn thất cho ngân hàng. Để
hạn chế rủi ro tỷ giá, ngân hàng cần phân tích và đặt ra hạn mức về trạng thái ngoại
tệ của từng loại tiền. Giới hạn đó phụ thuộc vào tình hình tài chính của ngân hàng
và khả năng đánh giá rủi ro.
b. Rủi ro tín dụng: Phát sinh khi các bên tham gia gặp khó khăn về tài chính.Rủi
ro làm ăn thua lỗ của bên đối tác trong thời gian hợp đồng thường ít nguy hiểm
hơn những rủi ro phát sinh vào thời gian hết hạn hợp đồng. Nghiêm trọng hơn là
trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng cũng là ngân hàng phá sản vào ngày
đến hạn thanh toán và sau khi các bước đầu tiên của giao dịch đã hoàn tất. Rủi ro
này sẽ được giảm bớt nếu các giao dịch với khách hàng không bị hạn chế, việc tìm
hiểu thông tin về khách hàng được thực hiện tốt và các điều khoản hợp đồng phù
hợp.
c. Rủi ro tính lỏng: Rủi ro này là rủi ro về luân chuyển vốn ngân hàng. Có thể
gặp rủi ro này bởi vì nhân viên kinh doanh ngoại tệ đầu tư các khoản vốn với thời
hạn dài hạn của các khoản cho vay đó. Khi có sự luân chuyển vốn không phù hợp
về thời gian đáo hạn, tỷ lệ lãi suất có thể tăng và do đó ngân hàng sẽ bị lỗ, ngược
lại, lãi suất giảm thì nhân viên kinh doanh đã đem lại một khoản lãi cho ngân hàng.
Giải pháp của ngân hàng là phải nắm vững thông tin, có kế hoạch luân chuyển
nhiều nguồn ngoại tệ khác nhau để đảm bảo luôn có thể thanh toán vào thời điểm
thanh toán của tưng loại ngoại tệ cụ thể.
d. Rủi ro căn bản : Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng hoạt động trên thị trường
giao sau bởi có rủi ro giữa sự chênh lệch tỷ giá giao sau với tỷ giá giao ngay vào
thời điểm tới hạn hợp đồng giao sau. Trong hợp đồng mua ngoại tệ, nếu tỷ giá giao
ngay trong tương lai lớn hơn tỷ giá trong hợp đồng thì ngân hàng sẽ được lợi, còn
ngược lại ngân hàng sẽ phải chịu một khoản lỗ. Rủi ro này là rủi ro của thị trường
mà ngân hàng không thể tránh khỏi. Nó sẽ được hạn chế ngân hàng có hệ thống thu
thập thông tin xử lý, đưa ra các dự đoán về tỷ giá sát với thực tế. Tuy nhiên ngân
15
hàng vẫn luôn phải lập một quỹ phòng ngừa để bù đắp những thiệt hại do rủi ro
này gây ra.
e. Rủi ro hoạt động: Rủi ro này liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như : thanh toán chậm,sai số lượng, sai đối tượng, không tuân thủ các hướng
dẫn về thanh toán, ngoài các khoản tiền phạt còn có các khoản tổn thất khác mà tự
ngân hàng phải gánh chịu,rủi ro này có thể hạn chế bằng cách xác định và thực
hiện một cách chính xác các nhiệm vụ đặt ra : xác định trách nhiệm của từng
phòng ban, từng nhân viên, của việc yết giá, của bộ phận kế toán các nghiệp vụ
kinh doanh…
Thực tiễn đã cho thấy, công tác quản lý rủi ro hối đoái đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM. Tăng cường quản lý rủi ro
hối đoái sẽ thúc đẩy hoạt động của ngân hàng trên thị trường hối đoái có hiệu quả
hơn, kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn và giảm rủi ro.
16
CHƯƠNG II
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Thành lập ngày 01/04/1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam liên tục giữ
vai trò chủ lực trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Được nhà nước xếp hạng là
một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đồng thời
là thành viên của Hiệp họi Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Châu á.
Tiền thân của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là cục quản lý ngoại hối
với nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngoại hối, ngoại tệ thì sự ra đời của Ngân hàng
Ngoại thương với nhiệm vụ được giao lớn hơn về các mặt tín dụng xuất nhập khẩu,
thanh toán quốc tế, phục vụ mở rộng các quan hệ kinh tê đối ngoại, Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam đã hoạt động theo mô hình Ngân hàng thương mại kể từ
ngày đó.
Từ năm 1990, thực hiện việc cải tổ theo các pháp lệnh Ngân hàng, NHNT đã
được tổ chức lại cho phù hợp với tính chất và chức năng của Ngân hàng thương
mại quốc doanh để phục vụ đắc lực hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế của đất
nước. Hoạt động của Ngân hàng không chỉ đóng khung trong những nghiệp vụ
Ngân hàng đối ngoại mà bao gồm cả dịch vụ Ngân hàng đối nội, đầu tư tín dụng
không chỉ ngắn hạn đơn thuần mà cả trung và dài hạn, không chỉ đầu tư cho kinh tế
quôc doanh mà đã mở rộng ra cả khu vực ngoài quốc doanh.
Công cuộc đổi mới của NHNT bước đầu đã thu được những kết quả đáng
khích lệ nhờ có những chu trương chính sách đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh
tế của đất nước theo từng giai đoạn sau đây:
17
Giai đoạn 1:
Bắt đầu từ năm 1988 thi hành Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng ( Nay là
Hội đồng chính phủ ) số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy Ngân hàng
Việt Nam đã có những nghiên cứu, kiến nghị nội dung và phương hướng đổi mới
các hoạt động của Ngân hàng. Nhưng trên thực tế, VCB vẫn là trung tâm tín dụng
và thanh toán quốc tế, quản lý phần lớn ngoại tệ của quốc gia. Vốn điều lệ của
Ngân hàng vẫn chưa được xác lập.
Giai đoạn 2:
Từ sau khi có các pháp lệnh về Ngân hàng (ban hành ngày 24/5/1990) chức
năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh trong ngành Ngân hàng được
phân định. Ngân hàng Ngoại thương thực sự đổi mới trong mọi lĩnh vực về phương
thức quản lý kinh doanh, về bộ máy tổ chức, về phong cách, lề lối, tác phong phục
vụ khách hàng. Nhưng quan trọng nhất là đổi mới về cơ chế tài chính và bộ máy
điều hành.
*Cơ chế tài chính:
- Ngân hàng Ngoại thương đã chuyển giao cho ngân sách nhà nước toàn bộ
nguồn vốn thuộc ngân sách quốc gia, kể cả các khoản vay nợ viên trợ của nước
ngoài.
- Chuyển giao cho Ngân hàng Nhà nước toàn bộ vốn bằng tiền và bằng hiện
vật thuộc nguồn vốn dụ trũ của Ngân hàng Nhà nước.
- Ngân hàng Ngoại thương hoạt động bằng vốn điều lệ do Nhà nước cấp,
vốn tự có do tích lũy và vốn vay, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
*Bộ máy tổ chức:
Chuyển sang kinh doanh, Ngân hàng Ngoại thương có bộ máy tổ chức độc
lập. Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm được toàn quyền trong việc
18
tổ chức và điều hành bộ máy theo điều lệ và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về
toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng.
Hai khâu cơ bản là cơ chế tài chính và bộ máy tài chính được đổi mới đã tạo
ra bước ngoặt của ngân hàng, đã động viên được các năng lực tiềm năng phát triển.
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã thi hành một loạt biện pháp về hợp đồng
vốn đầu tư tín dụng, kiện toàn khâu thanh toán. Đặc biệt công tác khách hàng được
chú trọng. Ngân hàng đã đáp ứng yêu cầu vốn nhanh chóng, có hiệu quả cho nền
kinh tế, thực hiện chi trả thanh toán kịp thời và chính xác mọi yêu cầu thu chi của
khách hàng… từ đó đã tạo được sự tín nhiệm với khách hàng trong và ngoài nước.
Giai đoạn 3:
Cùng với sự chuyển đổi hợp lý từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và chính sách kinh tế mở cửa đồng thời
với tác động của việc chính phủ Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam ( ngày
03/02/1994) trong thời gian qua, hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam đã có những đổi
mới và phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng góp phần tích cực vào
việc tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Như vậy có thể nói đặc trưng của giai đoạn này là sự cạnh tranh gay gắt của
thị trường. Sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới được hoạt động kinh doanh đa
dạng đã làm cho việc độc quyền trong lĩnh vực “Ngân hàng đối ngoại “ của Ngân
hàng ngoại thương Việt nam không còn nữa. Y thức được điều đó, Ngân hàng
Ngoại thương Việt nam đã hoạch định một chiến lược kinh doanh bao gồm sự tổng
hợp của một loạt chủ trương chính sách tích cực và linh hoạt nhằm mở rộng thị
trường kinh doanh của ngân hàng không chỉ về chiều rộng lẫn chiều sâu như:
*Chính sách huy động vốn đa dạng :
Ngân hàng Ngoại thương luôn coi trọng chữ tín đối với khách hàng trong và
ngoài nướcvà đã thu hút được mọi nguồn vốn từ dân cư. Các ngân hàng nước
ngoài đã cho Ngân hàng Ngoại thương Việt nam vay vốn trung dài hạn bằng cả
19
phương thức tài chính và tín dụng. Ngân hàng còn thành lập các công ty để huy
động vốn dân cư như Công ty tài chính, Công ty Leasing…
*Chính sách khách hàng và bạn hàng dài hạn
- Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã hướng ưu tiên vào các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả.
- Đặc biệt, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã vận dụng linh hoạt Giữa quy
định của nhà nước với quy trình nghiệp vụ để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng
như: khách hàng gửi tiết kiệm có kỳ hạn, nếu có nhu cầu rút trước hạn thì được
hưởng mức lãi suất không kỳ hạn cho số ngày thực gửi. Nhưng khách hàng gửi
được 2/3 thời gian thì sẽ được hưởng 75% lãi suất có kỳ hạn cho số ngày thực gửi.
- Tác phong giao dịch với khách hàng vui vẻ, hòa nhã, tân tình đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp, bạn hàng tổ chức tốt hoạt động kinh doanh.
*Chính sách đầu tư năng động:
Do nguồn vốn tăng trưởng, do nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng đòi hỏi
lớn, Ngân hàng Ngoại thương đã đầu tư vào các ngành mũi nhọn lớn như: dầu khí,
viễn thông, hàng không, làm đại lý cho các công ty bảo hiểm như PJCO,
PRUDENTIAL.
*Chính sách kinh doanh đa dạng
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã mở rộng hoạt động ra nhiều lĩnh vực
để khai thác lợi nhuận như: thành lập các công ty trực thuộc, góp cổ phần vào các
công ty lớn, tham gia mua tín phiếu kho bạc, đồng tài trợ và bảo lãnh tín dụng…
*Ap dụng công nghệ tiên tiến:
Công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã được đánh dấu bởi
những kết quả hết sức nổi bật trong lĩnh vực triển khai ứng dụng đồng loạt những
20
sản phẩm mới trên nền tảng ứng dụng công nghệ, tạo ra bước bứt phá mạnh mẽ
trong lộ trình phát triển của Ngân hàng Ngoại thương.
Hệ thống VCB onlai- mạnh trực tuyến của Ngân hàng Ngoại thương Việt
namđược kết nối trong toàn hệ thống , hỗ trợ cho các sản phẩm ngân hàng khác,
phù hợp với các yêu cầu đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt nam. Hệ thống Ngân
hàng điện tử(E- banking)tiếp tục được triển khai và hoàn thiện, cung cấp sản phẩm
E-banking cho từng đối tượng khách hàng và trả lương qua mạng Internet. Ngân
hàng ngoại thương cũng đã cung cấp dịch vụ thẻ Connect 24 đến với khách hàng
mở tài khoản cá nhân. Các tiện ích ưu việt của thẻ connect 24 đã được khách hàng
hưởng ứng và đánh giá cao.
Bên cạnh việc triển khai hàng loạt các sản phẩm tiện ích mới, Ngân hàng
Ngoại thương cũng đang xây dựng một nền tảng công nghệ ngân hàng tiên tiến
như dự án hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán có phạm vi
bao trùm lên tất cả các mảng hoạt động tác nghiệp cũng như quản lý ngân hàng.
*Chính sách cán bộ phù hợp
- Sử dụng đúng năng lực và phân cấp quản lý cán bộ đúng chức năng
- Tạo mọi thuận lợi để tất cả các cán bộ có điều kiện tiếp cận thực sự với thị
trường
2.Cơ cấu tổ chức
Khi mới thành lập, NHNT chỉ có một cơ sở ở Hà Nội và một chi nhánh ở
Hải Phòng. Ngày nay sau 40 năm hoạt động va cùng với truyền thống chuyên
doanh đối ngoại, NHNT được đánh giá là ngân hàng có uy tín nhất Việt Nam trong
các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài
chính, ngân hàng quốc tế khác. Tính đến cuối năm 2002, NHNT Việt Nam đã phát
triển thành một hệ thống vững mạnh bao gồm:
*24 chi nhánh cấp 1 và 16 chi nhánh cấp 2 ở trong nước;
21
*1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài;
*2 công ty trực thuộc;
*Góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh
doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng;
*Tham gia 4 liên doanh với nước ngoài.
NHNT hiện có quan hệ đại lý với hơn 1.200 ngân hàng tại 85 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng trên phạm
vi toàn cầu. Ngoài vai trò là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực tự động hóa thanh
toán sử dụng mạng SWIFT, NHNT còn được coi là ngân hàng có hệ thống thông
tin hiện đại nhất Việt Nam. Quan trọng hơn cả, NHNT đã xây dựng và đào tạo một
đội ngũ cán bộ năng động nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ.
22
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC
23
Trụ sở chính
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng quản lý tín dụng
Phòngđầutư&chứngkhoán
Phòng công nợ
Phòng khách h ngà
Phòng Kế toánT i chínhà
Phòng Kế toán quốc tế
Phòng quản lý thẻ
Trung tâm thanh toán
Trung tâm tin học
Phòng QL đề án công
nghệ
Phòng tổng hợp thanh toán
PhòngTH&Phân tích KT
Phòng vốn
Phòng Quan hệ Quốc tế
Phòng QLLD&VPđại
diện
Phòng Tín dụng quốc tế
Phòng tổ chức CB & ĐT
Văn phòng
Phòng Quản trị
Phòng Báo chí
Phòng pháp chế
Phòng Thông tin tín
dụng
Mạng lưới nước ngo ià
Mạng lưới trong nước
Sở giao dịch
Các chi nhánh Các công ty con
Văn phòng đại diện
(Paris,Moscow,Singapore
Công ty t i chínhà
(Hong Kong)
Ban
Tổng giám đốc
Hội đồng
Quản trị
Ban Kiểm
soát
Hội đồng
Tín dụng
3. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
3.1. Tình hình nguồn vốn và công tác huy động vốn.
a) Nguồn vốn:
Đến cuối tháng 12 năm 2002 tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương
đạt 81.156 tỷ quy đồng, tăng 5,6% so với cùng thời điểm năm 2001 và 17,1% so
với năm 2000. Năm 2002 đánh dấu sự kết thúc giai đoạn I của chương trình tái cơ
cấu Ngân hàng Ngoại thương. Nhìn lại 3 năm qua có thể thấy công tác vốn của
Ngân hàng Ngoại thương đang đi đúng hướng do Ban lãnh đạo đề ra và đã đạt
được những kết quả bước đầu:
- Tốc độ tăng trưởng vốn bình quân đạt 22%/năm, cao hơn mục tiêu đề ra
trong chương trình tái cơ cấu (15-20%/năm). Tốc độ tăng trưởng vốn VND và
ngoại tệ không cùng chiều: vốn VND tăng với tốc độ nhanh hơn qua các năm (bình
quân 28,6%/năm) trong khi vốn ngoại tệ có tốc độ tăng trưởng giảm dần (bình
quân 16%/năm).
- Trong năm qua nguồn vốn VND tăng khá mạnh: + 6.799 tỷ đồng, tương
đương với 33,2% so với năm 2001 và 29,9% so với năm 2000.
- Nguồn vốn ngoại tệ đạt 2,8 tỷ USD giảm 6,2%. Khó khăn trong công tác
huy động vốn ngoại tệ bắt đầu từ năm 2001 khi Fed bắt đầu giảm lãi suất chỉ đạo
từ mức 6,5%/năm và tiếp tục khó khăn hơn trong năm 2002, khi lãi suất giảm
xuống mức 1,25%.
24
46
40
34
38
20
19
16
39
47
0%
20%
40%
60%
80%
100%
năm 2000 năm 2001 năm 2002
vèn tõ LNH
vèn tõ TK
vèn tõ TCKT
Biểu 1. Tình hình nguồn vốn
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Tổng nguồn
Tăng trưởng tuyệt đối
Tăng trưởng %
65.631
19.943
43,7
76.831
11.200
17,1
81.156
4.325
5,6
Tổng nguồn ngoại tệ USD (triệu)
Tăng trưởng tuyệt đối
Tăng trưởng %
3.321
977
41,7
3.740
419
12,6
3.507
- 233
- 6,2
Tổng nguồn VND
Tăng trưởng tuyệt đối
Tăng trưởng %
16.666
3.832
29,9
20.466
3.800
22,8
27.265
6.799
33,2
Tỷ trọng 25,39 26,64 33,60
b) Huy động vốn.
Cơ cấu nguồn vốn quy đồng của NHNT năm 2000-2002
25