Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4 5 tuổi) thông qua trò chơi đóng kịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.47 KB, 69 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đối với trẻ em, việc giáo dục ngơn ngữ giữ một vai trị quan trọng.
K.D.U.Sinxki đã nói: “Ngơn ngữ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ, là kho
tàng của mọi kiến thức”. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, phát triển tư duy,
nhận thức của trẻ. Vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những
công việc làm cần thiết và phải bắt đầu từ lứa tuổi mầm non, trong đó phát
triển ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ được coi là quan trọng nhất vì cái đích cuối
cùng của giáo dục ngôn ngữ là trang bị cho trẻ một cơng cụ để thực hiện hoạt
động giao tiếp.
Cịn theo Ph.A.Xơkhin “ sự mạch lạc của lời nói là sự mạch lạc của tư
duy. Theo mức độ trẻ nói ra suy nghĩ của mình, có thể đánh giá được trình độ
phát triển ngơn ngữ của nó”. Quan điểm đó cho ta thấy sự phát triển của ngôn
ngữ mạch lạc giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ mẫu giáo nói
chung và trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi nói riêng.
Trong chương trình đổi mới ở bậc học Mầm non hiện nay, phát triển
ngôn ngữ là một trong bốn mục tiêu quan trọng của chương trình. Thực hiện
mục tiêu phát triển ngôn ngữ, nhất là phát triển ngôn ngữ mạch lạc địi hỏi
giáo viên phải biết tích hợp, lồng ghép các hoạt động phát triển ngôn ngữ vào
nội dung các môn học được thực hiện theo chủ điểm. Khi tổ chức các hoạt
động chung có mục đích học tập có thể phối hợp nội dung phát triển ngơn ngữ
cho trẻ dưới nhiều hình thức.
Để phát triển ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo có nhiều cách thức
khác nhau, trong đó dạy trẻ đóng kịch là một hoạt động thích hợp. Ngay từ nhỏ,
trẻ đã rất thích được nghe kể những câu chuyện và dần dần có nhu cầu muốn tái
hiện lại những câu chuyện đó qua trị chơi đóng kịch cho người khác xem.

Việc phát triển ngơn ngữ, rèn khả năng diễn đạt lưu loát, biểu cảm cho
trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi thông qua việc dạy trẻ đóng kịch là một hoạt động


thiết thực góp phần tích cực vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ về các mặt:
Đạo đức, trí tuệ, lao động, thể chất, thẩm mĩ.


2

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc dạy trẻ đóng kịch chính là
giúp trẻ nói đúng cấu trúc ngữ pháp và diễn đạt mạch lạc, giúp trẻ diễn đạt
ngôn ngữ biểu cảm, làm phong phú vốn từ của trẻ. Cung cấp cho trẻ những tri
thức đơn giản, có hệ thống câu từ và các phương thức diễn đạt tình cảm của
ngơn ngữ.
Tuy vậy, trong thực tế dạy và học ở một số trường Mầm non hiện nay
thì việc phát triển ngôn ngữ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc thơng
qua trị chơi đóng kịch cho trẻ vẫn cịn nhiều bất cập. Trường mầm non thì sự
đầu tư, kiểm tra, đôn đốc, động viên giáo viên thực hiện tốt vấn đề phát triển
ngôn ngữ một cách khoa học cịn chưa được chun sâu. Về phía giáo viên thì
việc nhận thức được đầy đủ vai trị, ý nghĩa của việc phát triển ngơn ngữ
mạch lạc cho trẻ cịn hạn chế nên cịn ít sự quan tâm, tìm tịi, nghiên cứu, áp
dụng các biện pháp thích hợp để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ mạch lạc một
cách có hiệu quả. Điều này làm hạn chế việc phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo trong hoạt động ngơn ngữ cho trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
ở trường mẫu giáo, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi, tôi mạnh dạn
nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch” với hy vọng đóng
góp một phần bé nhỏ vào việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ mẫu giáo
nói riêng và phát triển ngơn ngữ cho trẻ em nói chung.
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Về lý luận
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc

cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi).
- Điều tra thực trạng dạy trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) phát triển ngôn ngữ
mạch lạc thông qua trị chơi đóng kịch.
2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất 7 biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5
tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch.


3

- Thử nghiệm sư phạm một số tiết dạy để khẳng định tính khả thi của đề tài.
3. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi).
- Điều tra thực trạng về việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo
nhỡ (4-5 tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo
nhỡ (4-5 tuổi) thông qua trị chơi đóng kịch.
- Thử nghiệm sư phạm một số tiết dạy để khẳng định tính khả thi của đề tài.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận có liên quan đến việc phát triển ngơn ngữ
mạch lạc cho trẻ.
- Nghiên cứu thực trạng về việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu
giáo nhỡ (4-5 tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch.
- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu
giáo nhỡ (4-5 tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch.
- Thử nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả và kiểm tra giả thuyết khoa học.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5

tuổi) thơng qua trị chơi đóng kịch.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Với thời gian hạn hẹp nên tôi chỉ xin nghiên cứu một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ Mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) thơng qua trị chơi
đóng kịch ở Trường Mầm non Lê Đồng – Thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài
liệu, các đề tài nghiên cứu,…liên quan tới đề tài: Tìm hiểu về vấn đề phát triển
ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ mầm non, về trị chơi đóng kịch, về vai trò của trò


4

chơi đóng kịch trong phát triển ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ mầm non; nghiên
cứu các tài liệu liên quan đến sự phát triển tâm, sinh lý lứa tuổi mầm non
nhằm phân tích tổng hợp cơ sở lý luận cho đề tài.
6.2.Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát, ghi chép xác định thực trạng việc sử dụng trị chơi đóng kịch
của giáo viên ở trường mầm non.
Quan sát, ghi chép những biểu hiện nhận thức, hứng thú của trẻ trong
trị chơi đóng kịch.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại với giáo viên để điều tra những khó khăn, hạn chế mà giáo
viên gặp phải. Cũng như cách thức tổ chức trị chơi đóng kịch cho trẻ mẫu
giáo nhỡ (4-5 tuổi) ở trường mầm non.
Đàm thoại với trẻ để tìm hiểu hiệu quả tổ chức trị chơi đóng kịch cho
trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) ở trường mầm non.
7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

Tổng kết những kinh nghiệm của giáo viên trong việc phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) thông qua trị chơi đóng kịch.
7.2.4. Phương pháp điều tra.
Bằng phiếu anket để tìm hiểu cách thức trong việc phát triển ngơn ngữ mạch
lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) thông qua trị chơi đóng kịch.
7.2.5. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng các cơng thức tính %, điểm trung bình… nhằm xử lý và phân
tích các kết quả nghiên cứu.


5

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1.Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài
Tuổi mẫu giáo là giai đoạn diễn ra sự phát triển nhanh về mọi mặt,
trong đó, phát triển lời nói diễn ra với tốc độ đặc biệt. Vì thế, có khơng ít các
nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu ngôn ngữ
và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn này. Trong đó các cơng trình
nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ chiếm một vị trí đáng kể.
Qua q trình tìm hiểu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ (45 tuổi) qua giờ đóng kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học và việc xây dựng
một số biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động đó, tơi đã tiếp cận với
một số cơng trình nghiên cứu trong ở nước ngồi như các nghiên cứu của
V.Vseptrenko và M.K.Bơgơlupx kaia với nhan đề “Đọc và kể chuyện văn học
ở vườn trẻ”, cơng trình “Những bước phát triển của trẻ em”. “Những phương
pháp và điều kiện cho trẻ em vui chơi” của Ylira Fllneky và Radda Barmen,
cơng trình “Về văn học của trẻ mẫu giáo” do tập thể giáo viên Hanjoachim

Horst, Cholothaues cộng hịa dân chủ Đức viết và hồn thiện năm 1976.
“Tư duy và ngơn ngữ” là một cơng trình nghiên cứu có giá trị trong lĩnh
vực ngơn ngữ trẻ em của L.X.Vưgơtxki – nhà tâm lí học người Nga nổi tiếng
thế kỷ XX. Ông lập luận rằng hoạt động tinh thần của con người chính là kết
quả học tập mang tính xã hội chứ khơng phải hoạt động học tập chỉ là của cá
thể. Theo ông, khi trẻ gặp phải những khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia
vào sự hợp tác của người lớn và với bạn bè có năng lực cao hơn, những người
này đã giúp đỡ và khuyến khích trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác này thì quá
trình tư duy trong một xã hội nhất định được truyền sang trẻ. Do ngôn ngữ là
phương thức đầu tiên mà qua đó con người trao đổi các giá trị xã hội.
Vưgôtxki coi ngôn ngữ là vô cùng quan trọng đối với phát triển của tư duy.


6

Với cuốn: “Phát triển lời nói trẻ em dưới tuổi học”, tác giả E.I.Chikhiêva
– nhà giáo dục người Nga đã đề ra các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách có hệ thống , trong đó bà nhấn mạnh cần dựa trên cơ sở cho trẻ tìm hiểu về
thế giới tự nhiên xung quanh trẻ, dạo chơi, xem tranh, kể chuyện và đặc biệt là
đóng kịch cho trẻ nghe. Bà đã đưa ra các biện pháp cụ thể để phát triển ngơn ngữ
nói cho trẻ mẫu giáo như: “Nói chuyện với các em, giao nhiệm vụ cho các em,
đàm thoại, kể chuyện, đọc truyện, thư từ, học thuộc lòng, thơ ca”. những tư
tưởng này vẫn còn nguyên giá trị với khoa học giáo dục mầm non ngày nay.

1.1.1.2. Lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam
Ở nước ta, ngành giáo dục mầm non tuy chưa phát triển như các nước trên
thế giới nhưng đã có nhiều thành cơng nhất định trong việc nghiên cứu những
nội dung phương pháp giáo dục trẻ. Trong đó có giáo dục tiếng mẹ đẻ cho trẻ
trước tuổi học, ngày càng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Điều này
được thể hiện bằng các tiết học ở trường mầm non do Bộ Giáo Dục – Đào tạo đề

ra trong các chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non như: Làm quen với
chữ cái, Bé tập tô,… Đặc biệt hiện nay, theo xu hướng đổi mới giáo dục trong
trường mầm non, chúng ta chú trọng đến nội dung phát triển ngơn ngữ theo
hướng tích hợp trong các hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển một các tồn diện.
Nhiệm vụ phát triển ngơn ngữ, trong đó có nhiệm vụ dạy trẻ nói mạch lạc
đã được tác giả Nguyễn Xuân Khoa đề cập đến trong cuốn: “Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”. Tác giả đã đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
dạy trẻ đóng kịch nhằm phát triển lời nói độc thoại cho trẻ. Từ đó giúp hình
thành khả năng giao tiếp cho trẻ và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc hơn.
Những cơng trình nghiên cứu ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ mầm non xuất
hiện ngày càng nhiều. Các luận án tiến sĩ như: “Một số biện pháp phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi)” của Nguyễn Thị Oanh, luận án:
“Những đặc điểm tâm lí của hoạt động ngơn ngữ trong việc kể chuyện của trẻ
mẫu giáo” của Hồ Lam Hồng, luận án: “Dạy trẻ 5 - 6 tuổi kể chuyện sáng tạo
nhằm phát tiển ngơn ngữ mạch lạc” của Hồng Thị Hồng Mát,…vv. Các khóa
luận tốt nghiệp như: “Tìm hiểu sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ 5 -


7

6 tuổi thơng qua trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học” của tác giả Lưu
Hồng Nhung, khóa luận: “Hướng dẫn trẻ 5 đến 6 tuổi trường mầm non Thảo
Nguyên Mộc Châu – Sơn La đóng kịch theo cốt truyện nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ” của tác giả Nguyễn Thị Thủy,… và cịn rất nhiều cơng trình khác
nữa.
Vấn đề sử dụng trị chơi đóng kịch để phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ mẫu giáo nhỡ (4–5 tuổi) là một mảng đề tài đã có một số người quan tâm
nghiên cứu. Ở những cơng trình này, theo các mục đích nghiên cứu khác
nhau, tơi nhận thấy tác giả chủ yếu quan tâm đến những vấn đề khái quát về
giờ đóng kịch hoặc vai trị của đóng kịch tới sự hình thành và phát triển nhân

cách, đóng kịch với đời sống tinh thần, đóng kịch với sự phát triển ngôn
ngữ… của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên cứu các tác động đặc biệt của giờ
đóng kịch đối với sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5
tuổi). Trong luận văn này tôi tiếp tục nghiên cứu một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4–5 tuổi) thông qua trị chơi đóng
kịch, với hy vọng đóng góp một tiếng nói nhỏ vào việc kích thích khả năng
giao tiếp, sự tự tin và hứng thú khi tham gia các hoạt động. Từ đó trẻ sẽ bộc lộ
và phát huy được thế mạnh của bản thân.
1.1.2. Cơ sở sinh lý học, tâm lý học và giáo dục học của trẻ mẫu giáo nhỡ
1.1.2.1. Cơ sở sinh lý học
Trẻ em sinh ra được thừa hưởng qua cơ chế di truyền những đặc điểm
sinh lý theo kiểu người từ thế hệ đi trước. Cơ sở sinh lý được coi là cơ sở tự
nhiên của phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Những đặc điểm của cơ
quan sinh lý tham gia vào hoạt động ngôn ngữ là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề cho sự lĩnh hội và phát triển của trẻ em. Hoạt động nói năng được đảm bảo
bằng những cơ quan sinh lý phức tạp khác nhau, đó là: Trung tâm ngơn ngữ
trên vỏ não, cơ quan thính giác và hệ thống phát âm. Các nhà giải phẫu đã
khẳng định trong ba năm đầu là kết thúc sự trưởng thành về mặt gải phẫu
những vùng não chỉ huy ngơn ngữ. Vì vậy cần phát triển ngôn ngữ đúng lúc
mới đạt hiệu quả tốt nhất.


8

1.1.2.2. Cơ sở tâm lý học
Ở góc độ tâm lý học, các nhà tâm lý học nhận thấy rằng việc tiếp thu
ngơn ngữ có nhiều điểm khác nhau. Việc tiếp thu ngôn ngữ phụ thuộc vào sự
nhanh nhạy của hệ thống thần kinh và ý chí của đứa trẻ.
Trẻ mầm non và đặc biệt là tuổi mẫu giáo, sự tích lũy tri thức diễn ra
rất mạnh, ngơn ngữ được hình thành, các q trình nhận thức được hồn

thiện, trẻ nắm được các phương pháp đơn giản của hoạt động trí tuệ. Đây là
giai đoạn trẻ cần được sự giáo dục – xã hội hóa một cách tích cực. Giai đoạn
này được chia làm hai thời điểm: tuổi nhà trẻ từ 1 đến 3 tuổi, tuổi mẫu giáo từ
3 đến 5 tuổi. Đặc biệt, trẻ 4 – 5 tuổi, đây là độ tuổi mẫu giáo nhỡ, là giai đoạn:

“Hoàn thiện hoạt động vui chơi và hình thành xã hội trẻ em”. Chính ở lứa
tuổi này (4-5 tuổi) thì hoạt động vui chơi mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất,
cũng tức là nó đạt tới dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ nhất đặc điểm của
hoạt động vui chơi, nhiều hơn cả là trị chơi đóng vai theo chủ đề, hay trị
chơi đóng kịch. Có thể nói rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ
đang phát triển tới mức hoàn thiện. Ở lứa tuổi này, trong hoạt động vui chơi
trẻ đã thể hiện rõ tính tự lực, tự do và chủ động. Đây cũng là thời kì mà tư
duy trực quan hình tượng phát triển mạnh nhất. Tuy nhiên nó chưa thể tách
rời những hoạt động vật chất và hoạt động thực tiễn của trẻ. Ở trẻ, trí tưởng
tượng phát triển mạnh là do ảnh hưởng của các trị chơi vận động , tạo hình,
nghe kể chuyện,… kinh nghiệm phong phú là điều kiện cần thiết cho trí tưởng
tượng phát triển đến mức độ cao. Do hoạt động nhận thức phát triển mạnh, trẻ
bắt đầu có sự cảm nhận, có những rung cảm về mặt thẩm mĩ, có phản ứng rất
sinh động đối với cái đẹp, nhất là cái đẹp trong tác phẩm văn học và trong các
tác phẩm kịch bản. Để trẻ chơi trị chơi đóng kịch được tốt cô giáo cần phải
biết khơi gợi cảm xúc của trẻ. Vì vậy, mọi sự can thiệp sớm trong việc cải
thiện khả năng giao tiếp, khả năng nói mạch lạc của trẻ cần phải đưa vào
trong giai đoạn này.
1.1.2.3. Cơ sở giáo dục học
Để trẻ phát triển toàn diện theo mục tiêu của ngành học giáo dục mầm
non đặt ra, cần phải có những tác động sư phạm cần thiết. A.L.Xorokina cho


9


rằng: “Những tri thức trẻ lĩnh hội được bằng kinh nghiệm, khơng có sự hướng
dẫn thường là những tri thức rời rạc, do đó dễ có những biểu tượng sai”. Và
trong lý thuyết “vùng phát triển gần” ông khẳng định: “Một điểm cơ bản của
giảng dạy là tạo ra vùng phát triển gần, tức là kích thích trẻ hoạt động, thức
tỉnh một loạt các quá trình phát triển nội tại và đưa chúng vào cuộc chuyển
động. Chỉ có việc giảng dạy nào đi trước sự phát triển, mới là việc giảng dạy
tốt”. Với sự giúp đỡ của người lớn tổ chứ cho trẻ hoạt động phù hợp, trẻ có
thể thể hiện năng lực cao hơn điểm phát triển dừng trước đó.
Và những quan điểm đó phù hợp với mục tiêu của ngành học giáo dục
Mầm non đặt ra để phát triển tồn diện nhất cho trẻ. Điều đó có nghĩa là
chúng ta phải chú ý đặc biệt đến những tác động sư phạm cần thiết và các yếu
tố về môi trường xung quanh. Dù trẻ đang sống trong giai đoạn phát cảm
ngơn ngữ, nhưng tự bản thân trẻ khó có thể thỏa mãn được nhu cầu phát triển
đó. Nên Kal.Hainodic đã khẳng định: “Trẻ khơng thể tự mình học tiếng mẹ
đẻ. Trẻ cần có mơi trường ngơn ngữ xung quanh đó là con người và sự giao
tiếp của người lớn đối với trẻ”.
Người lớn là người thầy đầu tiên giúp trẻ chiếm lĩnh khả năng sử dụng
tiếng mẹ đẻ. Nên cần tạo ra mơi trường mang tính chất chuẩn mực cho trẻ,
cùng tham gia vào hoạt động ngôn ngữ với trẻ và cần phải nắm vững được
đặc điểm phát triển ngơn ngữ của trẻ ở từng lứa tuổi để có biện pháp tác động
phù hợp, tạo nên “vùng phát triển gần”, phát huy tối đa tính tích cực, tính chủ
thể của trẻ trong hoạt động ngôn ngữ, làm phát triển năng lực ngôn ngữ của
trẻ cao hơn “điểm phát triển dừng” trước đó.
Bên cạnh vai trị của người lớn thì trường Mầm non là nơi đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân để phát triển toàn diện cho trẻ. Thực tế đã
chứng minh rằng: Mọi khuyết điểm nào của giáo dục trong thời kỳ Mẫu giáo
đều rất khó khắc phục vào những lứa tuổi lớn hơn và có ảnh hưởng xấu đến
toàn bộ sự phát triển của trẻ sau này.
Đối với trẻ Mẫu giáo thì: “Học mà chơi, chơi mà học” hoạt động vui
chơi là hoạt động chủ đạo, nên nhà giáo dục Xô Viết lỗi lạc Krupxkaia viết:



10

“Đối với trẻ em trước tuổi đến trường phổ thông, trị chơi có ý nghĩa đặc
biệt, trị chơi đối với chúng là học tập, là lao động và là cách giáo dục
nghiêm túc”. Vì vậy, dạy trẻ chơi trị chơi đóng kịch thực hiện được chức
năng kép: Vừa giải trí trong trò chơi, vừa thực hiện chức năng giáo huấn và
đào tạo tri thức trong học tập.
Trong mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trẻ, trường Mẫu giáo đã chỉ
rõ yêu cầu cần đạt được của trẻ đến cuối tuổi Mẫu giáo là: “Trẻ hồn nhiên,
mạnh dạn, biết tự tổ chức những hoạt động mà trẻ ưa thích, biết diễn đạt ý
kiến nhận xét của mình rõ ràng, mạch lạc”. Như vậy cũng có nghĩa là u
cầu về ngơn ngữ mạch lạc cũng rất quan trọng. Mục tiêu được đặt ra cùng với
những đòi hỏi cấp thiết của sự phát triển, tăng trưởng của trẻ em đó là việc
phát triển tốt và kịp thời ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi),
tức là chuẩn bị tốt công cụ nhận thức, phát triển tư duy, đặc biệt trí tưởng
tượng và sáng tạo của trẻ trong giai đoạn này và chuẩn bị tốt cho sự phát triển
của trẻ trong các giai đoạn tiếp theo.
Chính vì thế mà trị chơi đóng kịch sẽ phát triển các khả năng sử dụng
ngôn ngữ một cách mạch lạc và các kĩ năng học tập thiết yếu cho trẻ.
1.1.3. Những vấn đề lý luận ngôn ngữ
1.1.3.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống các kí hiệu có cấu trúc, có quy tắc và ý
nghĩa, được con người sử dụng trong giao tiếp. Các kí hiệu đó có thể được kết
hợp, được tổ chức và sử dụng để truyền đạt một khối lượng thông điệp vô
cùng đa dạng và phức tạp. Ngơn ngữ có phạm vi sử dụng to lớn, có những đặc
trưng riêng và ln có tính sáng tạo.
Dưới góc độ xã hội học, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội lịch sử.
Ngôn ngữ xuất hiện để thỏa mãn nhu cầu giao lưu của con người trong cộng

đồng xã hội loài người. Trong lĩnh vực hoạt động của con người như: lao
động, học tập, vui chơi,…đều cần đến ngôn ngữ. Nhờ ngơn ngữ mà con người
có thể trao đổi nguyện vọng, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm với nhau. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác: “Ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Sự tồn tại
và phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội”.


11

Khi xem xét ngôn ngữ với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngơn
ngữ học thì ngơn ngữ là một hệ thống bao gồm các bộ phận: ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng chứa đựng hai phạm trù: Phạm trù ngữ
pháp và phạm trù logic. Phạm trù Ngữ pháp là hệ thống các quy tắc quy định
việc cấu tạo và kết hợp các từ, các câu. Phạm trù này đặc trưng cho từng thứ
tiếng (ví dụ: ngữ pháp tiếng Việt, ngữ pháp tiếng Nga,…) Phạm trù logic là
quy luật, phương pháp tư duy đúng đắn của con người.
Ngơn ngữ có nhiều chức năng nhưng quan tọng nhất là hai chức năng:
Công cụ giao tiếp và công cụ tư duy. Theo V.I.Lênin: “Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”. Thông qua ngơn ngữ con
người có thể nắm được tri thức, kỹ năng, những thành tựu khoa học lịch sử xã
hội lồi người. Nó góp phần duy trì và phát triển xã hội lồi người. Ngơn ngữ
càng phong phú thì việc hòa nhập với cuộc sống xã hội của con người ngày
càng thuận lợi.
Như vậy, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, là một hệ thống tín hiệu
đặc biệt làm công cụ để giao tiếp và phát triển tư duy.
1.1.3.2. Mối quan hệ giữa ngơn ngữ và lời nói
Theo Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo” thì: Lời nói là sản phẩm của từng cá nhân riêng biệt, tồn tại
chủ yếu dưới hình thức âm thanh, nó như một sản phẩm khá phức tạp. Lời nói là
q trình thể hiện tư duy trên cơ sở vận dụng những phương tiện ngơn ngữ. Lời

nói thực hiện chức năng giao tiếp, thông báo, chức năng tự bộc lộ cảm xúc và tác
động vào người khác. Lời nói là một chuỗi các tín hiệu ngơn ngữ được xây dựng
lên theo quy luật và “chất liệu” của ngôn ngữ, ứng với nhu cầu biểu hiện nội
dung (tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, ý chí,…). Cụ thể:

Dựa vào hình thái của mình, lời nói được chia thành hai dạng: lời nói
bên ngồi và lời nói bên trong.
Lời nói bên ngồi được nhằm dùng mục đích giao tiếp với người khác.
Căn cứ vào tính chất của giao tiếp thì lời nói bên ngồi tồn tại ở hai hình thức:
lời nói hội thoại và lời nói độc thoại.


12

Lời nói bên trong là một dạng hoạt động lời nói hướng vào bản thân,
diễn ra trong đầu, chuẩn bị cho giai đoạn giao tiếp bên ngoài, giúp cho con
người tự điều chỉnh, tự thích nghi. Vì vậy, lời nói bên trong được coi là lời
nói giành cho bản thân mình và có tính chất ngắn gọn hơn, sáng sủa hơn. Lời
nói bên trong là vỏ của từ ngữ tư duy, của ý thức, được con người sử dụng
trong hoạt động tư duy của mình.
Lời nói là phương tiện phát triển tư duy. Một trong những chức năng của
lời nói là trình bày tư tưởng, biểu đạt tư tưởng. Theo Nguyễn Ánh Tuyết trong
cuốn: “Giáo dục mầm non - những vấn đề lí luận và thực tiễn”, xuất bản năm
2000 có đề cập: Lời nói là hoạt động tâm lí đi kèm với hoạt động nhận thức xúc
cảm, ý chí, trí nhớ, đặc biệt là với tư duy. Lời nói của mỗi cá nhân mang một đặc
trưng riêng như: cách phát âm, cách lựa chọn và sử dụng từ, cấu trúc câu và luôn
tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi cá nhân [1, 41].

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói là mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng. Nếu ngôn ngữ được coi là sản phẩm, là kí hiệu chung cho cả một

cộng đồng thì lời nói lại là sản phẩm riêng biệt của mỗi cá nhân. Ngơn ngữ
mang tính khái qt và có tính ổn định trong một thời gian tương đối lâu, còn
lời nói lại mang tính cụ thể nhất thời và ln thay đổi. Lời nói mang tính
riêng biệt của từng người. Tuy có sự đối lập nhưng lời nói và ngơn ngữ ln
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngơn ngữ được con người thể hiện trong
lời nói và lời nói là phương tiện tồn tại của ngơn ngữ.
Như vậy, so với ngôn ngữ và mối tương quan giữa ngôn ngữ, lời nói
khơng chỉ đơn thuần là thứ yếu, hồn tồn ngẫu nhiên và mang tính cá nhân.
Nó cũng chính là ngơn ngữ.
Ngơn ngữ và lời nói có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau và
có thể chuyển hóa cho nhau. Kĩ năng thực hiện mỗi loại tùy thuộc vào trình
độ văn hóa nói chung và trình độ ngơn ngữ nói riêng của từng cá nhân.
1.1.3.3. Tư duy và ngơn ngữ
Tư duy là một q trình khi nói về diễn biến của nó, bắt đầu từ tình
huống có vấn đề, trải qua các giai đoạn phân tích, tổng hợp, phán đoán, khái


13

quát hóa,… cho đến lúc kết thúc khi giải quyết được vấn đề, nó có tình logic
và các giai đoạn nhất định. Tư duy được xem như một hoạt động (hoạt động
tâm lí) khi nói về tính tự giác, tính gián tiếp của sự phản ánh hiện thực biểu
hiện ở động cơ hoạt động, các mục đích nhất định của chủ thể và các hoạt
động thao tác trí tuệ hợp lí dựa vào những phương tiện nhất định của chủ thể.
Tư duy là một hoạt động tâm lí của từng cá nhân, kết quả của nó khơng
phản ánh hiện thực một cách khách quan gián tiếp sáng tạo mà còn cho ta thấy
sự chiếm lĩnh vận dụng, tác động của con người là tự giác có phương pháp và
có chủ đích đã dự kiến trước.
Mối quan hệ của tư duy và ngôn ngữ xuất phát từ mối quan hệ giữa ý
tưởng và từ ngữ. Vấn đề tư duy và ngôn ngữ được cụ thể hóa thành vấn đề

giữa ý tưởng và từ ngữ. Ngơn ngữ và tư duy có cùng một phạm vi nguồn gốc,
cái này tác động đến cái kia nhưng cả hai cũng phụ thuộc chặt chẽ vào trí
năng là cái có trước ngơn ngữ, khơng phụ thuộc vào ngơn ngữ.
Qua q trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã cho thấy có sự đan chéo
giữa tư duy và ngôn ngữ, cái này hỗ trợ cho cái kia phát triển. Nhờ có ngơn
ngữ mà ngay từ khâu mở đầu của quá trình tư duy con người nhìn nhận hồn
cảnh có vấn đề - khi đó q trình tư duy bắt đầu. Kết quả của q trình chính
là những khái niệm phán đốn, suy lí được diễn đạt trong từ ngữ và câu.
1.1.3.4. Ngôn ngữ mạch lạc
Sự mạch lạc của lời nói là sự mạch của tư duy. Lời nói mạch lạc phản
ánh tư duy logic của trẻ, kĩ năng suy nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh
nó một cách đúng đắn. Theo mức độ trẻ nói ra suy nghĩ của mình ta có thể
đánh giá trình độ phát triển ngơn ngữ của nó.
Với cuốn: “Đại cương ngôn ngữ - ngữ dụng học”, xuất bản năm 2001,
tác giả Đỗ Hữu Châu đã khẳng định: Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ
phát triển tương đối cao không những về phương diện ngôn ngữ mà cả về
phương diện tư duy của trẻ. Do cuộc sống đòi hỏi trẻ cần phải xây dựng cho
mình một kiểu ngơn ngữ mang tính rõ ràng, khúc chiết, chặt chẽ, theo một
trình tự nhất định để làm sao cho người khác có thể hình dung những điều mà


14

mình định mơ tả, điều đó làm nảy sinh các yếu tố của tư duy logic, nhờ vậy
mà toàn bộ sự phát triển của trẻ nâng lên một trình độ mới cao hơn.
Ở cuốn sách: “Từ hoạt động đến ngôn ngữ trẻ em”, xuất bản năm 1993
thì tác giả Nguyễn Huy Cẩn cũng cho rằng có hai kiểu lời nói mạch lạc, đó là
lời nói đối thoại và lời nói độc thoại. Đối thoại là câu chuyện giữa hai hay
nhiều chủ thể nói năng, sử dụng những câu có cấu trúc ngữ pháp đơn giản,
tỉnh lược các thành phần, có thể chỉ có một từ, một mệnh đề. Độc thoại là câu

chuyện của một chủ thể nói năng trước một hoặc nhiều đối tượng giao tiếp.
Trong ngôn ngữ độc thoại các từ ngữ phải được sử dụng một cách linh hoạt
để câu chuyện có tính mạch lạc, trơi chảy.
Lời nói mạch lạc nói riêng và ngơn ngữ mạch lạc nói chung thể hiện
trình độ phát triển tương đối cao khơng chỉ về phương diện tư duy. Để có kĩ
năng ngơn ngữ mạch lạc, mỗi người phải trải qua quá trình rèn luyện và phát
triển cả về mặt ngôn ngữ lẫn tư duy. Quá trình này được tiến hành ngay từ lứa
tuổi Mầm non và nó diễn ra liên tục trong cuộc sống giao lưu và hoạt động
của mỗi con người. Trong tiến trình đó, ngơn ngữ mạch lạc được hình thành
và mang những đặc điểm đặc trưng, phản ánh mức độ phát triển khả năng
ngơn ngữ nói chung và phản ánh mức độ phát triển tư duy của mỗi con người.
Giai đoạn Mẫu giáo từ 3-6 tuổi là giai đoạn diễn ra q trình lĩnh hội
các hình thức ngơn ngữ cơ bản. Qúa trình đó tạo điều kiện để trẻ tiến hành
giao tiếp dựa trên các phương tiện ngôn ngữ. Lời nói mạch lạc của trẻ Mẫu
giáo khơng thể tách rời khỏi kiểu tư duy trực quan và nó cũng phản ánh mức
độ phát triển khả năng ngơn ngữ nói chung của trẻ ở lứa tuổi này. Để phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ cần chú trọng giáo dục trẻ một cách tồn
diện. Ở đây, vai trị chủ đạo thuộc về giáo dục và dạy học: dạy trẻ kể chuyện
để phát triển các hình thức ngơn ngữ của trẻ Mẫu giáo.
1.1.4. Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi
1.1.4.1. Khái niệm lời nói mạch lạc
Nói đến khái niệm ngơn ngữ mạch lạc, có nhiều cách hiểu khác nhau
và được nhiều nhà giáo dục học, tâm lí học, ngơn ngữ học nghiên cứu, đưa ra
những kết luận khác nhau:


15

Theo D.B.Encơnhin: “Lời nói mạch lạc như sự bày tỏ bằng ngữ nghĩa
đầy đủ đảm bảo sự giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau. Lời nói mạch lạc trong trẻ

mẫu giáo là kết quả của sự phát triển nói chung”.
Cịn theo A.M.Bơrođich: “Lời nói mạch lạc là lời nói mở rộng có ý
nghĩa (những câu liên kết với nhau theo một cách logic) giúp cho con người
giải thích và hiểu nhau”.
Theo Bách khoa tồn thư ngơn ngữ và ngơn ngữ học, mạch lạc là sự kết
nối có tính chất logic được trình bày trong quá trình triển khai một cốt truyện,
một truyện kể… lệ thuộc vào việc tạo ra những sự kiện được kết nối với nhau
hơn là những dãy liên hệ thuộc ngôn ngữ.
Trong cuốn sách Văn bản và liên kết trong Tiếng Việt, giáo sư Diệp
Quang Ban đã xem xét ý kiến của nhiều tác giả, đặc biệt là các tác giả nước
ngoài về vấn đề mạch lạc và liên kết trong văn bản. Ông đã đề cập đến tính
mạch lạc trong văn bản và trong diễn ngơn, từ đó ơng đã đi đến kết luận:
“Mạch lạc là một khái niệm phức tạp, thuộc về nội dung của văn bản, nó bao
gồm nhiều yếu tố trừu tượng, khơng xác định”. Ông đã đưa ra một số biểu
hiện dễ quan sát nhất đối với mạch lạc trong văn bản như sau:
- Mạch lạc thể hiện trong tính thống nhất của đề tài, chủ đề.
- Mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lí (logic) của sự triển khai mệnh
đề.
- Mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lí (logic) giữa các câu.
- Mạch lạc thể hiện trong khả năng dung hợp nhau giữa các hoạt động
ngơn ngữ.
Lời nói mạch lạc không chỉ là phép cộng đơn giản của những từ, những
câu riêng lẻ mà là những suy nghĩ có liên quan với nhau, tồn tại bởi sợi dây
liên kết (liên kết nội dung và liên kết hình thức) được biểu hiện bởi những tư
duy logic về một chủ đề nhất định, được diễn đạt bởi những từ ngữ chính xác,
có hình ảnh trong những câu được xây dựng theo đúng quy luật ngữ pháp. Đối
với trẻ Mầm non lời nói của trẻ chính là ngơn ngữ của trẻ, ngơn ngữ mạch lạc
của trẻ chính là lời nói mạch lạc của trẻ.



16

1.1.4.2. Đặc điểm vui chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi)
Suốt cả cuộc đời, từ trẻ tới già, ở độ tuổi nào con người cũng đều tham
gia vào hoạt động vui chơi, nhưng chỉ ở tuổi mẫu giáo mà ở chính giữa cái
tuổi ấy (4-5 tuổi) thì hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó
nhất, cũng tức là nó đạt tới dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ nhất đặc điểm
của hoạt động vui chơi, nhiều hơn cả trị chơi đóng vai theo chủ đề, hay trị
chơi đóng kịch, đặc biệt là đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học. Có thể nói
rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ đang phát triển tới mức hoàn
thiện. Ở lứa tuổi này, trong hoạt động vui chơi trẻ đã thể hiện rõ tính tự lực, tự
do và chủ động. Ở độ tuổi này cũng chính là thời kì mà kiểu tư duy trực quan
hình tượng phát triển mạnh nhất. Tuy nhiên nó chưa thể tách rời những hoạt
động vật chất và hoạt động thực tiễn của trẻ.
Trong lứa tuổi ấu thơ, tình cảm là lĩnh vực thống trị tất cả các mặt hoạt
động tâm lí của đứa trẻ. Đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) thì đời
sống tình cảm của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú, vừa
sâu sắc hơn so với các độ tuổi trước đó. Ở độ tuổi này, quan hệ của trẻ với
những người xung quanh được mở rộng ra một cách đáng kể, do đó tình cảm
của trẻ cũng được phát triển về nhiều phía đối với những người trong xã hội.
Có thể nói đây là nguồn xúc cảm mạnh mẽ nhất và quan trọng nhất trong đời
sống tinh thần của trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi).
Khi trẻ ở lứa tuổi 3-4 tuổi mới chỉ bắt đầu xuất hiện các động cơ như:
muốn tự khẳng định mình, muốn được sống và làm việc như người lớn, muốn
nhận thức sự vật và hiện tượng xung quanh,… nhưng khi trẻ bước sang lứa
tuổi 4-5 tuổi thì các động cơ ấy đều được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là
những động cơ đạo đức, thể hiện thái độ của trẻ đối với người khác có một ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển các động cơ hành vi. Những
động cơ này gắn liền với việc lĩnh hội có ý thức những chuẩn mực về những
quy tắc đạo đức hành vi trong xã hội. Thời điểm này, những động cơ xã hội

trẻ muốn làm một điều gì đó cho người khác, mang lại niềm vui cho người
khác bắt đầu chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Và


17

trong động cơ hành vi của trẻ 4-5 tuổi còn có thêm yếu tố thi đua giữa mình
với các bạn, giữa tổ mình với tổ khác. Yếu tố thi đua kích thích trẻ hoạt động
một cách tích cực.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng động cơ hành vi của trẻ mẫu
giáo nhỡ (4-5 tuổi) đã trở nên nhiều màu, nhiều vẻ. Có thể kể đến như động
cơ khẳng định, động cơ nhận thức, muốn khám phá thế giới xung quanh, động
cơ thi đua, động cơ xã hội,… Trong đó những động cơ đó có thể có sự pha
trộn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực. Do đó cần quan tâm đến nội dung
động cơ của trẻ, cần phải phát huy động cơ tích cực và uốn nắn động cơ tiêu
cực. Giai đoạn nay cũng là giai đoạn các kĩ năng học tập về ngôn ngữ và nhận
thức của trẻ đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, mọi sự can thiệp sớm trong việc cải
thiện khả năng phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ cần đưa vào trong giai
đoạn này.
1.1.4.3. Ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ Mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi)
* Về cấu âm:
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ đã phát triển khả năng tri giác âm thanh
nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo. Cơ quan phát âm đã và đang trong
q trình hồn thiện. Tuy nhiên, trẻ vẫn còn mắc lỗi ở những âm vị khó, ý
nghĩa có phần xa lạ với trẻ như: khuya khoắt, loằng ngoằng,… Điều đó do
nhiều nguyên nhân: tai nghe của trẻ chưa hoàn thiện, do bẩm sinh, do yếu tố
tâm sự, do ngôn ngữ của những người xung quanh.
*Về vốn từ:
Trẻ ở lứa tuổi này đã tích lũy được vốn từ khá phong phú . Ý nghĩa của
các từ cũng phong phú hơn, khả năng nắm bắt ý nghĩa của các từ phát triển

hơn. Trẻ biết dùng chính xác hơn về các từ chỉ khơng gian, thời gian,… các từ
có tính chất gợi cảm, có hình ảnh và mang các sắc thái khác nhau. Trẻ đã tăng
dần vốn từ, từ loại, khả năng hiểu và sử dụng từ nên khả năng diễn đạt những
suy nghĩ cũng rõ ràng, trẻ khơng bị ảnh hưởng bởi ngơn ngữ hồn cảnh. Nhờ
vậy sự hiểu biết nhận thức và tư duy phát triển khá rõ rệt, nhất là tư duy trực
quan hình tượng.


18

*Về cấu trúc ngữ pháp
Trẻ Mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) đã nói được câu tương đối hồn chỉnh, rõ
ràng và thể hiện nội dung khá phong phú. Trẻ mở rộng câu theo hướng số từ
trong câu tăng lên, số câu trong khi diễn đạt giảm đi. Trong quá trình phát
triên, có đơi lúc khả năng ngơn ngữ của trẻ cịn chưa theo kịp khả năng nhận
thức, mức độ phát triển tư duy dẫn đến một số câu thiếu thành phần, sai trật
tự, dùng sai ý nghĩa, nội dung thông tin cịn nghèo nàn.
*Về sự phát triển ngơn ngữ mạch lạc
Đối với trẻ Mẫu giáo nhỡ, lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt nội
dung xác định, được thực hiện một cách logic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ
pháp và biểu cảm, lời nói mạch lạc khơng tách rời khỏi thế giới tư duy. Trong
lời nói mạch lạc phản ánh logic tư duy của trẻ, kỹ năng suy nghĩ tiếp nhận
được và phản ánh nó một cách đúng đắn. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ là nhiệm vụ quan trọng cần được tiến hành ngay khi trẻ biết nói câu đầu
tiên. Ngơn ngữ mạch lạc là hình thức cao nhất của ngơn ngữ, là kỹ năng khó
nhất phải được hình thành và phát triển trên những tiết học chun biệt dạy
trẻ các ngơn ngữ này. Để có lời nói mạch lạc, trẻ phải trải qua q trình rèn
luyện dưới sự hướng dẫn có mục đích, có kế hoạch của giáo viên. Muốn có
lời nói tốt cần phải biết suy nghĩ, biết diễn đạt một cách rõ ràng, chính xác,
logic, có hình tượng, đúng ngữ pháp và cịn phải phát âm đúng, kết hợp với

ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…
1.4.1.4. Ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo
nhỡ ( 4-5 tuổi).
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) góp phần
giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc
hơn. Ở trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi), vốn hiểu biết của trẻ ngày càng phong phú
và sâu sắc, nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh đã thay đổi cả về lượng
và chất so với trẻ giai đoạn trước đó. Do vậy, nhu cầu khám phá, nhận thức
của trẻ cũng phát triển theo. Trẻ đã có thể nhận thức được những dấu hiệu đặc
trưng cùng các mối liên hệ, quan hệ của sự vật, hiện tượng…


19

Phát triển đúng đắn kịp thời lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5
tuổi) cịn góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát triển tình cảm, cảm xúc
và phát triển tâm lí nói chung của trẻ. Giao tiếp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5
tuổi) thỏa mãn được nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với mọi người xung quanh.
Đồng thời qua giao tiếp trẻ còn diễn đạt được ý nghĩ, dự định tình cảm của
mình với người khác. Lời nói mạch lạc là phương tiện giao tiếp của trẻ ở mức
độ cao hơn cả về nội dung lẫn hình thức.
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) còn chuẩn bị
phương tiện tư duy trực quan hình tượng cho trẻ ở giai đoạn cao hơn. Hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển tư duy logic cho trẻ.
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) nhằm nâng
cao kĩ năng ngơn ngữ nói chung cho trẻ. Trẻ mẫu giáo nhỡ đã có ý thức thể
hiện ngữ điệu, giọng nói phù hợp với nội dung và hồn cảnh phát ngôn như:
Trẻ biết dùng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến hay
ngữ điệu gay gắt để thể thể hiện sự giận dữ. Điều này chứng tỏ rằng, trẻ mẫu
giáo nhỡ (4-5 tuổi) đã có ý thức trong việc dùng ngôn ngữ để diễn đạt ý của

mình.
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) là tạo điều
kiện để phát triển kĩ năng ngơn ngữ nói chung cho trẻ. Khi trẻ đã nói năng lưu
lốt, diễn đạt khúc chiết rõ ràng ý nghĩ của mình có nghĩa là trẻ đã có kĩ năng
sử dụng ngơn ngữ. Việc phát triển lời nói mạch lạc cịn góp phần làm cho trẻ
mạnh dạn hơn, tích cực hơn với hoạt động ngơn ngữ. Các kĩ năng này góp
phần chuẩn bị cho trẻ tham gia vào hoạt động học tập thuận lợi hơn.
1.1.5. Trị chơi đóng kịch – con đường để phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi
1.1.5.1. Khái niệm trò chơi đóng kịch
Trị chơi đóng kịch là trị chơi đóng vai theo tác phẩm văn học (truyện
ngụ ngơn, cổ tích, thần thoại…) nhờ trí tưởng tượng sáng tạo và cảm xúc của
mình, trẻ tái hiện lại tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học. Để tham gia
trò chơi này trước hết trẻ phải cảm thụ được tác phẩm văn học, nắm được cốt


20

truyện, tính cách nhân vật. Trên cơ sở đó tái hiện lại tính cách nhân vật theo
một kịch bản. Do vậy trò chơi này phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo, khi mà vốn
sống, ngôn ngữ của trẻ đã khá phát triển.
1.1.5.2. Đặc điểm của trị chơi đóng kịch
Trị chơi đóng kịch là loại trị chơi có chủ đề, có vai chơi, nội dung
chơi, nhưng nội dung chơi, vai chơi, hành động chơi được xác định trước
trong tác phẩm văn học (chứ khơng phải do trẻ tự nghĩ ra). Có thể nói đây là
một biến thể của trị chơi đóng vai theo chủ đề. Tính sáng tạo của trẻ được thể
hiện ở cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, lời nói… làm nổi bật tính cách nhân vật của
tác phẩm văn học chứ khơng làm sai lạc tính cách nhân vật (nhân vật tốt, đáng
yêu trở nên tốt hơn, đáng yêu hơn; nhân vật xấu xa, đáng gét trở nên xấu xa
hơn, đáng gét hơn).

Trị chơi đóng kịch là một loại trị chơi mang tính nghệ thuật. Tuy
nhiên nó khơng phải là một loại hoạt động nghệ thuật mà chỉ là trị chơi thơi.
Tính nghệ thuật và tính chất chơi là hai yếu tố kết hợp chặt chẽ với nhau trong
nội dung chơi cũng như q trình tổ chức trị chơi.
Yếu tố nghệ thuật trong nội dung chơi cũng như quá trình tổ chức trị
chơi được thể hiện ở những điểm sau:
- Trị chơi đóng kịch bao giờ cũng có kịch bản, đó là yếu tố trung tâm
giữ vai trị nịng cốt của nghệ thuật kịch. Có thể nói thành cơng của vở kịch
phải bắt đầu từ kịch bản (kịch bản chuyển thể có hấp dẫn hay khơng, có làm
nổi bật tính cách nhân vật hay khơng, có phù hợp với khả năng của trẻ hay
khơng... Vì vậy việc chuẩn bị kịch bản có ý nghĩa quan trọng khi tổ chức trị
chơi đóng kịch. Kịch bản vừa đề xuất nội dung, vừa là kế hoạch, chương trình
được thực hiện trên “sân khấu”.
- Nhân vật trong trị chơi đóng kịch có thể là người, có thể là con vật,
cảnh vật được nhân cách hóa với những phẩm chất, tính cách nổi bật như hiền
hoặc ác, nhanh hay chậm, khiêm tốn hoặc kiêu căng, nhút nhát hay dũng cảm,
tham lam hay tốt bụng, hảo tâm… Để làm nổi bật tính cách nhân vật trẻ phải
sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt… nhằm “hóa thân” vào nhân vật



×