Chƣơng 8
QUẢN TRỊ THƢƠNG MẠI CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO VÀ DỰ TRỮ SẢN XUẤT CỦA
DOANH NGHIỆP
8.1. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ THƢƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP
* Trong lĩnh vực quản lý các yếu tố vật chất, doanh nghiệp có những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Xác định đúng đắn nhu cầu vật tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và lập các kế
hoạch mua sắm vật tư.
- Lập đơn hàng vật tư kỹ thuật và ký hợp đồng cung ứng với các tổ chức kinh doanh,
theo dõi việc thực hiện hợp đồng đã ký.
- Tìm kiếm các nguồn vật tư bổ sung để thỏa mãn đầy đủ nhu cầu doanh nghiệp.
- Tổ chức tiếp nhận vật tư về số lượng, chất lượng và thực hiện bảo quản tốt vật tư.
- Theo dõi thường xuyên dự trữ sản xuất và có những biện pháp cụ thể, kịp thời bảo
đảm mức dự trữ sản xuất hợp lý.
- Tổ chức đảm bảo vật tư theo hạn mức cấp phát cho các phân xưởng, tổ đội sản xuất
trong doanh nghiệp, thường xuyên kiểm tra việc sử dụng những vật tư đã cấp ra.
- Thực hiện hạch toán vật tư, báo cáo tình hình bảo đảm vật tư của doanh nghiệp.
* Trong lĩnh vực quản lý tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu nhu cầu thị trường và những yêu cầu của khách hàng về sản phẩm sản
xuất của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt quá trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất.
- Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm và theo dõi việc thực hiện hợp đồng đã ký.
- Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ trong quá trình tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp.
- Thực hiện việc hạch toán sản phẩm và báo cáo tình hình tiêu thụ sản phẩm.
Để thực hiện nhiệm vụ trên và tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tính chất sản
xuất, danh mục vật tư sử dụng, các điều kiện cung ứng và tiêu thụ, doanh nghiệp phải tổ chức
bộ máy quản lý kinh doanh.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam tổ chức một phòng kinh doanh đảm nhiệm mua
sắm vật tư và tiêu thụ thành phẩm. Phòng kinh doanh thường được tổ chức theo nguyên tắc
chức năng (xem Sơ đồ 8.1).
Sơ đồ 8.1: Tổ chức phòng kinh doanh theo nguyên tắc chức năng
Hình thức này có ưu điểm là chức năng được chuyên môn hóa. Tổ kế hoạch chuyên
làm nhiệm vụ tính toán nhu cầu, lập kế hoạch cung ứng, lập đơn hàng, lập các phiếu lĩnh vật
tư theo hạn mức, phân tích hoạt động kinh doanh của phòng. Tổ chức tiếp liệu chuyên lo việc
mua sắm vật tư, theo dõi việc thực hiện cung ứng đầy đủ kịp thời, đồng bộ và chính xác cho
Tổ tiêu thụ
sản phẩm
Tổ kế hoạch
(Hậu cần sản
xuất)
Phó giám đốc
phụ trách kinh doanh
Kim
khí
Nhiên
liệu
Hóa
chất vật
liệu
điện
v.v.
Kho
số 1
Kho
số 2
Kho
số 3
v.v.
Trưởng phòng
kinh doanh
Tổ tiếp liệu
Tổ kho hàng
Đội
vận
chuyển
O
ck
= m x t
doanh nghiệp. Tổ kho chuyên lo việc tiếp nhận, bảo quản, cấp phát vật tư. Đội vận tải chuyên
làm nhiệm vụ chuyên chở vật tư về doanh nghiệp, đến các phân xưởng, các nơi làm việc và
chuyển giao hàng hóa sản xuất cho khách hàng.
8.2. QUÁ TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH MUA SẮM CỦA DOANH NGHIỆP
Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch sản xuất - kỹ
thuật - tài chính của doanh nghiệp và có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác, như kế
hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng cơ bản Trình tự lập kế hoạch mua
sắm vật tư bao gồm các công việc sau:
1. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất lượng và nội dung của kế hoạch vật
tư. Ở giai đoạn này, cán bộ thương mại doanh nghiệp phải thực hiện các công việc sau:
nghiên cứu và thu thập thông tin về thị trường các yếu tố sản xuất; chuẩn bị các tài liệu về
phương án sản xuất - kinh doanh; rà xét bổ sung và xây dựng hệ thống mức tiêu dùng vật tư,
tính toán lượng vật tư tồn kho ở các phân xưởng, các công đoạn sản xuất và cả doanh
nghiệp
2. Giai đoạn xác định số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ kế hoạch
Đối với các doanh nghiệp, số lượng vật tư thường được xác định theo phương pháp
ước tính và phương pháp định mức.
+ Số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ kế hoạch:
O
đk
= O
tt
+ N
h
- X
Trong đó:
O
đk
- Tồn kho ước tính đầu kỳ kế hoạch
O
tt
- Tồn kho thực tế tại thời điểm lập kế hoạch
N
h
- Lượng vật tư ước nhập kể từ thời điểm lập kế hoạch đến đầu năm kế hoạch
X - Lượng vật tư ước xuất ra kể từ thời điểm lập kế hoạch đến đầu năm kế hoạch
+ Số lượng vật tư tồn kho cuối kỳ kế hoạch:
Trong đó:
O
ck
- khối lượng hàng hoá dự trữ cuối kỳ kế hoạch (tấn)
m - mức tiêu dùng bình quân 1 ngày đêm kỳ kế hoạch (tấn)
t - thời gian dự trữ hàng hoá cần thiết (ngày), được xác định bằng phương pháp định
mức các bộ phận của t
3. Giai đoạn tính toán các loại nhu cầu vật tư của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp sản xuất, để có được kế hoạch mua vật tư chính xác và khoa
học đòi hỏi phải xác định đầy đủ các loại nhu cầu vật tư cho sản xuất. Đây là cơ sở để xác
định lượng vật tư cần mua về cho doanh nghiệp.
4. Giai đoạn kết thúc
Kết thúc của quá trình lập kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp là xác định nhu
cầu số lượng vật tư hàng hoá cần phải mua về cho doanh nghiệp.
ijij
PN
Trong đó:
ij
N
: Tổng nhu cầu về loại hàng i nhằm thỏa mãn mục đích j của doanh nghiệp
ij
P
: Tổng nguồn về loại hàng i được đáp ứng bằng nguồn j của doanh nghiệp
8.3. PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH NHU CẦU VẬT TƢ, THIẾT BỊ CHO DOANH
NGHIỆP
Quá trình bảo đảm vật tư cho sản xuất của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan
của mọi nền sản xuất xã hội. Và chỉ có trên cơ sở bảo đảm vật tư đủ về số lượng, đúng về quy
cách phẩm chất, kịp về thời gian thì sản xuất mới có thể tiến hành bình thường và kinh doanh
hiệu quả.
Như vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất cũng đều phải
tiến hành hoạt động mua sắm vật tư. Quá trình tổ chức mua sắm và quản lý vật tư ở doanh
nghiệp có thể khái quát ở sơ đồ 8.2.
đảm bảo vật tư
Sơ đồ 8.2: Mô hình tổ chức mua sắm và quản lý vật tƣ của doanh nghiệp
8.3.1. Xác định nhu cầu vật tƣ cho sản xuất sản phẩm
Nhu cầu vật tư cho sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp được xác định theo 4
phương pháp sau:
8.3.1.1. Phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này, việc xác định nhu cầu dựa vào mức tiêu dùng vật tư và khối
lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Phương pháp này có 4 cách tính:
1. Phương pháp tính theo mức sản phẩm
Nhu cầu được tính bằng cách lấy mức tiêu dùng vật tư cho một sản phẩm nhân với
số lượng sản phẩm sản xuất. Công thức tính:
n
N
sx
= ∑ Q
sfi
m
sfi
Lựa chọn
nhà cung ứng
Thương lượng
và đặt hàng
Theo dõi
đợt hàng và
tiếp nhận vật tư
Tổ chức
quản lý
vật tư nội bộ
Quản lý
dự trữ
và bảo quản
Cấp phát
vật tư nội bộ
Quyết toán
vật tư
Phân tích,
đánh giá
quá trình quản lý
Xác định
nhu cầu
Xây dựng
kế hoạch
yêu cầu vật tư
Xác định các
phương thức
đảm bảo vật tư
Lập và tổ chức
thực hiện
kế hoạch
mua sắm vật
tư
i=1
Trong đó:
N
sx
- Nhu cầu vật tư dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ
Q
sfi
- Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch
m
sfi
- Mức sử dụng vật tư cho đơn vị sản phẩm
n - Chủng loại sản phẩm
2. Phương pháp tính theo mức chi tiết sản phẩm
Nhu cầu được tính bằng cách tổng cộng tích giữa mức tiêu dùng vật tư cho một chi
tiết sản phẩm nhân với số lượng chi tiết sản phẩm. Công thức tính:
n
N
ct
= ∑ Q
cti
m
cti
i=1
Trong đó:
N
ct
- Nhu cầu vật tư dùng để sản xuất các chi tiết sản phẩm trong kỳ
Q
cti
- Số lượng chi tiết sản phẩm sẽ sản xuất trong kỳ kế hoạch
m
cti
- Mức sử dụng vật tư cho một đơn vị chi tiết sản phẩm
n - Chủng loại chi tiết
3. Phương pháp tính theo mức của sản phẩm tương tự
Áp dụng trong trường hợp kỳ kế hoạch doanh nghiệp dự định sản xuất những sản
phẩm mới nhưng sản phẩm này chưa có mức sử dụng vật tư. Thực chất của phuuwowng pháp
này là lấy những sản phẩm không có mức đối chiếu với những sản phẩm tương tự về công
nghệ chế tạo đã có mức để tính, đồng thời có tính đến những đặc điểm riêng của sản phẩm
mới mà áp dụng hệ số điều chỉnh. Công thức tính:
N
sx
= Q
sf
x m
tt
x K
Trong đó:
N
sx
- Nhu cầu vật tư dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ
Q
sf
- Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch
m
tt
- Mức tiêu dùng vật tư của sản phẩm tương tự
K - Hệ số điều chỉnh giữa hai loại sản phẩm
4. Phương pháp tính theo mức của sản phẩm đại diện
Áp dụng trong trường hợp sản phẩm sản xuất có nhiều cỡ loại khác nhau nhưng
khi lập kế hoạch vật tư chưa có kế hoạch sản xuất cho từng cỡ loại cụ thể mà chỉ có tổng số
chung. Trong trường hợp đó, lấy một sản phẩm đại diện đó để tính nhu cầu vật tư chung cho
các cỡ loại sản phẩm. Công thức tính:
N
sx
= Q
sf
x m
dd
Trong đó:
N
sx
- Nhu cầu vật tư để sản xuất sản phẩm trong kỳ
Q
sf
- Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch
m
dd
- Mức sử dụng vật tư của sản phẩm đại diện
8.3.1.2. Phƣơng pháp tính dựa trên cơ sở số liệu về thành phần chế tạo sản phẩm
Nhiều loại sản phẩm như sản phẩm của ngành công nghiệp thực phẩm, sản phẩm đúc,
sản phẩm bê tông được sản xuất từ nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Để có được sản
phẩm với chất lượng cần thiết, đáp ứng nhu cầu khách hàng, trong nhiều trường hợp, việc sản
xuất được tiến hành theo công thức định sẵn có chỉ rõ hàm lượng % của mỗi thành phần
nguyên vật liệu. Nhu cầu được xác định theo 3 bước:
1. Xác định nhu cầu vật tư để thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
N
t
= ∑ Q
i
H
i
i=1
Trong đó:
Q
i
- Khối lượng sản phẩm thứ i theo kế hoạch tiêu thụ trong kỳ
H
i
- Trọng lượng tinh của sản phẩm thứ i
n - Chủng loại sản phẩm
2. Xác định nhu cầu vật tư cần thiết cho sản xuất sản phẩm có tính đến tổn thất
trong quá trình sử dụng
N
i
N
vt
=
K
Trong đó:
N
vt
- Nhu cầu vật tư để sản xuất sản phẩm trong kỳ kế hoạch
K - Hệ số thu thành phẩm
3. Xác định nhu cầu về từng loại vật tư hàng hoá
N
i
= N
vt
x h
i
Trong đó:
N
i
- Nhu cầu vật tư thứ i
h
i
- Tỷ lệ % của loại vật tư thứ i
n
8.3.1.3. Phương pháp tính nhu cầu dựa trên cơ sở thời hạn sử dụng
Nhu cầu vật tư hàng hoá ở mỗi doanh nghiệp, ngoài những vật tư chính trực tiếp để
sản xuất sản phẩm còn có cả những hao phí vật liệu phụ. Thuộc số những vật tư này gồm có
phụ tùng thiết bị, dụng cụ tài sản, các loại dụng cụ bảo hộ lao động Ở đây, thời hạn định
mức quy định không chỉ về mặt thời gian mà cả công việc thực hiện như tấn/km Nhu cầu
được tính theo công thức:
P
vt
N
sx
=
T
Trong đó:
P
vt
- Nhu cầu hàng hoá cần có cho sử dụng
T - Thời hạn sử dụng
8.3.1.4. Phƣơng pháp tính theo hệ số biến động
Tính nhu cầu vật tư theo phương pháp này cần dựa vào thực tế sản xuất và sử dụng
vật tư trong năm báo cáo, phương án sản xuất kỳ kế hoạch, phân tích các yếu tố tiết kiệm vật
tư, từ đó xác định hệ số sử dụng vật tư kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo, cụ thể theo công thức:
N
sx
= N
bc
x T
sx
x H
tk
Trong đó :
N
bc
- Số lượng vật tư sử dụng trong năm báo cáo
T
sx
- Nhịp độ phát triển sản xuất kỳ kế hoạch
H
tk
- Hệ số tiết kiệm vật tư năm kế hoạch so với năm báo cáo
8.3.2. Xác định nhu cầu vật tƣ cho các sản phẩm dở dang
Trong các doanh nghiệp sản xuất, ngoài nhu cầu vật tư cho sản phẩm sản xuất, cần
phải tính nhu cầu vật tư cho các sản phẩm dở dang. Để tính nhu cầu này, người ta có thể sử
dụng các phương pháp sau đây:
8.3.2.1. Tính theo mức chênh lệch sản phẩm dở dang cuối kỳ và đầu kỳ
Căn cứ vào mức chênh lệch sản phẩm dở dang cuối kỳ và đầu kỳ kế hoạch cùng với
mức tiêu dùng vật tư cho một đơn vị sản phẩm để xác định nhu cầu vật tư, theo công thức:
N
dd
= (Q
dd2
-
Q
dd1
) x m
sf
Trong đó :
N
dd
- Nhu cầu vật tư cho sản phẩm dở dang
Q
dd2
- Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ kế hoạch
Q
dd1 -
Số lượng sản phẩm dở dang đầu kỳ kế hoạch
m
sf
- Mức tiêu dùng vật tư cho đơn vị sản phẩm
8.3.2.2. Tính theo chu kỳ sản xuất
Theo phương pháp này, tính nhu cầu vật tư căn cứ vào thời gian (số ngày) cần thiết để
sản xuất sản phẩm dở dang ở cuối năm kế hoạch và mức tiêu dùng trong một ngày đêm để
sản xuất hàng chế dở đó. Công thức tính:
N
sx
= (T
k
x M) - Q
vt
Trong đó:
T
k
- Thời gian cần thiết để sản xuất sản phẩm dở dang ở cuối năm kế hoạch
M - Mức tiêu dùng vật tư một ngày đêm để sản xuất sản phẩm dở dang
Q
vt
- Số lượng vật tư của nửa thành phẩm và hàng chế dở có đầu năm kế hoạch
8.3.2.3. Tính theo giá trị
Công thức tính:
Q
cd2
-
Q
cd1
N
sx
= x N
kh
G
kh
Trong đó:
Q
cd2
- Giá trị hàng chế dở cuối năm kế hoạch
Q
cd1
- Giá trị hàng chế dở đầu năm kế hoạch
G
kh
- Toàn bộ giá trị sản lượng sản phẩm năm kế hoạch
N
kh
- Số lượng vật tư cần dùng trong năm kế hoạch
8.3.2.4. Tính theo hệ số biến động
Theo phương pháp này, tính nhu cầu vật tư phải căn cứ vào giá trị nửa thành phẩm và
hàng chế dở đầu năm kế hoạch và tỷ lệ tăng giá trị tổng sản phẩm của doanh nghiệp trong
năm kế hoạch mà tính ra giá trị nửa thành phẩm và hàng chế dở cuối năm kế hoạch và từ đó
tính nhu cầu vật tư. Công thức tính:
(Q
cd1
x t
kh
)
-
Q
cd1
N
sx
= x N
kh
G
kh
Trong đó:
Q
cd1
- Giá trị hàng chế dở đầu năm kế hoạch
G
kh
- Toàn bộ giá trị sản lượng sản phẩm năm kế hoạch
N
kh
- Số lượng vật tư cần dùng trong năm kế hoạch
t
kh
- Tỷ lệ tăng (giảm) giá trị tổng sản phẩm năm kế hoạch so với năm báo cáo
8.3.3. Xác định nhu cầu thiết bị của doanh nghiệp
Ngoài nhu cầu vật tư cho sản xuất sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu, doanh
nghiệp còn phải xác định các loại nhu cầu cho nhóm máy móc thiết bị sử dụng ở doanh nghiệp,
tính theo 3 nhóm sau đây:
8.3.3.1. Nhu cầu thiết bị để mở rộng năng lực của doanh nghiệp
∑ Q
i
x M
i
+ G
k
i=1
N
tb
= - - A
T x C x G x K
sd
x K
m
n
Trong đó:
N
tb
- Nhu cầu máy móc, thiết bị tăng thêm kỳ kế hoạch
Q
i
- Khối lượng sản phẩm thứ i cần sản xuất trong kỳ kế hoạch
M
i
- Định mức giờ máy để sản xuất một đơn vị sản phẩm thứ i
G
k
- Số giờ máy dùng vào những công việc khác
T - Số ngày máy làm việc trong kỳ kế hoạch
n - Chủng loại thiết bị
C - Số ca làm việc
G - Số giờ máy làm việc trong một ca
K
sd
- Hệ số sử dụng thiết bị có tính đến thời gian ngừng sửa chữa theo kế hoạch, thời
gian điều chỉnh
K
m
- Hệ số thực hiện mức
A - Số máy móc thiết bị hiện có
8.3.3.2. Nhu cầu thiết bị để lắp máy sản phẩm
N
tb
= M
tb
x K
sp
+ T
ck
- T
đk
Trong đó:
N
tb
- Nhu cầu thiết bị cho lắp máy sản phẩm trong kỳ kế hoạch
M
tb
- Mức thiết bị dùng cho một máy sản phẩm
K
sp
- Số lượng máy sản phẩm dự kiến sản xuất trong kỳ kế hoạch
T
ck
- Tồn kho cuối kỳ về thiết bị dùng cho lắp máy sản phẩm
T
đk
- Tồn kho đầu kỳ về thiết bị dùng cho lắp máy sản phẩm
8.3.3.3. Nhu cầu máy móc thiết bị dùng để thay thế những máy móc thiết bị loại ra trong
quá trình sản xuất
Trong quá trình sử dụng, những máy móc thiết bị hư hỏng do nhiều nguyên nhân gây
ra và cần thiết phải thay thế, cách tính phải dựa trên yêu cầu về mở rộng năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, số lượng thực tế máy móc thiết bị hư hỏng loại ra và biên bản của hội
đồng giám định kỹ thuật. Trường hợp để thay thế những máy móc thiết bị lạc hậu về mặt kỹ
thuật, nhu cầu được xác định dựa vào yêu cầu nâng công suất của doanh nghiệp, mức độ lạc
hậu và hiệu quả của việc sử dụng thiết bị.
8.4. DỰ TRỮ HÀNG HÓA TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH
8.4.1. Khái niệm về dự trữ hàng hóa
Hàng hoá là một sản phẩm được sản xuất ra, trước hết nó phải có công dụng thoả mãn
một nhu cầu nào đó của xã hội (sản xuất hoặc tiêu dùng) và thứ hai là nó phải được bán ra
cho người khác chứ không phải để tự tiêu dùng.
Sản phẩm hàng hoá từ khi sản xuất ra đến khi được đem tiêu dùng (sử dụng), thời
gian đó sản phẩm hàng hoá ở trạng thái dự trữ hàng hoá.
Như vậy, dự trữ hàng hoá là trạng thái sản phẩm hàng hoá chưa được sử dụng (tiêu
dùng) theo công dụng, mục đích của nó. Là sản phẩm hàng hoá, nó luôn luôn phải tuân theo
một quá trình vận động từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đó chính là quá trình trao đổi hàng
hoá, lưu thông hàng hoá. Sản xuất ra hàng hoá là để tiêu dùng, chỉ khi bước vào tiêu dùng sản
phẩm trở lại thành sản phẩm đích thực. Dự trữ hàng hoá chính là sự tồn tại của sản phẩm
dưới dạng hàng hoá, là sự ngưng đọng của sản phẩm hàng hoá; đó là trạng thái sản phẩm
hàng hoá đang trong quá trình vận động từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng sản xuất
hoặc tiêu dùng cá nhân.
8.4.2. Các loại dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế quốc dân, có ba loại dự trữ hàng hoá chủ yếu là: dự trữ thành phẩm tiêu
thụ ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (gọi tắt là dự trữ tiêu thụ); dự trữ hàng hoá ở các
doanh nghiệp thương mại và dự trữ hàng hoá trên đường (dự trữ hàng hoá trên các phương tiện
vận tải).
Chúng ta lần lượt nghiên cứu ba loại dự trữ hàng hoá trên. (Xem sơ đồ 8.3)
Sơ đồ 8.3: Tuần hoàn các loại dự trữ hàng hoá trong
nền kinh tế quốc dân
+ Dự trữ tiêu thụ
Dự trữ tiêu thụ là dự trữ những thành phẩm đã hoàn thành việc chế tạo, đã nhập kho
tiêu thụ của xí nghiệp sản xuất kinh doanh và đangc hờ xuất bán.
+ Dự trữ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại
Dự trữ hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại được hình thành từ khi nhập hàng về
doanh nghiệp thương mại và kết thúc khi doanh nghiệp thương mại bán hàng (giao hàng) cho
khách hàng. Dự trữ hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại là dự trữ hàng hoá ở kho, trạm, cửa
hàng, quầy hàng, siêu thị, đại lý, trung tâm mua sắm của các doanh nghiệp.
Lĩnh vực
sản xuất
Lĩnh
vực lưu
thông
Lĩnh vực
tiêu dùng
Dự trữ tiêu thụ
Dự trữ
trên
đường D
vc
Đơn vị
tiêu dùng
cuối cùng
Dự trữ
sản xuất
Dự trữ
tiêu dùng
cá nhân
D
vc
Dự trữ
hh
bán
buôn
D
vc
Dự trữ
hh
bán
lẻ
Dự trữ sản xuất
Dự trữ bán thành phẩm
Dự trữ quốc gia
+ Dự trữ hàng hoá trên đường
Dự trữ hàng hoá trên đường được hình thành từ khi bốc xếp hàng hoá lên phương tiện
vận tải đến khi hàng hoá được giao cho khách hàng tại kho, trạm, cửa hàng, xí nghiệp.
Ngoài ba loại dự trữ hàng hoá nói trên, trong nền kinh tế quốc dân còn có các loại dự
trữ khác như dự trữ quốc gia, dự trữ vật tư kỹ thuật ở đơn vị sản xuất - kinh doanh, dự trữ tiêu
dùng.
8.4.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân
Dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân bị tác động bởi hai nhóm nhân tố trái
chiều nhau. Đó là:
Thứ nhất: Nhóm nhân tố làm tăng dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
- Nền kinh tế quốc dân tăng trưởng, do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao
động xã hội đi vào chiều sâu, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao dẫn đến sản phẩm
hàng hoá được sản xuất ra ngày càng nhiều.
- Do thị trường trong nước và ngoài nước ngày càng phát triển và mở rộng, hàng hoá
lưu thông ngày càng nhiều.
- Do điều kiện hoạt động thương mại ngày càng phát triển: xây dựng các kho chứa
lớn, các phương tiện vận tải có sức chứa lớn, vận chuyển đi xa hơn và nghiên cứu cách bảo
quản hàng hoá được lâu và nhiều hơn.
- Cơ chế quản lý thương mại và phong tục tập quán cũng có tác động làm tăng dự trữ
hàng hoá ở một khâu nào đó trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: cơ chế thị trường làm tăng dự
trữ hàng hoá ở khâu lưu thông, trên thị trường. Phong tục tập quán của người dân phương
Nam cũng làm tăng hàng hoá dự trữ trên thị trường: sản xuất ra để bán, cần dùng thì mua,
không cần dự trữ tiêu dùng nhiều.
Thứ hai: Nhóm những nhân tố làm giảm dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
- Phân bố lực lượng sản xuất hợp lý trong nền kinh tế quốc dân: sản xuất gần nơi tiêu
thụ; phát triển sản xuất hàng hoá trong nước, giảm được hàng hoá nhập ngoại
- Cải tiến các điều kiện vận tải: đường sá, cầu cống thuận tiện, phát triển nhiều loai
phương tiện vận tải có tốc độ cao, hàng hoá từ nơi sản xuất đi ra thị trường và đến người tiêu
dùng nhanh hơn.
- Cải tiến công tác lưu thông hàng hoá: giảm bớt thủ tục hải quan, các rào cản thương
mại
- Phát triển các nguồn nguyên nhiên vật liệu mới, tại chỗ, sẵn có ở địa phương
- Cơ chế quản lý thương mại và phong tục tập quán cũng có tác động đến giảm dự trữ
hàng hoá ở một khâu nào đó trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: cơ chế thị trường làm giảm
dự trữ hàng hoá ở đơn vị tiêu dùng, ở người sử dụng. Phong tục tập quán của người dân miền
Bắc là dự trữ lương thực đủ dùng trong thời vụ, vì vậy, thị trường hàng lương thực không
phát triển mạnh ở nông thôn.
Nhìn chung, khi nền kinh tế quốc dân tăng trưởng thì khối lượng sản phẩm hàng hoá
dự trữ sẽ tăng lên tuyệt đối và giảm tương đối; còn khi nền kinh tế quốc dân không tăng
trưởng hoặc suy thoái thì khối lượng sản phẩm hàng hoá dự trữ sẽ giảm tuyệt đối và tương
đối.
8.5. DỰ TRỮ SẢN XUẤT
8.5.1. Dự trữ sản xuất và các nhân tố ảnh hƣởng
Tất cả vật tư hiện có ở kho hoặc đã thuộc quyền sỡ hữu của doanh nghiệp đang nằm
chờ để bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp, gọi là dự trữ sản xuất.
Dự trữ sản xuất và dự trữ lưu thông (dự trữ hàng hóa) tạo thành tổng dự trữ hàng hóa
xã hội.
Lượng dự trữ sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố như sản xuất, cung ứng,
vận chuyển và tiêu dùng vật tư. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến dự trữ sản xuất là:
- Lượng vật tư tiêu dùng bình quân trong một ngày đêm của doanh nghiệp. Lượng này
lại phụ thuộc vào quy mô sản xuất, mức độ chuyên môn hoá sản xuất của doanh nghiệp và
phụ thuộc vào định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
- Mức xuất hàng tối thiểu một lần của doanh nghiệp thương mại. Mức này càng thấp
càng có khả năng nhận vật tư được nhiều lần và do đó lượng dự trữ càng ít.
- Trọng tải, tốc độ của phương tiện vận tải.
- Chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp thương mại: cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng
bộ và chính xác, không chỉ là điều kiện đảm bảo cho sản xuất tiến hành được tốt mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến lượng dự trữ sản xuất.
- Định kỳ sản xuất vật tư của doanh nghiệp sản xuất. Có những chủng loại, quy cách
vật tư, doanh nghiệp sản xuất chỉ sản xuất vào những kỳ hạn nhất định.
- Tính chất thời vụ của sản xuất, vận tải và tiêu dùng vật tư.
- Thuộc tính tự nhiên của các loại vật tư. Có những vật tư mà thời gian dự trữ lại do
thuộc tính tự nhiên của chúng quyết định.
8.5.2. Các bộ phận của dự trữ sản xuất
Dự trữ sản xuất bao gồm 3 bộ phận: dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm và dự trữ
chuẩn bị.
+ Dự trữ thường xuyên:
Dùng để bảo đảm vật tư cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được liên tục giữa
hai kỳ cung ứng nối tiếp nhau của doanh nghiệp thương mại.
Đặc điểm: Số lượng của nó biến động từ tối đa đến tối thiểu. Tối đa khi nhập lô hàng
vào kho doanh nghiệp và tối thiểu khi bắt đầu nhập lô hàng mới.
+ Dự trữ bảo hiểm:
Cần thiết trong những trường hợp sau đây:
- Mức tiêu dùng bình quân ngày đêm thực tế cao hơn so với kế hoạch. Điều đó có thế
xảy ra khi có sự thay đổi kế hoạch sản xuất theo chiều tăng lên do cải tiến tổ chức sản xuất và
kỹ thuật sản xuất, hoặc kế hoạch sản xuất không thay đổi nhưng mức tiêu hao nguyên liệu
tăng lên.
- Lượng vật tư nhập thực tế ít hơn so với mức dự kiến trước, trong lúc chu kỳ cung
ứng và tiêu dùng bình quân ngày đêm vẫn như trước.
- Chu kỳ cung ứng thực tế dài hơn, trong lúc lượng hàng cung ứng và mức tiêu dùng
bình quân trong ngày đêm vẫn như trước.
Dự trữ chuẩn bị:
Tất cả các loại vật tư khi về đến doanh nghiệp và trước khi chúng được đưa vào sử
dụng trong doanh nghiệp, đều phải qua các thủ tục nhập kho và xuất kho ( kiểm tra số lượng
và chất lượng, xếp hàng vào kho và đưa hàng ra, lập các chứng từ nhập, xuất ). Những công
việc này phải mất một thời gian gọi là thời gian dự trữ chuẩn bị. Đại lượng dự trữ chuẩn bị
tương đối cố định.
Tính chất thời vụ của sản xuất, tiêu dùng và vận chuyển vật tư đòi hỏi phải có dự trữ
thời vụ ở tất cả các giai đoạn tuần hoàn của vật tư. Đặc điểm và tính chất ảnh hưởng của
những điều kiện thời vụ dẫn đến sự cần thiết phải gia tăng tất cả các loại dự trữ.
8.6. ĐỊNH MỨC DỰ TRỮ SẢN XUẤT
8.6.1. Khái niệm và quy tắc định mức dự trữ sản xuất
8.6.1.1. Định mức dự trữ sản xuất
Định mức dự trữ sản xuất là sự quy định đại lượng vật tư tối đa phải có theo kế hoạch
ở doanh nghiệp, để đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành được liên tục và đều đặn.
Một mặt, nếu như dự trữ vật tư không đủ mức cần thiết sẽ có nguy cơ làm cho sản
xuất của doanh nghiệp bị gián đoạn. Ví dụ, doanh nghiệp A cần 100 tấn xi măng để tiến hành
xây dựng, nhưng thực tế trong kho dự trữ của doanh nghiệp chỉ còn 50 tấn thì lúc này doanh
nghiệp A phải dừng hoạt động sản xuất kinh doanh, tốn kém thời gian chờ nhập thêm xi
măng, làm chậm tiến độ công trình và có thể làm mất uy tín với khách hàng. Mặt khác, dự trữ
quá nhiều cũng sẽ không mang lại hiệu quả, gây lãng phí và dẫn đến tình trạng ứ đọng vật tư,
ứ đọng vốn, không có lợi cho doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với những loại vật liệu tươi sống,
dễ hỏng, điều kiện bảo quản khó khăn.
Như vậy, tình trạng dự trữ thiếu hay dự trữ thừa đều gây nên những tác động xấu đến
doanh nghiệp. Để đảm bảo đủ vật tư cho sản xuất và tránh tình trạng dự trữ quá nhiều, các
doanh nghiệp cần phải tiến hành định mức dự trữ sản xuất.
8.6.1.2. Quy tắc định mức dự trữ sản xuất
Định mức dự trữ sản xuất là rất cần thiết. Nhưng để định mức dự trữ một cách đúng
đắn, hợp lý, không thừa không thiếu thì cần phải quán triệt một số quy tắc nhất định sau đây:
- Quy tắc thứ nhất: Xác định đại lượng dự trữ tối thiểu cần thiết, có nghĩa là lượng dự
trữ phải đủ đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp khỏi bị gián đoạn trong mọi
tình huống, đồng thời tránh dự trữ nhiều sinh ra ứ đọng vật tư làm chậm tốc độ lưu chuyển
của vốn. Thực tế tiêu hao vật tư trên một đơn vị sản phẩm có thể thấp hơn tiêu hao định mức,
nếu việc giảm đó không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; đó là hiện tượng tốt cần khuyến
khích. Nhưng không phải dựa vào đó mà giảm dự trữ thấp hơn mức cần thiết, vì sẽ ảnh hưởng
đến sự liên tục của quá trình sản xuất.
- Quy tắc thứ hai: Xác định đại lượng dự trữ, trên cơ sở tính toán tất cả các nhân tố
ảnh hưởng trong kỳ kế hoạch. Để xác định đúng lượng dự trữ cần phải sử dụng hàng loạt các
tài liệu liên quan. Chẳng hạn:
N (năm)
360
N (quý)
90
N (tháng)
30
+ Muốn xác định lượng vật tư tiêu dùng trong một ngày đêm, cần phải có các định
mức tiêu hao nguyên liệu, kế hoạch sản xuất sản phẩm, nhu cầu về vật tư cho sửa chữa và các
nhu cầu khác.
+ Muốn xác định chu kỳ cung ứng cần phải sử dụng các số liệu: Mức xuất hàng tối
thiểu trong một lần của doanh nghiệp thương mại, trọng tải và tốc độ của phương tiện vận tải,
khoảng cách, định kỳ của đơn vị sản xuất, các số liệu về các lần cung ứng và thực tế tiêu
dùng trong kỳ báo cáo.
- Quy tắc thứ ba: Tiến hành định mức từ cụ thể đến tổng hợp. Chỉ có tính toán đầy đủ
những điều kiện cung ứng và tiêu dùng đối với từng tên gọi vật tư cụ thể mới định ra được
đúng lượng dự trữ sản xuất.
- Quy tắc thứ tư: Quy định lượng dự trữ sản xuất tối đa và lượng dự trữ sản xuất tối
thiểu đối với mỗi tên gọi vật tư cụ thể.
Lƣợng dự trữ sản xuất tối đa = dự trữ chuẩn bị + dự trữ bảo hiểm + dự trữ
thƣờng xuyên tối đa.
Lƣợng dự trữ sản xuất tối thiểu = dự trữ chuẩn bị + dự trữ bảo hiểm
8.6.2. phƣơng pháp định mức các bộ phận hợp thành dự trữ sản xuất
8.6.2.1. Phương pháp định mức dự trữ thường xuyên
Dự trữ thường xuyên tối đa, tuyệt đối tính theo công thức:
D
th/x max
= m x t
Trong đó:
D
th/x max
– Đại lượng dự trữ thường xuyên tối đa (tính theo đơn vị hiện vật)
m: Mức tiêu dùng vật tư bình quân một ngày đêm và được xác định như sau:
m = ———― = ———― = ———―
N – Nhu cầu vật tư trong kỳ
t – chu kỳ (khoảng cách) cung ứng theo kế hoạch, tính theo ngày.
M
x
m
Trọng tải của phương tiện vận tải
m
10
5
Nhiệm vụ chủ yếu khi định mức dự trữ thường xuyên là xác định chu kỳ cung ứng
theo kế hoạch. Tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của sản xuất, cung ứng và tiêu dùng vật
tư, chu kỳ cung ứng theo kế hoạch có thể xác định được bằng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp 1: Nếu t phụ thuộc vào mức xuất hàng tối thiểu của doanh nghiệp
thương mại, mức chuyển thẳng hay mức đặt hàng của doanh nghiệp sản xuẩt (hoặc mức xuất
hàng của doanh nghiệp thương mại) (M
x
) thì:
t = ———
Ví dụ: Nhu cầu của doanh nghiệp về gang đúc trong mỗi quý là 180 tấn, mức chuyển thẳng
suy định là 30 tấn.
Với những điều kiện đó, trong trường hợp cung ứng thẳng, chu kỳ cung ứng bằng 15
ngày (30 : 180/90 = 15)
+ Phương pháp 2: Nếu chu kỳ cung ứng phụ thuộc vào trọng tải của phương tiện vận
tải, thì t tính bằng:
t = ———————————————————
Ví dụ: Doanh nghiệp dùng xe chuyên chở có trọng tải 10 tấn để chở xi măng từ doanh nghiệp
cung ứng về mức tiêu dùng về, mức tiêu dùng bình quân trong một ngày đêm là 5 tấn. Với
những điều kiện đó:
t = ——— = 2 ngày
∑(T
n
x V
n
)
∑V
n
+ Phương pháp 3: Nếu chu kỳ cung ứng phụ thuộc vào những điều kiện quy định
trong hợp đồng giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất, thì căn cứ vào đó
mà xác định t.
+ Phương pháp 4: Nếu trong số những trường hợp kể trên, doanh nghiệp không sử
dụng được trường hợp nào cả, thì để xác định t, cần phải dùng các số liệu thực tế về các lần
cung ứng của kỳ báo cáo. Theo phương pháp này, t được tính theo công thức sau:
t = —————
Trong đó:
T
n
– Thời gian cách quãng giữa hai kỳ cung ứng liền nhau
V
n
– Số lượng vật tư nhận trong một kỳ cung ứng
Dự trữ thường xuyên cũng có thể tính theo lượng hàng đặt mua một lần. Lượng hàng
này được xác định dựa trên cơ sở tối thiểu hoá các chi phí liên quan đến thu mua và bảo quản
lô hàng đặt mua ấy.
Toàn bộ chi phí liên quan đến lượng hàng dự trữ gồm có: Chi phí thu mua – vận
chuyển và chi phí bảo quản. Chi phí thu mua vận chuyển gồm các khoản mục: chi phí và các
thủ tục hàng (đơn hàng, liên hệ với đơn vị cung ứng…), chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng, chi
phí cho việc tiếp nhận hàng về số lượng và chất lượng, chi phí về tiền nhận hàng, hạch toán
hàng,… trong số các khoản chi phí kể trên, có những khoản thay đổi theo lượng hàng mua,
như chi phí về tiền mua hàng, vận chuyển, bốc dỡ, xếp hàng vào kho…Lượng hàng mua càng
nhiều thì những khoản chi phí này càng lớn. Nhưng cũng có những khoản chi phí không thay
đổi theo tỷ lệ thuận với lượng hàng mua, chúng tương đối cố định và không phụ thuộc vào
lượng hàng đặt mua nhiều hay ít, như chi phí về thủ tục mua hàng, hạch toán nhập kho, trong
một chừng mực nhất định, cả chi phí về tiếp nhận hàng về số lượng nữa. Lượng hàng đặt mua
một lần càng lớn thì chi phí thu mua, vận chuyển tính cho một đơn vị hàng mua càng ít và
ngược lại. Cho nên, xét về chi phí thu mua, vận chuyển, đặt mua một lần càng lớn càng có
lợi. Nhưng lượng hàng đặt mua một lần càng lớn thì chi phí về bảo quản lô hàng đó càng cao.
Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là: Với chỉ tiêu mua sắm vật tư đã được xác định,
phải đặt mua một lần là bao nhiêu để cho chi phí thu mua, vận chuyển và bảo quản lô hàng đó
đạt mức thấp nhất.
Ta dùng các ký hiệu sau đây:
N – Nhu cầu trong năm về loại vật tư dự trữ
g – Đơn giá mua
C
1
– Phần chi phí mua - vận chuyển tương đối cố định tính cho một lần đặt mua hàng
(cho lô hàng đặt mua trong một lần).
C
2
– Chi phí bảo quản một đơn vị hàng dự trữ trong năm, chi phí này có thể tính bằng %
so với giá trị hàng dự trữ tính trung bình trong một năm
D – Lượng hàng đặt mua trong một lần
C – Toàn bộ chi phí cho lô hàng
Yêu cầu là:
C = C
1
x
+ g x N + C
2
x > min
- + = 0
D =
Công thức này dùng để tính lượng dự trữ thường xuyên tối ưu.
8.6.2.2. Phương pháp định mức dự trữ bảo hiểm
Tác dụng của dự trữ bảo hiểm là bảo đảm có đủ vật tư cho sản cuất trong mọi tình
huống và đó chính là khó khăn cho việc xác định đúng đắn lượng dự trữ bảo hiểm.
Nguyên tắc chung để dịnh ra lượng dự trữ bảo hiểm hợp lý là nghiên cứu kỹ các lần
cung ứng theo chu kỳ và theo số lượng cung ứng từng lần, lượng tiêu dùng bình quân một
N
D
D
2
C
1
N
D
2
C
2
2
2C
1
N
C
2
∑ chênh lệch cao hơn chu kỳ cung ứng bình
quân
m
ngày đêm và các nguyên nhấn khác dẫn đến vi phạm việc bảo đảm vật tư cho sản xuất bình
thường.
Dự trữ bảo hiểm tương đối có thể được tính theo một trong hai phương pháp sau:
+ Phương pháp 1: Theo phương pháp này lượng dự trữ tương đối được định ra, căn
cứu vào thời gian cần thiết để khôi phục lại dự trữ thường xuyên sử dụng hết trước khi nhập
lô hàng mới về doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, dự trữ tương đối được tính theo công
thức:
t
bh
= t
1
+ t
2
+ t
3
Trong đó:
t
1
– thời gian cần thiết cho DN Thương mại chuẩn bị lô hàng xuất gấp theo yêu cầu
của khách hàng. Thời gian này gồm thời gian DN sản xuất báo cho DN Thương mại về việc
xuất lô hàng tiếp theo và thời gian cần cho DN thương mại chuẩn bị xuất hàng.
t
2
– thời gian hàng trên đường đi được xác định bằng cách lấy khoảng cách từ DN
thương mại đến DN sản xuất chia cho tốc độ của phương tiện vận tải.
t
3
– thời gian cần thiết để DN sản xuất hàng và chuẩn bị đưa vào sản xuất
Phương pháp này áp dụng có kết quả chỉ khi nào giữa DN thương mại và DN sản xuất
có quan hệ thường xuyên và tốt với nhau.
+ Phương pháp 2: Dựa vào các số liệu cung ứng thực tế cho kỳ báo cáo, rút ra những lần
có chu kỳ cung ứng thực tế lớn hơn kỳ cung ứng bình quân, cộng các kết quả lại rồi chia cho số
lần chênh lệch, theo công thức:
t
bh
= ——————————————————————————
Trong đó:
m - số lần chênh lệch cao hơn
Hoặc theo công thức:
∑ (t
’
n
– t)V
’
n
∑V
’
n
t
bh
= ———————
Trong đó:
t
’
n
- thời gian cách quãng giữa hai chu kỳ cung cứng có khoảng cách cao hơn khoảng
cách cung ứng bình quân.
V
’
n
- số lượng vật tư nhận được trong một kỳ cung ứng nào có khoảng cách cao hơn
khoảng cách cung ứng bình quân.
t - thời gian dự trữ thường xuyên
8.6.2.3. Phương pháp định mức dự trữ chuẩn bị:
Những công việc chuẩn bị đặc biệt đòi hỏi phải có thời gian lâu hơn, phải tính dự trữ
chuẩn bị (gọi là dự trữ chuẩn bị đặc biệt).
Đại lượng tương đối của dự trữ chuẩn bị, căn cứ vào thời gian cần thiết để chuẩn bị
vật tư trước khi đưa vào tiêu dùng sản xuất mà xác định.
Đại lượng dự trữ sản xuất tuyệt đối bằng tổng dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm,
dự trữ chuẩn bị đặc biệt:
D
sx
= D
th’x
+ D
b’h
+ D
ch’b
Hoặc: D
sx
= P(t
th’x
+ t
b’h
+ t
ch’b
)
Phương pháp định mức dự trữ sản xuất trình bày trên đây dùng để định mức dự trữ
sản xuất theo từng tên gọi vật tư cụ thể (gọi là định mức dự trữ cụ thể).
Định mức dự trữ sản xuất theo danh mục vật tư tổng hợp (gọi là định mức dự trữ tổng
hợp) tính theo chỉ tiêu tuyệt đối, bằng tổng các định mức dự trữ cụ thể tuyệt đối. Còn chỉ tiêu
tương đối (ngày) của định mức tổng hợp tính bằng cách chia chỉ tiêu tuyệt đối của định mức
tổng hợp cho các tổng mức tiêu dùng bình quân trong một ngày đêm của các chủng loại, quy
cách vật tư cụ thể trong loại hoặc nhóm vật tư tổng hợp.
8.7. Tổ chức cấp phát vật tƣ trong doanh nghiệp
8.7.1. Nhiệm vụ và nội dung cấp phát vật tƣ trong doanh nghiệp
Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp (phân xưởng, tổ
đội sản xuất, nơi làm việc của công nhân) là khâu công tác hết sức quan trọng của phòng vật
tư doanh nghiệp. Tổ chức tốt khâu công tác này sẽ đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp
tiến hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh
vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm,
tiết kiệm được vật tư trong tiêu dùng sản xuất và nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm.
Tổ chức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng nội bộ có những nhiệm vụ chủ yếu sau
đây:
- Bảo đảm cấp phát các loại vật tư kỹ thuật cho các đơn vị được đồng bộ, đủ về số
lượng, đúng về qui cách, phẩm chất và kịp về thời gian.
- Chuẩn bị vật tư trước khi đưa vào sản xuất, bảo đảm giao vật tư dưới dạng thuận lợi
cho việc tiêu dùng của các đơn vị.
- Giải phóng cho các đơn vị tới mức tối đa chức năng liên quan đến việc tổ chức hậu
cần vật tư.
- Kiểm tra việc giao vật tư và sử dụng vật tư ở các đơn vị nội bộ.
Quá trình cấp phát vật tư kỹ thuật cho các đơn vị nội bộ bao gồm những nội dung sau
đây:
- Lập hạn mức cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng.
- Lập các chứng từ cấp phát vật tư.
- Chuẩn bị vật tư để cấp phát.