Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

BCTT Luật Hình sự – chế độ thời hiện trong Luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.43 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH THỜI HIỆU TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................................................................2
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt
Nam............................................................................................................................ 2
1.1.1. Khái niệm:.....................................................................................................2
1.1.2. Đặc điểm.......................................................................................................2
1.1.3. Ý nghĩa..........................................................................................................4
1.2. Nội dung của chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam...........................5
1.2.1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.........................................................7
1.2.2. Thời hiệu thi hành bản án kết tội..................................................................8
1.2.2.1. Khái niệm thời hiệu thi hành bản án kết tội............................................8
1.2.2.2. Các đặc điểm cơ bản của thời hiệu thi hành bản án kết tội....................10
1.3. Các yếu tố tác động đến chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam.........10
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ CHẾ ĐỊNH THỜI HIỆU TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.....................................................................................12
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về chế định thời hiệu...........................12
2.1.1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự......................................................12
2.2.2. Thời hiệu thi hành bản án kết tội.................................................................25
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về chế định thời hiệu................33
CHƯƠNG 3, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CHẾ ĐỊNH THỜI HIỆU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM..............................43
3.1. Quan điểm bảo đảm hiệu quả áp dụng chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt
Nam.......................................................................................................................... 43
3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt
Nam.......................................................................................................................... 44
3.2.1. Những giải pháp nâng cao tính hiệu quả của chế định thời...................44
3.3.2. Giải pháp khác.............................................................................................46
KẾT LUẬN.................................................................................................................47


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................49


MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời
hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết và quan trọng. Chế định thời
hiệu là một trong chế định quan trọng trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Nhận
thức đúng và áp dụng nghiêm chỉnh, thống nhất về thời hiệu và cách tính thời hiệu
trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải
quyết các vụ việc dân sự. Trong quá trình nhận đơn khởi kiện và thụ lý, giải quyết các
vụ, việc dân sự liên quan nhiều đến việc xác định thời hạn như: thời hạn giải quyết
đơn, giao nộp chứng cứ, thời hạn giao, thông báo, cấp các văn bản tố tụng, thời hạn
chuẩn bị xét xử, thời hạn kháng cáo, kháng nghị…Bên cạnh đó, trong quá trình giải
quyết các vụ việc cũng cần xác định vụ việc đó có cịn thời hiệu hay khơng để đưa ra
phán quyết phù hợp. Pháp luật tố tụng dân sự quy định về thời hạn tố tụng, thời hiệu
và việc áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời hạn, thời hiệu. Việc áp dụng
đúng đắn và hiệu quả các quy phạm của chế định thời hiệu trong Bộ luật hình sự
năm 1999 vào thực tiễn sẽ mang lại những lợi ích thiết thân cho Nhà nước, cho mỗi
cơng dân và cho tồn xã hội. Đối với Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ quan tư pháp
hình sự có thẩm quyền sẽ nâng cao uy tín của mình trước nhân dân, làm cho nhân
dân tin vào tính cơng minh và sức mạnh của pháp luật, qua đó khuyến khích người
dân tham gia tích cực vào cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm. Đối với mỗi
cơng dân, mỗi khi gặp chuyện “bất bình” sẽ an tâm về hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền mà tồn tâm tồn ý hỗ trợ, cùng với các cơ quan
tư pháp này giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề. Còn đối với tồn xã hội sẽ có được
một pháp chế vững mạnh và chắc chắn - đó chính là nền tảng cơ bản để chúng ta xây
dựng thành công một Nhà nước Pháp quyền. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn áp
dụng cách tính thời hiệu cịn có cách hiểu chưa thống nhất, nhận thức chưa đúng với
quy định của pháp luật. Do đó, vấn đề nhận thức đúng, áp dụng pháp luật thống nhất,
cần nắm rõ các quy định về thời hạn, cách tính thời hạn (trong đó lưu ý căn cứ tính

thời hạn, thời điểm tính thời hạn, cách xác định thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc)
là cần thiết. Vì thế, tác giả chọn đề tài: Những vấn đề thực tiễn về chế định thời hiệu
trong Luật hình sự Việt Nam

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH THỜI HIỆU
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm

Thời hiệu nói chung có thể được hiểu là căn cứ để xác lập hoặc xóa bỏ một
quyền, bằng cách để cho một khoảng thời gian hay nói cách khác thời hiệu là khoảng
thời gian để thực hiện quyền hoặc được miễn trừ nghĩa vụ.
Về mặt pháp lý, thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn
đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Cụ
thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015 thì: “Thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì
người phạm tội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Theo Khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015 về thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như
sau:
+ Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
+ Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
+ Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
+ Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tại khoản 3 Điều này quy định chi tiết như sau: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại

khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua khơng được
tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh
truy nã, thì thời gian trốn tránh khơng được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người
đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ.
Như vậy, chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam là một trong các chế
định cơ bản của Luật hình sự Việt Nam nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa

2


chế định này để làm sáng tỏ về mặt lý luận là nhiệm vụ quan trọng hiện nay của khoa
học Luật hình sự nước ta.
1.1.2. Đặc điểm

Phân tích bản chất pháp lý của chế định này, chúng ta có thể chỉ ra 3 đặc điểm
cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, bằng một số quy phạm mới trong Bộ luật hình sự năm 2015
chế định thời hiệu trong luật hình sự nước ta đã thể hiện rõ nguyên tắc
nhân đạo của chính sách hình sự của Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Có thể đưa ra được khẳng định như vậy, vì bản thân
sự tồn tại chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam đã đưa đến cho người thực
hiện tội phạm hy vọng có thể được miễn việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
khơng phải chấp hành bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đã được tuyên nếu như
người phạm tội đó đáp ứng được đầy đủ căn cứ pháp lí chung và những điều kiện cụ
thể do pháp luật hình sự quy định.
Thứ hai, thời hiệu trong pháp luật hình sự chính là một khoảng thời gian
nhất định. Trong khoảng thời gian đó, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
của Nhà nước bao gồm: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và cơ quan thi hành

án hình sự được Nhà nước trao cho quyền truy cứu trách nhiệm hình sự và thi hành
bản án kết tội đối với người thực hiện tội phạm theo quy định trong Bộ luật hình sự
năm 2015. Cịn nếu nằm ngồi khoảng thời gian đó thì các cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền của Nhà nước khơng cịn những quyền này nữa, đồng thời người
phạm tội hoặc người bị kết án thoả mãn đầy đủ các điều kiện luật định (được định cụ
thể tại khoản 3 Điều 23 và khoản 3 Điều 55) thì điều đó đồng nghĩa với việc người
phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa và người bị kết án cũng
khơng phải chấp hành bản án đã tuyên.
Thứ ba, chỉ một trong các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà
nước (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát, Toà án
hoặc cơ quan thi hành án hình sự) căn cứ vào các giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể
(điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án) được quyền thi hành việc khơng truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do đã hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc việc khơng
3


thi hành bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đã được tuyên đối với người bị kết án do
đã hết thời hiệu thi hành bản án kết tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm
2015.
Bên cạnh việc lĩnh hội quy định được thừa nhận chung của PLHS quốc tế về
thời hiệu – không áp dụng chế định này đối với các tội xâm phạm hịa bình và an ninh
của nhân loại, PLHS Việt Nam cũng cịn có quy định riêng thể hiện tính nghiêm khắc
hơn trong việc tăng cường xu hướng trấn áp về hình sự – khơng áp dụng chế định này
đối với cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong một Nhà nước pháp quyền, các quy định của pháp luật hình sự có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và tự do của con người, của cơng
dân, bởi những quyền và tự do đó là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa
nhận chung của nền văn minh nhân loại. Việc bảo vệ nhằm tránh khỏi sự xâm hại
của những hành vi phạm tội mà người phạm tội gây ra, đồng thời tránh khỏi sự vi

phạm pháp chế và dân chủ, áp dụng sai các quy định của pháp luật hình sự của một
số quan chức trong bộ máy cơng quyền vì các động cơ vụ lợi, cá nhân…Việc bảo vệ
các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền
là sự kết hơp việc bảo vệ các quyền con người trên cả ba phương diện lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đúng như theo quan điểm của PGS. TSKH. Lê Cảm: “bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền là sự
ghi nhận (điều chỉnh) đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành
pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của pháp luật hình sự, được
tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi
các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử,
đồng thời góp phần tạo nên lịng tin của cơng dân vào sự nghiêm minh của pháp
chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy
cơng quyền, tính nhân đạo và dân chủ của xã hội dân sự và Nhà nước pháp quyền
nói chung”. Tư tưởng bảo vệ các quyền con người được phản ánh thông qua từng
điều luật trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. Các quy định về chế định thời
hiệu cũng không là ngoại lệ, tư tưởng bảo vệ các quyền con người được phản ánh qua
khái niệm của nó, bản chất pháp lý của nó và các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của nó.
1.1.3. Ý nghĩa

4


Thời hiệu theo nghĩa chung nhất là căn cứ pháp lý do pháp luật quy định làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Điểm khác biệt của thời hiệu
so với hành vi pháp lý hoặc sự kiện pháp lý là khi một khoảng thời gian trôi qua và
những điều kiện do pháp luật quy định thì hậu quả pháp lý phát sinh.
Ý nghĩa trước hết của chế định thời hiệu là nâng cao tính kỷ luật trong giao lưu
dân sự, từ đó sớm xác lập sự ổn định quan hệ dân sự, khuyến khích các bên tích cực,
chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Về mặt tố tụng, chế định thời hiệu
tạo điều kiện bảo toàn chứng cứ để xác định sự thật trong cac tranh chấp dân sự. Vì

sau một thời gian nhất định trôi qua sẽ gây nên sự phức tapk, thậm chí khơng thế khắc
phục được trong việc thu thập, xác minh chứng cứ, gây khó khăn trong hoạt động của
Tồn án và các cơ quan có thẩm quyền.
Việc đưa ra chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam sẽ góp phần xác
định đúng đắn những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng chế định thời hiệu
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định thời hiệu ở khía
cạnh lập pháp, để giúp việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hồn
thiện hơn.
Xuất phát từ sự cần thiết bảo đảm tính ổn định của quan hệ dân sự, thời hiệu có
đặc điểm quan trọng là mang tính bắt buộc tuân thủ. bất cứ thỏa thuận nào của các bên
về không áp dụng thời hiệu, thay đổi thời hiệu đều khơng có giá trị pháp lý.
Áp dụng quy định về thời hiệu cũng là bắt buộc đối với Tòa án, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, cần lưu ý là Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác không được từ chối thụ lý tranh chấp với lý do thời hiệu. Trước khi ra
quyết định trả đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu cầu Tịa án giải quyết việc dân
sự, từ chối khơng giải quyết tranh chấp, Tòa án, cơ quan nhà nước khác cần tiếp nhận
đơn kiện, đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp để trả lời câu hỏi:
- Có áp dụng thời hiệu đối với tranh chấp xảy ra hay không ?
- Thời hiệu áp dụng cho quan hệ pháp luật dân sự đang tranh chấp là như thế nào? kết
thúc tại thời điểm nào ?
- Có căn cứ tạm ngừng, bắt đầu lại thời hiệu hay không ?
1.2. Nội dung của chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam

5


Chế định thời hiệu là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự của mỗi
quốc gia, sự hiện diện của nó là bằng chứng phản ánh rõ ràng về thái độ và trách
nhiệm của các cán bộ tư pháp trong khi làm nhiệm vụ, đồng thời nó cịn mang ý

nghĩa nhân đạo sâu sắc. Bởi bản chất của thời hiệu là một khoảng thời gian xác
định mà trong đó nhà nước và tồn xã hội có quyền thể hiện thái độ và hành động
lên án của mình đối với những hành vi phạm tội, đồng thời nó cũng để cho những
người thực hiện hành vi phạm tội đó có quyền hi vọng rằng mình có thể được
hưởng chế định nhân đạo khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay khi hết
thời hiệu thi hành bản án kết tội theo những căn cứ và điều kiện được quy định cụ thể
trong pháp luật hình sự thực định của mỗi quốc gia.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự thì thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự được quy định như sau:
– Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật
hình sự). Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập
cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)…
– Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình
sự). Ví dụ: Tội lây truyền HIV cho người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 117; tội cưỡng dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113.v.v…
– Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù (khoản 3 Điều 8
Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội sản xuất, bn bán hàng giả thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2, khoản 3 Điều 156; tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 154.v.v…
– Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

6



Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội phản bội tổ quốc
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 78; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 79; tội giết người thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 93; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194; tội chiếm
đoạt tàu bay, tàu thuỷ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 221.v.v…
Việc xác định tội phạm nào là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng không phức tạp, chỉ cần căn cứ vào mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Nếu mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy là đến ba năm tù là tội phạm ít nghiêm trọng; đến bảy năm tù là tội phạm
nghiêm trọng; đến mười lăm năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng; đến chung thân hoặc
tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự khơng phải
tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm,
7 năm, 15 năm, chung thân hoặc tử hình, mà trong nhiều trường hợp nhà làm luật quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là một năm, hai năm, bốn năm, năm năm, sáu
năm, tám năm, mười năm, mười hai năm và hai mươi năm. Mặc dù Bộ luật hình sự đã
có hiệu lực pháp luật gần 10 năm nhưng đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, nếu
mức cao nhất của khung hình phạt khơng phải là 7 năm thì chưa phải là tội phạm
nghiêm trọng, khơng phải là 15 năm thì chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng, không
phải là chung thân hoặc tử hình thì chưa phải là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ:
khoản 2 Điều 1 Điều 133 (tội cướp tài sản) có khung hình phạt từ ba năm đến mười
năm chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng mà chỉ là tội phạm nghiêm trọng. Quan
điểm này theo chúng tôi là không đúng với quy định của Bộ luật hình sự, vì nhà làm
luật chỉ quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy “đến” ba năm, bảy
năm, mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình chứ khơng quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy “là” ba năm, bảy năm, mười lăm năm, chung thân hoặc
tử hình.

1.2.1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

7


1.2.1.1. Khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong lần pháp điển hố lần thứ hai luật hình sự Việt Nam vừa qua, nhà làm
luật nước ta, lần đầu tiên, đã đưa ra khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự như sau: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy
định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự” (khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999). Từ khái niệm trên cho ta thấy: thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chính là một khoảng thời gian (thời hạn) mà các
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền được quyền truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, khi thời hạn ấy đã hết thì cũng là lúc các cơ quan này phải
chấm dứt việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đó. Quy phạm
này chính là một điểm mới của Bộ luật hình sự năm 1999 (trong Bộ luật hình sự
năm 1985 trước đây không đưa ra khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự)
và nó có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào sự phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam nói chung.
Việc luật hình sự có quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay khơng,
hoặc quy định cụ thể như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Vì vậy, các quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được
xây dung theo yêu cầu của nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự.
1.2.1.2. Các đặc điểm cơ bản của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Xuất phát từ các quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp
luật hình sự thực định, kết hợp với việc phân tích khái niệm thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự ở phần trên, chúng ta có thể đưa ra ba đặc điểm cơ bản của thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, đó là:
Thứ nhất, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền chỉ được quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong một khoảng thời hạn xác định được

quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuỳ theo từng loại tội khác
nhau mà khoảng thời hạn ấy quy định tương ứng khác nhau, cụ thể là: Đối với các tội
phạm ít nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm, đối với các
tội phạm nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm, đối với
các tội phạm rất nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm,
đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

8


là 20 năm.
TS. Cao Thị Oanh cho rằng: “Cơ sở chủ yếu để xây dựng các quy định về thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là việc truy cứu trách nhiệm hình sự khơng cịn cần
thiết nữa. Vì vậy, thời hạn cụ thể mà luật quy định để không truy cứu trách nhiệm hình
sự người phạm tội nữa phải được xây dựng trên cơ sở tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm. Nói cách khác, căn cứ để tiến hành phân hố trách nhiệm hình sự trong các
quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chính là tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm và yêu cầu đặt ra là tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm càng cao thì
các thời hạn được quy định cụ thể phải càng dài và ngược lại. Ví dụ: Bộ luật hình sự
của Liên bang Nga năm 1996 lại quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
trên cơ sở loại tội phạm được thực hiện. Cụ thể là tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật này quy
định: “Khơng truy cứu trách nhiệm hình sự nếu kể từ ngày phạm tội đã qua các thời
hạn sau đây:
a) 2 năm sau khi phạm tội ít nghiêm trọng;
b) 6 năm sau khi phạm tội nghiêm trọng;
c) 10 năm sau khi phạm tội rất nghiêm trọng;
d) 15 năm sau khi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”
1.2.2. Thời hiệu thi hành bản án kết tội
1.2.2.1. Khái niệm thời hiệu thi hành bản án kết tội


Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tại khoản 1 Điều 55 đã đưa ra định nghĩa pháp
lý của thời hiệu thi hành bản án hình sự: “thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn
do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án khơng phải chấp hành
bản án đã tuyên”. Đây là một điểm mới của Bộ luật hình sự năm 1999 vì trước đây
trong Bộ luật hình sự năm 1985 khơng hề đưa ra định nghĩa pháp lý của thời hiệu thi
hành bản án hình sự, và do đó sự tồn tại của nó có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh
vực tư pháp hình sự nói riêng cũng như trong sự phát triển của pháp luật Việt Nam nói
chung.
Về ngun tắc thì các bản án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
nghiêm chỉnh. Nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp do thiếu xót của các cơ quan
tư pháp hình sự nói chung và cơ quan thi hành án nói riêng nên bản án có hiệu lực
pháp luật khơng được thi hành do có nhiều nguyên nhân như bị bỏ quên, bị thất lạc,

9


khó thi hành (về phía người bị kết án vì bệnh tật, già yếu, hồn cảnh gia đình khó khăn
đến nỗi họ không thể chấp hành án được), mặc dù họ khơng trốn tránh pháp luật,
khơng phạm tội mới. Vì vậy, pháp luật hình sự quy định thời hiệu thi hành bản án hình
sự là thời gian (kỳ hạn) do pháp luật quy định, quá kỳ hạn ấy thì sẽ phát sinh hậu quả
pháp lý: nếu chưa thi hành thì không được thi hành nữa và người bị kết án cũng khơng
phải chấp hành bản án. Do đó, việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự phải quy
định chặt chẽ, để đề phòng những sơ hở hoặc hiện tượng tiêu cực trong khi thực hiện.
Thực chất, bản án hình sự là một thuật ngữ chung, bao gồm hai dạng bản án là
bản án tuyên vô tội và bản án kết tội. TSKH. PGS. Lê Văn Cảm đã phân tích cụ thể và
nêu ra nội dung của ba khái niệm bản án hình sự, bản án tun vơ tội và bản án kết tội.
Theo đó, bản án hình sự là kết quả cuối cùng của quá trình truy cứu trách nhiệm hình
sự người phạm tội do Tồ án tuyên tại phiên toà, khẳng định về việc người bị đưa ra
xét xử có bị coi là có tội hay khơng có tội, cũng như về việc có áp dụng hay khơng áp
dụng hình phạt hoặc (và) biện pháp cưỡng chế về hình sự khác đối với người đó; Bản

án tuyên vô tội là kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm hình
sự của người phạm tội do Toà án tuyên tại phiên toà, khẳng định về việc người bị đưa
ra xét xử được coi là khơng có tội nên khơng có trách nhiệm hình sự, cũng như về việc
minh oan cho người đó; Bản án kết tội là kết quả cuối cùng của quá trình truy cứu
trách nhiệm hình sự người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm do Toà án tuyên tại
phiên toà, khẳng định về việc người bị đưa ra xét xử là có tội, cũng như về việc có áp
dụng hay miễn hình phạt hoặc (và) biện pháp cưỡng chế về hình sự khác đối với người
đó . Hiểu được vấn đề này, chúng ta sẽ có cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể về bản
chất pháp lý của một thuật ngữ mà chúng ta vẫn thường hay sử dụng đối với những
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, đó là bản án hình sự.
Phân tích những nội dung trên kết hợp với việc xem xét và phân tích khái niệm
pháp lý về thời hiệu thi hành bản án kết tội quy định tại khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình
sự năm 1999, chúng tơi cho rằng khái niệm pháp lý của phạm trù thời hiệu thi hành
bản án kết tội sẽ có nội dung như sau: thời hiệu thi hành bản án kết tội là những thời
hạn xác định - được quy định rõ ràng và cụ thể trong pháp luật hình sự thực định, mà
khi kết thúc thời hạn đó thì người bị kết án khơng bị buộc phải chấp hành bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật mà Toà án đã tuyên đối với họ.

10


1.2.2.2. Các đặc điểm cơ bản của thời hiệu thi hành bản án kết tội

Xuất phát từ các quy định về thời hiệu thi hành bản án kết tội trong pháp luật
hình sự thực định, kết hợp với việc phân tích khái niệm thời hiệu thi hành bản án kết
tội ở phần trên, chúng ta có thể đưa ra các đặc điểm cơ bản của thời hiệu thi hành bản
án kết tội như sau:
Thứ nhất, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền chỉ được quyền thi hành
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án trong một khoảng thời hạn
xác định được quy định tại khoản 2 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuỳ theo từng

loại và mức hình phạt khác nhau mà khoảng thời hạn ấy quy định tương ứng khác
nhau, cụ thể là: đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử
phạt tù từ ba năm trở xuống thì thời hiệu thi hành bản án kết tội là năm năm; đối với
các trường hợp xử phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm thì thời hiệu thi hành bản
án kết tội là mười năm; đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên mười lăm năm đến ba
mươi năm thì thời hiệu thi hành bản án kết tội là mười lăm năm.
Thứ hai, quyền thi hành bản án kết tội mà Nhà nước trao cho cơ quan thi hành
án hình sự có thẩm quyền khơng cịn tồn tại khi đã qua một khoảng thời hạn xác định
do pháp luật hình sự quy định. Nghĩa là bất kỳ người nào mặc dù đã bị kết án và bản
án đó đã có hiệu lực pháp luật theo quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng sẽ
khơng bị các cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền thi hành bản án kết tội đó đối
với mình.
1.3. Các yếu tố tác động đến chế định thời hiệu trong Luật hình sự Việt Nam

Tố tụng hình sự là quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể thực hiện chức
năng của TTHS, có quyền và nghĩa vụ khi tiến hành tố tụng nhằm làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là đòi
hỏi tất yếu của bất kỳ nhà nước nào nhằm mục đích trừng trị và phòng ngừa tội phạm,
bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trật tự pháp luật và quyền con người, quyền cơng
dân. Mục đích này chỉ trở thành hiện thực, có hiệu lực trên thực tế khi tội phạm xảy ra
được chứng minh, xử lý theo một quy trình nhất định.
Thời hạn tố tụng hình sự là một bộ phận của thủ tục tố tụng của quá trình giải
quyết vụ án, có mối liên hệ và thuộc vào thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng
ở các giai đoạn tố tụng. Thời hạn tố tụng vì thế cùng với các qui định khác của luật

11


TTHS có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tính
hiệu quả của hoạt động tố tụng và trong việc bảo đảm quyền con người

Việc qui định thời hiệu trong luật hình sự phải dựa trên cơ khoa học, phù hợp
với thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm, thực hiện mục đích giải quyết vụ án nhanh
chóng, khách quan, cơng bằng, tơn trọng và bảo đảm quyền con người trong quá trình
giải quyết vụ án. Thời hạn tố tụng hình sự hợp lý phải đáp ứng được yêu cầu bảo đảm
để các chủ thể tiến hành tố tụng có đủ thời gian cần thiết thực hiện các hoạt động, hành
vi tố tụng, đồng thời ngăn ngừa việc lạm dụng hoặc áp dụng tùy tiện.

12


CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ CHẾ ĐỊNH THỜI HIỆU
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về chế định thời hiệu
2.1.1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Việc xác định rõ thời điểm bắt đầu và chấm dứt thời hiệu nói chung (bao gồm
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án hình sự) là rất quan
trọng vì nó sẽ tạo ra những sự ràng buộc nhất định về quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm giữa một bên là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan tư pháp hình sự và một
bên là người thực hiện hành vi phạm tội, để cùng hướng tới một mục đích là tìm ra sự
thật và cơng bằng. Ví dụ, nếu như có sự tắc trách trong việc xác định thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự dẫn đến một kết quả sai lầm trong việc xác định đó, thì kết
cục là một người có thể phải chịu án oan, sai; đồng thời cũng thể hiện rằng một bản án
kết tội đã khơng có sự tồn tại của công lý và khách quan. Do vậy, trước tiên, chúng ta
sẽ xem xét thời điểm bắt đầu và chấm dứt của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có ý nghĩa giúp cho các
cơ quan tiến hành tố tụng nêu cao tinh thần trách nhiệm, khẩn trương truy tìm, điều tra
tội phạm và người phạm tội, đồng thời áp dụng các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo
đảm nguyên tắc mọi tội phạm đều phải được phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
lý cơng minh, kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, đơn tội phạm bao gồm hai dạng: tội đơn
nhất thông thường và tội đơn nhất phức tạp (trong đó tội đơn nhất phức tạp lại được
chia ra làm ba dạng là tội liên tục, tội kéo dài và tội ghép). Trường hợp đa tội phạm
được phân ra làm bốn dạng là phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp và tái phạm (tái phạm nguy hiểm). Chúng ta sẽ đi nghiên cứu bản
chất của từng loại tội phạm cụ thể để từ đó xác định thời điểm bắt đầu và chấm dứt
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của loại tội đó ở từng giai đoạn khác nhau của
việc thực hiện tội phạm.
 Thứ nhất, chế định đơn tội phạm có bốn dạng sau:
Tội đơn nhất thông thường là tội phạm mà hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc
mặt khách quan của tội phạm xâm hại đến một khách thể được luật hình sự bảo vệ
ngay tại thời điểm đó. Đặc điểm của loại tội này là các yếu tố cấu thành tội phạm (mặt
13


khách quan, khách thể, mặt chủ quan, chủ thể) có “cấu tạo” đơn giản và dễ nhận biết.
Thời điểm bắt đầu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là từ ngày thực hiện hành vi
phạm tội mà phải chịu trách nhiệm hình sự và kết thúc là sau một khoảng thời gian
tương ứng quy định trong khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tội liên tục là tội phạm mà hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc mặt khách quan
của tội đó được hợp thành bởi nhiều hành vi cùng tính chất, diễn ra kế tiếp nhau về
thời gian với một ý định phạm tội cụ thể, thống nhất, cùng xâm hại một khách thể. Đặc
điểm của tội liên tục là chỉ khi có sự kết hợp, tổng hợp nhiều hành động phạm tội này
thì mới cấu thành một tội, nếu tách các hành động đó ra thì lúc này chúng chỉ đơn
thuần là các hành vi vi phạm mà có thể chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự vì mức
độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể. Như vậy, tội liên tục khác với phạm tội nhiều
lần ở đặc điểm này. Ví dụ: A là kế tốn của một cơng ty có ý định tham ô tiền của Nhà
nước, bằng cách sửa chữa sổ sách, chứng từ, cố tình ghi chép sai nhằm mục đích
chiếm đoạt số tiền chênh lệnh, A đã làm 9 lần như vậy, mỗi lần A lấy của công ty ít
nhất là 100.000 đồng, nhiều nhất là 450.000 đồng. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, có

những tội sau là tội kéo dai: Tội tham ô tài sản (Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999),
tội bức tử (Điều 100 Bộ luật hình sự năm 1999), tội hành hạ người khác (Điều 110 Bộ
luật hình sự năm 1999),v.v… Tội liên tục bắt đầu từ khi kẻ phạm tội thực hiện hành
động thứ nhất và kết thúc từ khi thực hiện xong hành động cuối cùng của cấu thành
(hành vi) tội phạm mà kẻ phạm tội định thực hiện. Từ nhận thức chung về bản chất
pháp lý loại tội này cho chúng ta thấy: việc xác định các tội liên tục bị phát hiện ở giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt là rất khó, mà loại tội này
thường bị phát hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Thời điểm bắt đầu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của tội liên tục bắt
đầu tính từ ngày mà hành vi cuối cùng trong một chuỗi các hành vi được thực hiện và
thời điểm kết thúc chính là sau một khoảng thời gian nhất định (5 năm, 10 năm, 15
năm, 20 năm) được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.
Căn cứ để xác định ngày thực hiện hành vi phạm tội cuối cùng, đó là phải xác định
được có dấu hiệu tội phạm trên cơ sở: “1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ
quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; 4. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tồ án, Bộ đội biên phịng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh

14


sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội
phạm; 5. Người phạm tội tự thú.” (Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Tội kéo dài là tội phạm mà hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan
diễn ra không gián đoạn trong một khoảng thời gian tương đối dài. Đặc điểm của loại
tội này là không chấm dứt ngay lúc đó mà sẽ tồn tại trong một khoảng thời gian. Ví
dụ: các tội tàng trữ, tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội trốn tránh nghĩa vụ quân
sự, tội đào nhiệm, tội không chấp hành bản án, tội không tố giác tội phạm, tội trốn
khỏi nơi giam, tội che dấu tội phạm, tội đào ngũ, v.v… Xét về mặt khách quan, có thể
hiểu tội phạm kéo dài là hành vi không thực hiện trong một thời gian dài (không bị

gián đoạn) nghĩa vụ của người phạm tội mà luật hình sự bắt buộc phải thực hiện. Tội
phạm kéo dài bắt đầu từ khi kẻ phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị
Bộ luật hình sự cấm và kết thúc khi kẻ phạm tội tự nguyện ngừng hoạt động tội phạm
hoặc hoạt động đó bị chấm dứt vì những ngun nhân ngồi ý muốn của người phạm
tội. Từ nhận thức chung về bản chất pháp lý loại tội này cho chúng ta thấy: việc xác
định các tội kéo dài bị phát hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội
chưa đạt là rất khó, mà loại tội này thường bị phát hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn
thành.
Đối với các tội kéo dài, thời điểm hoàn thành tội phạm khơng trùng với thời
điểm phát sinh những tình tiết biểu hiện sự chấm dứt tội phạm. Sau khi có hành vi
phạm tội thì thời điểm hồn thành tội phạm xảy ra sớm hơn thời điểm phát sinh những
tình tiết biểu hiện sự chấm dứt hành vi, hoạt động tội phạm. Ví dụ kẻ phạm tội tàng trữ
vũ khí đã khơng thực hiện quy định của pháp luật: cấm mọi người khơng được tàng trữ
vũ khí trái phép.
Thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu tính từ ngày hành vi phạm tội
bị phát hiện, do có một trong năm căn cứ quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 (đã trích dẫn trong phần trên) và thời điểm kết thúc là sau một khoảng thời
gian nhất định tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.
Ví dụ, tội đào ngũ: trong trường hợp một sỹ quan muốn từ bỏ nhiệm vụ cơng tác của
mình, anh ta đã chuẩn bị hết các điều kiện để trốn khỏi nơi đóng quân, nhưng do các
điều kiện khách quan ngoài ý muốn nên mặc dù sỹ quan này đã cố gắng tiến hành việc

15


đào ngũ, anh ta vẫn không thể thực hiện được ý đồ của mình và bị các anh em cùng
đơn vị phát hiện ra hành vi phạm pháp đó. Trong trường hợp này việc thực hiện tội
phạm của sỹ quan muốn đào ngũ ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Theo như quy định tại
Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999, anh sỹ quan muốn đào ngũ đó phải chịu trách
nhiệm về tội phạm chưa đạt; và hiệu lực của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

vẫn bắt đầu từ lúc hành vi phạm tội bị phát hiện và kết thúc là sau một khoảng thời
gian nhất định tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tội ghép là tội phạm mà hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc mặt khách quan
của tội đó được hợp thành bởi nhiều loại hành vi xảy ra cùng thời gian xâm hại đến
nhiều khách thể khác nhau , nhưng vì sự thống nhất bên trong của các hành vi đó nên
chỉ cấu thành một tội phạm. Ví dụ: tội cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự năm
1999), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999),
v.v…Đặc điểm của loại tội này là khơng có sự kéo dài trong một khoảng thời gian
cũng khơng có sự lặp lại các hành vi vi phạm, mà các hành vi diễn ra trong cùng một
thời điểm. Do đó thời điểm bắt đầu và kết thúc thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
của loại tội này cũng xác định giống như tội đơn nhất thông thường đã đề cập ở trên.
 Thứ hai, chế định đa tội phạm có bốn dạng sau:
Phạm tội nhiều lần là một trong bốn dạng của chế định đa tội phạm, trong Bộ
luật hình sự hiện hành chưa nêu lên định nghĩa pháp lý của nó, mà chỉ quy định là tình
tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm cụ thể và là tình tiết tăng nặng chung.
Trong Thơng tư liên tịch số 01 ngày 02/01/1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã đề cập khái niệm phạm
tội nhiều lần, mặc dù chỉ dưới khía cạnh đơn lẻ cho một số tội phạm có tính chất tham
nhũng và tình dục, tuy nhiên cũng giúp cho chúng ta hiểu được phần nào khái niệm
phạm tội nhiều lần nói chung, đó là: bị cáo đã phạm tội ấy từ hai lần trở lên mà mỗi lần
phạm tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1) trong điều luật
tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và tội ấy cũng chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Phạm nhiều tội cũng chưa được nhà làm luật nước ta điều chỉnh bằng một quy
phạm riêng biệt, mà chỉ được đề cập đến trong tên gọi của Điều 50 Bộ luật hình sự
năm 1999: “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”, và trong một số

16



Thơng tư liên tịch của Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
Nội vụ (ví dụ như Thơng tư liên tịch số 01 ngày 07/01/1995, Thông tư liên tịch số 10
ngày 31/12/1996, Thông tư liên tịch số 01 ngày 02/01/1998). Về mặt khoa học hình
sự, phạm nhiều tội được hiểu là: phạm từ hai tội trở lên hoặc trong cùng một hành vi
có các dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều khác
nhau của Bộ luật này nhưng người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số những
tội ấy.
Phạm tội có tính chất chun nghiệp cũng chỉ được nêu ra trong Bộ luật hình sự
năm 1999 tại Điều 3 quy định nguyên tắc xử lí, Điều 48 quy định các tình tiết tăng
nặng chung, và tại các điều như Điều 119 (tội mua bán phụ nữ), Điều 120 (tội mua bán
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em), Điều 133( tội cướp tài sản) v.v… với tính chất là
tình tiết định khung tăng nặng của các tội phạm cụ thể này. Về mặt khoa học hình sự,
khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp được hiểu là “phạm tội nhiều lần có
tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm
tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu
của người phạm tội”.
Ba dạng đa tội phạm nói trên đều có một đặc điểm chung là: người phạm tội
thực hiện nhiều hành vi phạm tội (có thể khác nhau hoặc giống nhau) quy định trong
Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó mỗi lần phạm tội có đầy đủ các yếu tố của cấu
thành tội phạm cơ bản trong điều luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và tội ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của các loại tội này được tính như thế
nào (?) – vấn đề này đã được các nhà làm luật nước ta đề cập một phần nào tại Nghị
quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng môt số quy định của Bộ luật hình sự, khi quy
định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội nhiều lần của
người làm, tàng trữ, lưu hành và vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, tại
trang 03 có đoạn viết :”trong trường hợp thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của
một lần phạm tội nào đó đã hết thì khơng được truy cứu trách nhiệm hình sự lần phạm
tội này”.


17


Từ nội dung này, chúng ta có thể thấy kể cả trong trường hợp việc thực hiện
hành vi phạm tội thuộc vào một trong ba dạng trên của chế định đa tội phạm, thì bản
chất vấn đề thời hiệu vẫn được tính như các dạng tội phạm thuộc chế định đơn tội
phạm, nhưng phức tạp hơn ở chỗ: khi phạm tội lần thứ nhất thì thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự được tính từ ngày hành vi phạm tội lần thứ nhất được thực hiện; khi
phạm tội lần thứ hai, có hai trường hợp xảy ra:
(1) Nếu vẫn trong thời hạn của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tội
phạm thứ nhất thì thời hạn này được tính lại kể từ ngày tội phạm thứ hai được thực
hiện.
(2) Nếu nằm ngoài khoảng thời hạn của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
tội phạm thứ nhất thì tội phạm thứ nhất này sẽ khơng được tính lại thời hạn đó nữa,
lúc này tuỳ từng trạng thái khác nhau của tội phạm thứ nhất mà sẽ đưa đến những
hậu quả pháp lí khác nhau: Một là, nếu các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
chưa tiến hành xong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ở tội thứ
nhất mà đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
thì người phạm tội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về này nữa, cịn thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm thứ hai được tính bình thường như các
trường hợp đơn tội phạm; hai là, thời hiệu thi hành bản án kết tội nếu người phạm
tội thực hiện hành vi phạm tội lần thứ hai của mình trong khoảng thời gian mà thời
hiệu thi hành bản án kết tội đối với tội thứ nhất đang tồn tại ( được quy định tại Điều
55 Bộ luật hình sự năm 1999) thì lúc này thời hiệu thi hành bản án kết tội đối với tội
thứ nhất được tính lại kể từ ngày phạm tội thứ hai, cịn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội thứ hai thì tính như trong các trường hợp đơn tội phạm.
Theo chúng tơi, có một vấn đề cần được đặt ra ở đây là: khi xem xét việc tính
thời hiệu thi hành bản án kết tội, trong trường hợp phạm nhiều tội, thì Tồ án sẽ quyết
định hình phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50

Bộ luật hình sự năm 1999, cịn trong trường hợp có nhiều bản án khác nhau đối với
một người, thì Tồ án sẽ tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều
51 Bộ luật hình sự năm 1999, và căn cứ để tính thời hiệu là hình phạt tổng hợp và thời
hiệu được tính từ ngày bản án kết tội đối với người thực hiện tội phạm này có hiệu lực
pháp luật.

18


Điều này có nghĩa rằng: suy cho cùng, thời hiệu thi hành bản án kết tội trong
trường hợp đa tội phạm chính là sự tổng hợp các thời hiệu thi hành bản án kết tội của
các loại tội đơn lẻ trong trường hợp phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và phạm tội có
tính chất chun nghiệp vì căn cứ để tính thời hiệu là dựa vào loại hình phạt và mức
hình phạt, một khi những hình phạt đó được tổng hợp thì cũng có thể cho rằng thời
hiệu thi hành bản án kết tội cũng đã được tổng hợp.
Quay lại nhìn nhận thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chúng ta thấy rằng
trong trường hợp đa tội phạm không hề tồn tại sự tổng hợp các mức độ nghiêm trọng
khác nhau của các loại tội phạm đồng nghĩa với việc không hề tồn tại “sự tổng hợp”
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đây có thể xem như là một điểm khác nhau
giữa thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án kết tội trong
trường hợp đa tội phạm. Nhưng tại sao lại có sự khác biệt như vậy (?).
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là dạng đa tội phạm duy nhất được các nhà làm
luật điều chỉnh về mặt lập pháp, tại Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 đã đưa ra khái
niệm như sau: “1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại
phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý; 2.
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xố án tích mà lại phạm
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) đã tái phạm, chưa được xố
án tích mà lại phạm tội do cố ý”. Từ khái niệm này, chúng ta có thể phân biệt giữa
dạng đa tội phạm này với ba dạng đa tội phạm cịn lại đã phân tích ở trên như sau:

Thứ nhất, tái phạm, tái phạm nguy hiểm cùng có đặc điểm chung giống với
phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ở đặc điểm
là người phạm tội đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội cấu thành nên nhiều tội ( tức là
hoặc cùng một tội nhưng được thực hiện nhiều lần khác nhau, hoặc nhiều tội khác
nhau được thực hiện).
Thứ hai, tái phạm, tái phạm nguy hiểm có điểm khác biệt với phạm nhiều tội,
phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chun nghiệp ở đặc điểm: Điều kiện để
xác định là có hay khơng hay khơng có trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm là ở
chỗ: người phạm tội đã bị kết án về một tội phạm mà họ đã thực hiện, chưa được xố
án tích mà lại phạm tội mới; cịn điều kiện để xác định có hay khơng có trường hợp

19



×