Tải bản đầy đủ (.docx) (194 trang)

Luật đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 194 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định:
“Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả” (Điều 18, Chương II); Luật Đất đai 2003 quy
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một trong các nội dung quản lý Nhà
nước về đất đai.
Thực hiện Luật Đất đai năm 2003; Nghị định 181/2004/NĐ-CP, ngày 29 tháng
10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Thông tư số 30/2004/TT-
BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn
việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; UBND Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiện Dự án Điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến
năm 2010, lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ cuối (2006 - 2010) của Thành phố.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong các điều kiện tiên quyết để Thành phố
Hồ Chí Minh thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1. Vai trò, vị trí của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất của cả nước, một trung tâm lớn về
kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng.
Thành phố Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt và ảnh hưởng trực tiếp đến Vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam và cả nước, những năm qua nền kinh tế của Thành phố đã phát
triển với tốc độ tăng trưởng cao, thu hút mạnh mẽ đầu tư trong nước và nước ngoài.
Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố đã và đang phù hợp
với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kết hợp tốt giữa xây dựng phát
triển với bảo đảm an ninh quốc phòng, giữa cải tạo và xây dựng mới. Sự phát triển của
Thành phố phù hợp với mục tiêu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị đặc
biệt, trung tâm cấp quốc gia vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc; là một trung tâm
lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao thương và hợp tác quốc tế,
môi trường đầu tư có vị trí chính trị quan trọng đối với cả nước và các tỉnh phía Nam,
xứng đáng tầm cỡ với các đô thị lớn văn minh, hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, Đại hội X của Đảng xác định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
đến năm 2010 với mục tiêu chung là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân


công lại lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động làm chuyển
đổi cơ cấu sử dụng đất, trong đó tăng mạnh tỷ trọng diện tích đất phi nông nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm 19 quận và 5 huyện, là trung tâm kinh tế lớn
nhất của cả nước đang đổi mới mạnh mẽ. Nhu cầu sử dụng đất đai của Thành phố Hồ
Chí Minh cho việc phát triển các khu, cụm công nghiệp, hệ thống đường giao thông,
mạng lưới các khu dân cư, các công trình phúc lợi công cộng và cơ sở hạ tầng khác sẽ
tăng lên không ngừng, đất đai trở thành vấn đề sôi động và phức tạp ở tất cả các
quận, huyện trên toàn Thành phố. Yêu cầu đặt ra là phải tính toán cân đối và phân bổ
quỹ đất hợp lý cho các ngành và các lĩnh vực.
2. Lý do điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
2.1. Có sự xác định lại các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu kinh tế của
Thành phố đến năm 2010
Quy hoạch sử dụng đất của Thành phố đến năm 2010 được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại quyết định số 1060/2004/QĐ-TTg được xây dựng dựa trên các chỉ
tiêu phát triển kinh tế - xã hội như sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung toàn Thành phố giai đoạn 2006 – 2010 là
13%/năm, trong đó:
+ Khu vực Dịch vụ - thương mại: tốc độ tăng trưởng 13,5%;
+ Khu vực Công nghiệp-xây dựng: tốc độ tăng trưởng 12,7%;
+ Khu vực Nông nghiệp: tốc độ tăng trưởng 1,7%.
- Cơ cấu kinh tế được xác định như sau:
+ Khu vực Dịch vụ - thương mại: tỷ trọng chiếm 51,7%;
+ Khu vực Công nghiệp - xây dựng: tỷ trọng chiếm 47,5%;
+ Khu vực Nông nghiệp: tỷ trọng chiếm 0,8%.
Tại văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VIII xác định các chỉ tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố 5 năm 2006 – 2010 là:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung toàn Thành phố giai đoạn 2006 – 2010 là
12%/năm trở lên, trong đó:
+ Khu vực Dịch vụ - thương mại: tốc độ tăng trưởng 12%/năm trở lên;
+ Khu vực Công nghiệp-xây dựng: tốc độ tăng trưởng 12% - 13%/năm;

+ Khu vực Nông nghiệp: tốc độ tăng trưởng 5%/năm trở lên.
- Cơ cấu kinh tế được xác định như sau:
+ Khu vực Dịch vụ - thương mại: tỷ trọng chiếm 50,6 %;
+ Khu vực Công nghiệp - xây dựng: tỷ trọng chiếm 48,5%;
+ Khu vực Nông nghiệp: tỷ trọng chiếm 0,9%.
- Bên cạnh đó, đối với từng khu vực kinh tế, Thành phố đã xác định và định hướng các
ngành mũi nhọn ưu tiên phát triển là:
+ Đối với khu vực thương mại – dịch vụ: Các dịch vụ sẽ phát triển rất nhanh bao
gồm: Tài chính – tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm; Thương mại (tập trung vào các loại
dịch vụ phục vụ xuất khẩu); Vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng; Bưu chính - viễn thông và
công nghệ thông tin truyền thông; Kinh doanh tài sản – bất động sản; Dịch vụ tư vấn
khoa học – công nghệ; Du lịch; y tế và giáo dục – đào tạo chất lượng cao.
+ Đối với khu vực Công nghiệp – xây dựng: Chuyển dịch mạnh theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp công nghệ kỹ thuật cao, giá trị sản phẩm lớn, có hàm
lượng tri thức và giá trị gia tăng cao như các ngành cơ khí chế tạo máy, công nghệ
điện tử tin học, phần mềm, hóa chất, vật liệu mới.
Chú trọng giải quyết mục tiêu tăng trưởng bền vững song song với bảo vệ môi
trường, hạn chế sử dụng nhiều năng lượng và tạo ra các chất thải độc hại đồng thời
với nâng cao đời sống xã hội, giữ vừng an ning quốc phòng.
Quy hoạch lại, điều chỉnh các khu, cụm công nghiệp tập trung trên địa bàn theo
hướng chuyên môn hóa và hợp tác hóa; Phân công hợp lý, thống nhất với toàn Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam
+ Đối với khu vực Nông nghiệp: Xây dựng nền nông nghiệp đô thị năng suất
cao. Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, thủy sản; phát triển mạnh các loại cây con và nông sản chủ lực theo hướng
nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất tập trung. Hỗ trợ việc nuôi trồng các sản phẩm
có hiệu quả kinh tế cao, xuất khẩu được lâu dài như rau sạch, cây kiểng, hoa, cá
kiểng....
Sản xuất giống cây, giống con chất lượng cao, thực hiện có kết quả các pháp
lệnh về công tác giống cây trồng, vật nuôi.

Phát triển theo chiều sâu các mô hình sản xuất kết hợp với kinh doanh, dịch
vụ phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của nội thành và du khách; Các mô hình tổ
chức sản xuất có hiệu quả như kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp
tác ...
Tăng năng suất lao động và thu nhập lao động nông nghiệp và nông thôn
ngoại thành; nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân trên mỗi đơn vị diện
tích.
Với sự xác định lại các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội như trên, Quy hoạch
sử dụng đất của Thành phố đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
quyết định số 1060/2004/QĐ-TTg không còn phù hợp và căn cứ khoản 1 điều 27
Luật Đất đai điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất của Thành phố đến năm 2010 là cần
thiết.
2.2. Có sự thay đổi trong định hướng phát triển của Thành phố
Theo quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, đến năm 2005 đất phi nông
nghiệp phải tăng 15.963 ha và đến năm 2010 tăng 36.683 ha. Tuy nhiên kết quả thực
hiện đến năm 2005 chỉ tăng 9.479 ha, như vậy theo quyết định số 1060/2004/QĐ-
TTg từ nay đến năm 2010 đất phi nông nghiệp phải tăng thêm là 27.203,93 ha, trung
bình mỗi năm tăng 5.500 ha là rất cao và không khả thi.
Trong thời gian qua, nhằm cụ thể hóa các chương trình, mục tiêu của Chính
phủ và Thành phố, một số ngành, lĩnh vực có sự điều chỉnh quy hoạch cụ thể là:
- Định hướng quy hoạch phát triển công nghiệp TP.Hồ Chí Minh đến năm 2010
có tính đến năm 2020 theo QĐ 188/2004/QĐ-TTg ngày 01/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ có sự thay đổi so với quy hoạch sử dụng đất: chuyển một số khu công
nghiệp sang các mục đích khác như Khu công nghiệp Cát Lái cụm 3,4 (sang đất
thương mại, dịch vụ và đất ở); điều chỉnh quy mô một số Khu công nghiệp như khu
công nghiệp Phú Mỹ (từ 150 ha giảm còn 70 ha), Khu công nghiệp Tân Tạo (từ 460
ha giảm còn 380 ha), Khu công nghiệp Lê Minh Xuân (từ 300 ha tăng lên 800 ha) .
- Điều chỉnh, bổ sung một số công trình giao thông quan trọng như: đường Cao
tốc Sài Gòn - Trung Lương, các tuyến đường sắt đô thị và 3 deport Metro, các tuyến
đường vành đai và các tuyến hướng tâm;

- Điều chỉnh, bổ sung một số công trình công viên cây xanh như: Thảo cầm
viên tại Củ Chi 580 ha (trước đây là 300 ha), bổ sung công viên hồ sinh thái quận
Bình Tân, khu công viên Gia Định huyện Củ Chi khoảng 100 ha.
- Bố trí thêm một số khu làng Đại học lớn tại quận 9 (100 ha), huyện Hóc Môn
500 ha (trong khu đô thị Tây bắc), huyện Bình Chánh (50 ha).
- Bổ sung các Trung tâm Viện trường và các cơ sở y tế tại 4 cửa ngõ của thành
phố khoảng 220 ha.
- Phát triển thêm một số khu đô thị như Khu đô thị Cảng Hiệp Phước (2.000
ha), Khu Đô thị lấn biển Cần Giờ (quy mô khoảng 2.000 ha, giai đoạn từ nay đến
năm 2010 dự kiến 800 ha).
2.3. Luật Đất đai thay đổi
Đồng thời với những thay đổi về các chỉ tiêu kinh tế xã hội, hệ thống chỉ tiêu
về đất đai cũng có sự thay đổi cơ bản.
Do Quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010 của Thành phố Hồ Chí Minh đã xây
dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước khi các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Đất đai 2003 có hiệu lực nên hệ thống chỉ tiêu trong phương án quy hoạch cơ bản
theo hệ thống chỉ tiêu của Luật Đất đai 1993. Mặt khác, năm 2005 thực hiện Chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành kiểm kê đất đai với
hệ thống chỉ tiêu theo Luật Đất đai năm 2003 (trong khi đó, hệ thống chỉ tiêu đất đai
giữa Luật Đất đai 1993 và Luật Đất đai 2003 không đồng nhất) nên sự khác biệt số liệu
giữa phương án quy hoạch với hiện trạng kiểm kê là không tránh khỏi, do đó nếu không
có sự điều chỉnh sẽ gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch.
Như vậy, để đảm bảo tính đồng nhất của hệ thống chỉ tiêu sử dụng đất và đồng
thời phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, cần thiết phải tiến
hành điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của Thành phố.
3. Căn cứ để điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
3.1. Các căn cứ pháp lý
- Luật đất đai 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai;

- Thông tư số 30/2004/TT- BTNMT, ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất;
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005
của cả nước đã được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XI
thông qua tại kỳ họp thứ 5 (Nghị quyết số 29/2004/QH11);
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) của cả nước.
- Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006 – 2010) của cả nước.
- Quy hoạch sử dụng đất TP.Hồ Chí Minh đến năm 2010 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 1060/2004/QĐ-TTg, và Kế hoạch sử dụng đất
đai 5 năm (2001 – 2005) TP.Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại quyết định số 844/2004/QĐ-TTg;
- Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 18/11/2002 của Bộ Chính trị về phương hướng
nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010;
- Quyết định 146/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ về
phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
- Nghị quyết 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị về “Phát triển kinh
tế - xã hội và đảm bảo và quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Quyết định số 123/2006/QĐ-TTg ngày 29/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 53-
NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị về “Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo
và quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
- Nghị quyết và văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ
VIII;
- Quyết định 123/1998/QĐ-TTg ngày 10/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
3.2. Quy hoạch và định hướng của các ngành

- Quy hoạch phát triển hệ thống mạng lưới Chợ – Siêu thị, trung tâm thương
mại của 22 quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 (Sở
Thương mại);
- Định hướng quy hoạch phát triển công nghiệp TP.Hồ Chí Minh đến năm 2010
có tính đến năm 2020 theo QĐ 188/2004/QĐ-TTg ngày 01/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ;
- Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở vật chất ngành Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2020 (Sở Y tế);
- Phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh (Sở Giáo dục
và đào tạo);
- Quy hoạch phát triển mạng lưới ngành thể dục thể thao đến năm 2020 (Sở
Thể dục - Thể thao);
- Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở vật chất ngành văn hóa thông tin đến
năm 2010 (Sở Văn hóa và thông tin);
- Quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020;
- Điều chỉnh quy hoạch đến năm 2010 và Quy hoạch cây xanh đô thị dài hạn
đến năm 2020 (Công ty công viên cây xanh);
- Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2010
(Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn);
- Các quyết định phê duyệt quy hoạch: Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Khu đô thị
Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nhiệm vụ quy hoạch chung Khu đô thị Tây bắc và kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2006-2010) trên địa bàn Khu đô thị Tây bắc (Ban Quản lý Khu đô thị Tây bắc);
- Tài liệu kiểm kê đất đai năm 2000, năm 2005 của toàn thành phố Hồ Chí
Minh và của các quận huyện;
- Tài liệu đo đạc bản đồ địa chính trên địa bàn các quận huyện.
4. Cơ sở khoa học và phương pháp điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm 2006 – 2010 của thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng theo trình tự từ trên

xuống và kết hợp từ dưới lên; vừa dựa trên nhu cầu chung của Thành phố về sử dụng
đất (bao gồm cả nhu cầu về sử dụng đất của các Bộ, ngành Trung ương), vừa dựa trên
đề xuất về sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực và các quận, huyện trên địa bàn
Thành phố đến năm 2010, đặt Thành phố trong bối cảnh chung của cả nước, của vùng
Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để dự báo biến động về quỹ đất
gắn liền với tốc độ tăng trưởng kinh tế, dân số và nhu cầu bảo vệ môi trường cho thời
kỳ đến năm 2010. Phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất được kiểm tra bằng
số liệu quy hoạch sử dụng đất của các quận, huyện của Thành phố, kết hợp với điều
tra bổ sung theo các tuyến. Phương pháp cụ thể như sau:
- Phân tích hiện trạng sử dụng đất của Thành phố tại thời điểm năm 2005, quá
trình sử dụng đất trong thời kỳ 2000 - 2005, kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 - 2005, điều tra, phân tích,
đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất trong kỳ
quy hoạch sử dụng đất của Thành phố, từ đó xác định xu hướng biến động sử dụng
đất và khả năng thực hiện chuyển đổi quỹ đất đối với một số loại đất cần quan tâm
như đất nông nghiệp, đất ở và đất chuyên dùng.
- Phân tích nhu cầu sử dụng đất theo các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2006 – 2010 theo quy hoạch phát triển các ngành, các khu vực đã được Chính
phủ và Uỷ ban nhân dân Thành phố xét duyệt trong thời gian qua. Từ đó đưa ra chỉ
tiêu phát triển của từng ngành tại thời điểm 2010 cần phải bố trí và điều chỉnh quỹ
đất.
- Điều chỉnh bố trí quỹ đất đối với từng loại đất để thực hiện các chỉ tiêu phát
triển của từng ngành phù hợp với hiện trạng sử dụng đất năm 2005, khả năng thực
hiện chuyển đổi quỹ đất, định mức sử dụng đất, tiến bộ khoa học và công nghệ có
liên quan đến việc sử dụng đất.
- Kiểm tra phương án điều chỉnh bố trí quỹ đất bằng việc so sánh với phương
án quy hoạch sử dụng đất của các quận, huyện, thị xã của Thành phố.
5. Mục đích, yêu cầu Điều chỉnh quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất Thành
phố:
- Đánh giá thực trạng và tiềm năng đất đai để có kế hoạch và phương án đầu tư,

sử dụng hợp lý các loại đất phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của Thành phố và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, đồng thời đảm
bảo sự phù hợp với tiến độ đầu tư giai đoạn 2006 – 2010;
- Định hướng và xây dựng bộ số liệu gốc, làm cơ sở để lập quy hoạch sử dụng
đất cho các quận, huyện; làm cơ sở cho cấp xã lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
chi tiết, đồng thời là tiền đề để các ngành xây dựng dự án, lập quy hoạch chi tiết các
công trình, dự án đầu tư.
- Làm cơ sở để quản lý thống nhất đất đai theo quy định của pháp luật, bảo vệ
tài nguyên đất, môi trường sinh thái và nâng cao đời sống xã hội, phát triển kinh tế
phù hợp với việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bền vững.
Phần I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ CẢNH QUAN MÔI TRƯỜNG
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hồ Chí Minh thuộc khu vực Nam Bộ, trong vùng phát triển kinh tế
trọng điểm phía Nam, nơi hội lưu của các con sông như sông Đồng Nai và sông Sài
Gòn. Thành phố Hồ Chí Minh trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có tọa độ địa lý
từ 10
0
22’13” đến 11
0
22’17” vĩ độ Bắc và 106
0
01’25” đến 107
0
01’10” kinh độ Đông,
giáp ranh với các tỉnh:
- Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai; phía Đông Nam giáp tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.

- Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An, Tiền Giang; phía Tây Bắc giáp tỉnh
Tây Ninh.
- Phía Nam giáp biển Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương.
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 209.554,47 ha, gồm 19 quận: 1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận, Thủ Đức, Bình Tân,
Tân Phú và 5 huyện: Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất cả nước, một trong những đầu mối
kinh tế lớn hội đủ các điều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường
sắt, đường hàng không, nối liền với các địa phương trong nước và quốc tế.
Hệ thống thương cảng quốc tế Sài Gòn nối liền với các cảng trong nước và thế
giới (như khu cảng Sài Gòn, khu cảng Nhà Bè, khu cảng Cát Lái...).
Hệ thống đường bộ có Quốc lộ 1A nối liền Thành phố với các tỉnh phía Bắc và các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long; Quốc lộ 22 đi Tây Ninh nối liền với Campuchia; Quốc lộ 13 qua Bình Dương,
Bình Phước nối liền với Quốc lộ 14 kéo dài suốt Tây nguyên; Quốc lộ 51 nối liền với Đồng Nai và
Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc lộ 50 đi Long An, Tiền Giang và nhiều tỉnh lộ nối trực tiếp với các tỉnh
xung quanh.
Thành phố cũng là đầu mối cuối cùng của đường sắt thống nhất Bắc - Nam.
Sân bay Tân Sơn Nhất là một sân bay quốc tế lớn của nước ta.
Nhìn chung, vị trí của Thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
thành một đô thị hiện đại, một trung tâm kinh tế lớn và năng động ngang tầm các
nước trong khu vực. Song đó cũng là nhân tố gây sức ép mạnh mẽ đến môi trường
và đất đai của Thành phố.
1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình Thành phố Hồ Chí Minh phần lớn bằng phẳng, thấp, có một phần diện tích dạng đất
gò ở phía Bắc và Đông Bắc với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Địa hình Thành phố có thể
chia thành bốn dạng chính:
- Dạng đất gò cao:
Có độ cao biến thiên từ 4 đến 32 m. Trong đó phần diện tích có độ cao từ 4 – 10
m chiếm khoảng 19% tổng diện tích tự nhiên; phần diện tích có độ cao trên 10 m chiếm

khoảng 11% tổng diện tích tự nhiên. Dạng địa hình này phân bố chủ yếu ở huyện Củ Chi
và một phần ở Quận 9, Thủ Đức.
- Dạng đất bằng thấp:
Chiếm khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên. Độ cao 2 - 4 m, điều kiện tiêu thoát
nước tương đối thuận lợi. Phân bố chủ yếu ở các quận nội thành, một phần ở Thủ Đức,
Hóc Môn nằm dọc theo sông Sài Gòn và phía Nam huyện Bình Chánh.
- Dạng trũng thấp, lầy ở phía Tây Nam:
Chiếm khoảng 34% diện tích tự nhiên, độ cao phổ biến từ 1 - 2 m. Phân bố dọc
theo kênh An Hạ, Lê Minh Xuân, Tân Nhựt, Tam Tân, Thái Mỹ kéo dài từ các huyện
Bình Chánh đến Củ Chi, khu vực trung tâm huyện Nhà Bè, Bưng Sáu Xã của Thủ
Đức (cũ) và phía Bắc huyện Cần Giờ.
- Dạng trũng thấp mới hình thành ven biển:
Chiếm khoảng 21% tổng diện tích tự nhiên. Dạng địa hình này có độ cao phổ
biến khoảng 0 - 1 m, nhiều nơi có độ cao thấp hơn mực nước biển, nhìn chung đa số
chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng ngày.
1.3. Khí hậu
Thành phố nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận
xích đạo với hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau.
- Nhiệt độ:
Nhiệt độ cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình cả năm khoảng 28
0
C
(dao động trong khoảng 26,6 - 30,1
0
C). Chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và
tháng lạnh nhất khoảng 4
0
C, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4, thấp nhất là tháng
12.

Lượng bức xạ dồi dào (trung bình khoảng 140 Kcal/cm
2
/năm) nhưng có sự khác
biệt về cấu trúc mùa. Mùa khô có bức xạ mặt trời cao, thời kỳ có bức xạ cao vào
tháng 4 và 5 (đạt 400 - 500 cal/cm
2
/ngày). Mùa mưa có bức xạ mặt trời thấp hơn,
cường độ bức xạ cao nhất đạt 300 - 400 cal/cm
2
/ngày.
- Độ ẩm:
Độ ẩm trung bình cả năm khoảng 75%. Có sự chênh lệch rõ rệt theo mùa.
- Lượng mưa:
Lượng mưa thay đổi theo từng khu vực và phân bố không đều, tập trung chủ yếu
từ tháng 5 đến tháng 11, lớn nhất vào tháng 7 hoặc tháng 10
- Chế độ gió:
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hai hướng gió
mùa chủ yếu: Từ ngoài biển Đông thổi về theo hướng Đông Nam - Tây Bắc (thịnh
hành trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 4); Từ Ấn Độ Dương thổi về theo
hướng Tây Nam - Đông Bắc (thịnh hành trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng
10).
Ngoài ra còn có hướng gió từ phương Bắc thổi về, đây là hướng gió thịnh hành
trong tháng 11, 12 và tháng 1. Hướng gió hoạt động trong năm có ý nghĩa quan trọng
trong việc bố trí các khu công nghiệp, dân cư, nhất là các ngành công nghiệp có khả
năng gây ô nhiễm không khí.
1.4. Thuỷ văn
Thành phố nằm giữa hai sông lớn là sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông và chịu
ảnh hưởng lớn của sông Đồng Nai.
- Sông Đồng Nai:
Là sông lớn nhất trong hệ thống Đồng Nai - Sài Gòn. (Sông Đồng Nai nối

thông qua sông Sài Gòn bằng hệ thống kênh Rạch Chiếc). Tại địa phận Quận 9, sông
rộng 400 - 600 m. Lòng sông không sâu so với các sông khác, độ sâu trung bình 12 -
15 m, dòng chảy trung bình 500 m
3
/s.
- Sông Sài Gòn:
Là sông có độ dốc nhỏ, lòng dẫn hẹp nhưng sâu, ít khu chứa do vậy thuỷ triều
truyền vào rất sâu và mạnh. Chế độ thuỷ văn, dòng chảy của các kênh rạch trong
Thành phố chịu ảnh hưởng chủ yếu của sông Sài Gòn.
- Sông Vàm Cỏ Đông:
Sông Vàm Cỏ Đông có rất nhiều sông nhánh nối với hệ thống kênh rạch khu
vực Tây Nam Thành phố.
- Hệ thống kênh rạch của Thành phố có thể khái quát làm hai hệ thống chính:
Hệ thống các kênh rạch đổ vào sông Sài Gòn với hai nhánh chính là rạch Bến
Cát và kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè.
Hệ thống kênh rạch đổ vào sông Bến Lức và kênh Đôi, kênh Tẻ như rạch Tân
Kiên, rạch Bà Hom, rạch Tân Hoá - Lò Gốm... Đặc điểm của các kênh rạch này là chúng
tương đối độc lập và bắt nguồn từ vùng đất cao.
Nét nổi bật chi phối tất cả các chế độ dòng chảy trong khu vực Thành phố là sự
xâm nhập của thuỷ triều. Phân tích biên độ dao động của thuỷ triều tại các trạm Bến
Lức, Gò Dầu Hạ (trên sông Vàm Cỏ Đông), các trạm Nhà Bè, Phú An, Thủ Dầu Một
(trên sông Sài Gòn) cho thấy biên độ dao động thuỷ triều dọc sông Sài Gòn thay đổi
và giảm dần từ cửa sông đến Dầu Tiếng và biên độ dao động của thuỷ triều trên sông
Vàm Cỏ Đông nhỏ hơn trên sông Sài Gòn rất nhiều. Với chế độ dòng triều như vậy
cho nên hầu như các ảnh hưởng và sự trao đổi dòng chảy giữa hai sông Sài Gòn và
Vàm Cỏ Đông rất yếu và đó cũng là nguyên nhân tạo ra các giáp nước (nơi dòng
chảy đổi chiều, tốc độ dòng chảy bằng 0 hoặc gần bằng 0) trên sông Bến Lức và kênh
Thầy Cai.
2. Các nguồn tài nguyên
2.1. Tài nguyên đất

Theo tài liệu khảo sát thổ nhưỡng, trên địa bàn các huyện và quận ven Thành
phố Hồ Chí Minh, có 6 loại đất chính sau đây:
2.1.1. Đất cát:
Đất cát có diện tích 6.704 ha, chiếm 3,2% diện tích tự nhiên. Phân bố ở huyện
Cần Giờ.
Đất có tỷ lệ cấp hạt cát cao (76 - 85%), trong đó cấp hạt cát mịn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng số các cấp hạt (47 - 53%), tỷ lệ cấp hạt sét và limon rất thấp (15 -
17%). Đất cát nghèo mùn, đạm, lân và kali.
2.1.2. Đất mặn:
Với diện tích 25.559 ha, chiếm khoảng 12,2% diện tích tự nhiên. Phân bố tập
trung ở huyện Cần Giờ.
Loại đất này hình thành trên trầm tích sông, biển và đầm lầy biển bị xâm nhập
mặn hơi chua ở tầng mặt (pH < 5), các tầng ở dưới ít chua đến trung tính, đạt trị số
pH 6,5 - 7 ở độ sâu trên 100 cm.
Đất có thành phần cơ giới nặng; Các chỉ tiêu độ phì ở mức trung bình khá,
hàm lượng chất hữu cơ giàu (2,5 - 3,5%), hàm lượng đạm tổng số tương đối cao
(0,2%). Đất mặn thích hợp cho việc trồng rừng, đặc biệt đối với cây đước, sú,
vẹt,...
2.1.3. Đất phèn:
Chủ yếu là đất phèn tiềm tàng, diện tích khoảng 57.613 ha, chiếm 27,5% diện tích tự nhiên.
Phân bố ở các vùng thấp, trũng, tiêu thoát nước kém như: phía Nam huyện Bình Chánh, Nhà Bè, ven
sông Đồng Nai, Sài Gòn và phía Bắc huyện Cần Giờ.
Đất phèn được hình thành trên trầm tích đầm lầy biển (đầm mặn). Trong điều kiện
yếm khí phèn ở dạng tiềm tàng, trong phẫu diện chỉ có tầng Pyrite. Khi có quá trình thoát
thuỷ, tạo ra môi trường oxy hoá, tầng Pyrite chuyển thành tầng Jarosite làm cho đất chua
đồng thời giải phóng nhôm gây độc hại cho cây trồng.
Tầng sinh phèn và tầng phèn thường rất nông, nhiều nơi phát hiện ngay ở tầng
đất mặt, hàm lượng lưu huỳnh và các độc tố Fe
2+
, Fe

3+
, Al
3+
rất cao. Nhìn chung đất
có độ pH thấp, hàm lượng Cl
-
và các muối tan rất cao vì đất thường xuyên chịu ảnh
hưởng của nước biển làm cho đất phèn trở nên phức tạp và diễn biến nhanh chóng
theo chiều hướng bất lợi cho sản xuất cũng như môi trường. Mg
2+
và Na
2+
chiếm vai
trò chính trong thành phần các cation trao đổi.
Đất có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, cùng với sự tích luỹ muối
phá vỡ các keo đất làm cho đất dính dẻo khi ướt, nứt nẻ và cứng khi khô. Do đất phèn
được hình thành trên trầm tích Holocen, cùng với quá trình trầm tích là quá trình vùi
lấp các thân xác thực vật biển trong điều kiện yếm khí nên đất phèn thường rất giầu
các hợp chất hữu cơ (5 - 12%).
Các loại đất phèn có tầng sinh phèn sâu, không còn chịu ảnh hưởng của nước
biển và thường có nguồn nước tưới. Hiện nay, đất phèn đã được khai thác trồng lúa 2
- 3 vụ, rau màu và các loại cây ăn quả. Còn lại một diện tích lớn các đất phèn có tầng
sinh phèn nông, còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều được sử dụng cho việc trồng và
bảo vệ rừng ngập mặn.
2.1.4. Đất phù sa:
Có diện tích khoảng 26.397 ha, chiếm 12,6% diện tích tự nhiên, trong đó loại
đất phù sa ngọt chỉ chiếm khoảng 2,5%. Phân bố chủ yếu ở vùng Nam Bình Chánh và
một số nơi ở Củ Chi, Hóc Môn, độ cao khoảng 1,5 m. Các chất dinh dưỡng về mùn,
đạm, lân và kali rất giàu. Đây là loại đất tốt, cần thiết phải được cung cấp nước tưới,
ưu tiên sản xuất lúa nước 2 - 3 vụ và sử dụng một phần diện tích cho việc trồng cây ăn

trái.
2.1.5. Đất xám:
Có diện tích khoảng 40.434 ha, chiếm khoảng 19,3% diện tích tự nhiên. Phân
bố chủ yếu trên vùng đất cao, gò ở huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn, quận Thủ Đức,
quận 9 và phía Bắc huyện Bình Chánh.
Đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu hình thành trên mẫu chất phù sa
cổ. Tầng đất thường rất dầy, thành phần cơ giới nhẹ. Đất có phản ứng chua; hàm
lượng mùn, đạm tầng đất mặt khá nhưng rất nghèo kali do vậy trong sản xuất nông
nghiệp phải đầu tư nhiều phân bón.
Loại đất này dễ thoát nước, thuận lợi cho cơ giới hoá và thích hợp với loại cây
hàng năm và cây công nghiệp ngắn ngày. Trong sử dụng phải chú ý biện pháp chống
xói mòn và rửa trôi, tăng cường bón phân bổ sung dinh dưỡng nhất là phân hữu cơ.
2.1.6. Đất đỏ vàng:
Có diện tích khoảng 3.143 ha, chiếm 1,5% diện tích tự nhiên. Phân bố trên
vùng gò ở huyện Củ Chi và quận Thủ Đức, quận 9.
Đất hình thành trên các sản phẩm phong hoá của các loại đá mẹ và mẫu chất
khác nhau. Đặc điểm chung của nhóm đất này là chua, độ no bazơ thấp, khả năng hấp
phụ không cao, khoáng sét phổ biến là Kaolinit, axit mùn chủ yếu là fuvic, chất hoà
tan dễ bị rửa trôi. Nên ưu tiên sử dụng cho việc trồng các cây như cao su, điều vì có
khả năng bảo vệ và cải tạo đất tốt.
2.2. Các loại tài nguyên khác
2.2.1 Tài nguyên nước
2.2.1.1 Nước mặt
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng hạ lưu của hệ sông Đồng Nai - Sài
Gòn, giáp với biển Đông, nên nguồn nước ngọt của sông Đồng Nai là nguồn nước
ngọt chính với diện tích lưu vực khoảng 45.000 km
2
, hàng năm cung cấp 15 tỷ m
3
nước. Trong thời gian qua, một số các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện được xây dựng

chỉ làm thay đổi lượng nước theo mùa nhưng không thay đổi về tổng lượng nói
chung.
Nước mặt trên địa bàn Thành phố hiện nay chủ yếu sử dụng cho nông nghiệp
và nuôi trồng thủy sản tại các huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè và Cần
Giờ với lưu lượng khoảng 100 triệu m
3
/năm.
2.2.1.2. Nước dưới đất
Nguồn nước dưới đất phân bố khá rộng, nước dưới đất ngọt phân bố chủ yếu ở
các tầng chứa nước Pliocen ở độ sâu 100 - 300 m, cá biệt có nơi 20 - 50 m. Tập trung tại
các huyện Củ Chi, Hóc Môn, phía Bắc huyện Bình Chánh, các quận Tân Bình, Gò
Vấp... trữ lượng khai thác ước tính 300 - 400 m
3
/ngày.
Nước dưới đất đã được khai thác và sử dụng từ những năm đầu thế kỷ XX và bùng nổ việc
khai thác từ sau năm 1991. Tổng lưu lượng nước hiện đang khai thác khoảng 600.000 m
3
/ngày, chiếm
trên 30% nhu cầu nước sinh hoạt của Thành phố. Hiện nay, Thành phố đang mở rộng mạng lưới cấp
nước, tăng khai thác nước mặt để dần dần giảm khai thác lượng nước dưới đất.
2.2.2. Tài nguyên rừng
Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 33.857,86
ha đất lâm nghiệp; chiếm 16,16% diện tích đất tự nhiên.
Rừng phân bố tập trung ở Cần Giờ, Bình Chánh và Củ Chi, trong đó chủ yếu là
diện tích rừng ngập mặn Cần Giờ (chiếm khoảng 94% diện tích rừng). Số diện tích
còn lại phân bố ở Bình Chánh và Củ Chi dưới dạng rừng thứ sinh tự nhiên và rừng
trồng, với các loại thực vật chủ yếu là bạch đàn và keo lá tràm.
Rừng Cần Giờ không những là rừng phòng hộ mà còn là khu dự trữ sinh quyển
được UNESCO công nhận. Động thực vật chủ yếu là các chủng loại chịu mặn (đước,
sú, vẹt,...; khỉ, chim, cá,...).

2.2.3. Tài nguyên biển
Thành phố Hồ Chí Minh duy nhất ở huyện Cần Giờ là có biển với chiều dài bờ
biển khoảng 15 km kéo dài từ tỉnh Tiền Giang đến giáp ranh tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
(ngược) với hai vịnh lớn nhất là vịnh Đồng Tranh và vịnh Gành Rái.
Nguồn lợi từ biển chủ yếu là nuôi trồng thủy hải sản, đánh bắt gần bờ và khai thác muối.
Việc khai thác, đánh bắt xa bờ còn hạn chế do đầu tư chưa đúng mức.
Hiện nay Thành phố đang có chủ trương tận dụng các bãi biển và chuyển đổi
cơ cấu từ lúa năng suất thấp đất làm muối năng suất không ổn định sang nuôi trồng
thuỷ hải sản, đồng thời đầu tư tàu công suất lớn phục vụ khai thác, đánh bắt xa bờ.
Tuy nhiên, vấn đề này cần phải được xem xét nghiêm túc tránh tình trạng xảy ra hiện
tượng xâm mặn.
2.2.4. Tài nguyên khoáng sản
Theo các tài liệu hiện có về tiềm năng khoáng sản và hiện trạng khai thác mỏ,
Thành phố Hồ Chí Minh có các loại khoáng sản sau:
- Than bùn: Là một dạng nhiên liệu hóa thạch gồm mùn hữu cơ và bùn sét.
Phân bố rải rác ở Láng Le (Bình Chánh), Nhị Bình (Hóc Môn), Tam Tân (Củ Chi),
Long Phước, Tăng Nhơn Phú (Quận 9) và các điểm than bùn ở huyện Cần Giờ. Tổng
trữ lượng tài nguyên dự báo khoảng 3.390.000 tấn.
- Kaolin: Loại đất sét mịn, trắng, là nguyên liệu chính để sản xuất gốm, sứ,
gạch men, sản xuất sơn, giấy, chất độn cho một số dược phẩm, thuốc trừ sâu,… và có
thể chế biến tạo thành zeolit. Phân bố ở khu vực huyện Củ Chi, Thủ Đức với chất
lượng không đồng đều, độ thu hồi từ 20 - 80%, tinh quặng kaolin có chất lượng chủ
yếu thuộc hạng IV. Trữ lượng thăm dò cho các mỏ Rạch Sơn, Bàu Chứa, Linh Xuân
(cấp B + C1): 4.223.168 tấn. Tổng trữ lượng tài nguyên dự báo (cấp P): 12.734.340
tấn.
- Đá xây dựng: Phân bố rải rác ở một số nơi như ấp Hàm Luông, bến đò Long
Bình và ấp Giồng Chùa. Tổng trữ lượng tiềm năng khoảng 25 triệu m
3
. Mỏ đá Long
Bình đã khai thác được khoảng 1 triệu m

3
.
- Cát xây dựng: Chủ yếu từ các thành tạo trầm tích Pleistocen muộn và
Pleistocen giữa - muộn ở các khu vực Thủ Đức, Củ Chi, Hóc Môn và trên các tuyến
sông. Cát xây dựng chưa được đánh giá trữ lượng. Riêng đoạn sông từ cầu Đồng Nai
đến ngã ba sông Sài Gòn (ngã ba Đèn đỏ) với chiều dài khoảng 40 km, tổng trữ lượng
tài nguyên cấp C là 37.500.000 m
3
.
- Sét gạch ngói: Phân bố nhiều nơi trên địa bàn tThành phố với 2 kiểu nguồn
gốc trầm tích và phong hóa. Mỏ sét phong hóa Long Bình đã được khai thác hết với
trữ lượng 11.000.000 m
3
. Tổng trữ lượng tài nguyên dự báo trên 50.000.000 m
3
, trong
đó điển hình mỏ Tân Quy (17.000.000 m
3
), Vĩnh Lộc (13.365.000 m
3
), Tân Túc
(7.764.000 m
3
), Nhị Bình (7.200.000 m
3
),…
- Sét Keramzit: Là loại vật liệu làm từ sét có tính trương phồng khi nung nhanh
ở nhiệt độ thích hợp, có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất bê tông nhẹ xây dựng nhà
cao tầng, vật liệu cách nhiệt, cách âm, chất độn xà phòng, dung dịch khoan, ngoài ra
còn có rất nhiều ứng dụng khác. Chỉ ghi nhận được được một điểm Keramzit ở Cần

Giờ với trữ lượng cấp C2 = 3.200.000 m
3
, tổng trữ lượng tài nguyên dự báo cấp P là
23.190.000 m
3
.
- Đất Laterit: Phân bố rộng rãi ở phía Bắc và Tây Bắc thành phố (Quận 9, Thủ
Đức, Củ Chi, Hóc Môn). Theo thống kê hiện nay, trên địa bàn thành phố có 17 điểm
Laterit, trong đó có 7 mỏ đã được điều tra đánh giá trữ lượng tài nguyên cấp P là
14.200.000 m
3
.
2.2.5. Tài nguyên nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh có lịch sử hơn 300 năm với nhiều công trình kiến
trúc cổ như đền Quốc Tổ, dinh Xã Tây, Nhà hát Lớn, Bưu điện, hệ thống các ngôi chùa
cổ (chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Đình Giác Viên,...), hệ thống các Nhà
thờ cổ (Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...), hệ thống chợ Sài Gòn, Bà chiểu,
Bình Tây…
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của
dân tộc, ở đây Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911). Gắn
liền với sự kiện đó là các di tích quan trọng như cảng Nhà Rồng, Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, một trong những đặc trưng văn hoá của 300 năm lịch sử đất Sài Gòn - Gia
Định là sự hội tụ nhiều dòng văn hoá giữa truyền thống dân tộc của người Việt với
những nét đặc sắc của văn hoá Đông Tây.
Thành phố có nhiều dân tộc Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Chăm,... với nền văn hoá
phong phú, đa dạng. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm Văn hoá của Miền Nam. Đây
là nơi ra đời báo Quốc ngữ đầu tiên, là trung tâm hoạt động và giao lưu văn hoá, văn
học, nghệ thuật nên có ảnh hưởng lớn về văn hoá đối với cả nước.
3. Thực trạng môi trường
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật và

sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Mối liên quan giữa việc quản lý, sử dụng và
bảo vệ tài nguyên, môi trường đôi khi lại bị bỏ qua hoặc không được chú ý đúng mức
do không có công cụ hoặc giải pháp thích hợp. Do vậy, khi lập quy hoạch sử dụng đất
của Thành phố Hồ Chí Minh cần phải đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính về môi
trường dưới đây.
3.1. Môi trường không khí
Từ năm 1995, Thành phố đã thiết lập hệ thống quan trắc chất lượng môi trường
không khí bán tự động; năm 1996 bổ sung thêm 01 trạm. Các thông số đo đạc bao
gồm: NO
2
, CO, bụi, chì và tiếng ồn. Đến tháng 8 năm 2000 với sự tài trợ của UNDP,
hệ thống quan trắc chất lượng môi trường không khí tự động được thiết lập; tiếp đó
đến tháng 8 năm 2002 với sự tài trợ của NORAD – Na Uy bổ sung thêm 5 trạm. Các
thông số đo đạc: PM
10
, SO
2
, NOx, CO, O
3
. Ngoài ra còn có 6 trạm quan trắc không
khí bán tự động để quan trắc chất lượng không khí ven đường.
Kết quả quan trắc chất lượng không khí cho thấy nồng độ các chất ô nhiễm
không khí đo được trong khu dân cư đạt tiêu chuẩn cho phép (nồng NO
2
và SO
2
dao
động trong khoảng từ 2,3 – 40,49 µg/m
3
và 2,52 – 86,65 µg/m

3
, đạt tiêu chuẩn cho
phép TCVN 5937: NO
2
= 100 µg/m
3
và SO
2
= 300 µg/m
3
; nồng độ bụi trung bình
tháng dao động trong khoảng 32,78 – 148,56 µg/m
3
đạt tiêu chuẩn cho phép TCVN
5937: bụi = 160 µg/m
3
).
Về chất lượng không khí ven đường, nồng độ bụi tổng từ năm 2000 đến nay có xu
hướng giảm (nhưng vẫn còn ở mức cao); nồng độ CO vào một số thời điểm vượt tiêu
chuẩn cho phép (tại 2 trạm vòng xoay Hàng Xanh và ngã tư Điện Biên Phủ – Đinh Tiên
Hoàng, nồng độ CO đôi khi vượt tiêu chuẩn trung bình 1,05 – 1,21 lần).
3.2. Môi trường nước
3.2.1 Môi trường nước mặt
Phần lớn nước mặt nằm trong ranh giới hành chính của Thành phố có chất
lượng nước không đạt yêu cầu khai thác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt .
Hiện nay, nguồn nước mặt có thể khai thác phục vụ cho sinh hoạt chủ yếu lấy
từ sông Đồng Nai với khả năng khai thác khoảng 600.000m3/ngày, từ hệ thông kênh
Đông Củ Chi với khả năng khai thác khoảng 250.000m3/ngày. Tuy nhiên lưu lượng
khai thác từ 2 nguồn này phụ thuộc vào việc tích - xả cuả hồ Dầu Tiếng và xâm nhập
mặn, hiện nay đang có dự án mở rộng việc khai thác nước kênh Ðông để phục vụ nhu

cầu nước sinh hoạt cho Thành phố.
Do Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở phần hạ lưu của lưu vực sông Ðồng Nai,
chất lượng nguồn nước mặt bị ảnh rất lớn của hoạt động kinh tế ở thượng nguồn, do
khu vực khai thác nằm ngoài địa phận nên khó kiểm soát chất lượng nước và phụ thuộc vào địa
phương bạn về bảo vệ nguồn nước.
Bảng 1.1. Thống kê lưu lượng nước khai thác phục vụ sinh hoạt (Đvt: m
3
)
Thời gian Trước 1950 1960 1996 1998 1999 Hiện nay
Q khai thác 80.000 130.000 357.628 475.492 524.456 600.000
Hệ thống quan trắc:
Từ năm 1993, hệ thống quan trắc chất lượng môi trường nước mặt và thủy
văn được thiết lập bao gồm 8 trạm Phú Cường, Bình Phước, Phú An (sông Sài
Gòn), Hoá An (Đồng Nai), Nhà Bè, Bình Điền, Tam Thôn Hiệp và Lý Nhơn. Đến
năm 2001, hệ thống quan trắc chất lượng môi trường nước của TP. Hồ Chí Minh
bổ sung 10 trạm quan trắc chất lượng của các kênh rạch chính trong nội thành
gồm: Nhiêu Lộc - Thị Nghè (tại cầu Lê Văn Sỹ, cầu Điện Biên Phủ), Bến Nghé -
Tàu Hủ – Đôi - Tẻ (cầu Chà Và, cầu Nhị Thiên Đường, bến Phú Định, rạch Ruột
Ngựa), Tân Hoá - Lò Gốm (cầu Ông Buông, Hoà Bình) và Tham Lương - Bến Cát
(cầu Tham Lương, cầu An Lộc) với tần suất 02 lần trong năm vào mùa khô (tháng
4) và mùa mưa (tháng 9).
Hệ thống quan trắc chất lượng nước dưới đất bắt đầu hoạt động từ năm 2001
gồm 11 trạm. Các thông số đo đạc gồm pH, T
0
C, EC, TDS, Cl
-
, NO
3
-
, NH

4
+
, TOC,
kim loại nặng (Pb, Cu, Zn, Ni, Cr, Cd, Hg, Al, Fe, As), tổng Phospho và tổng
Coliform.
Kết quả phân tích chất lượng nước năm 2004 cho thấy chất lượng nước tại
trạm Hoá An (sông Đồng Nai) bị ô nhiễm hữu cơ, dầu và vi sinh; chất lượng nước tại
trạm Phú Cường (sông Sài Gòn) bị ô nhiễm hữu cơ và vi sinh; chất lượng nước tại
các trạm khu vực Nhà Bè và Cần Giờ đạt tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước
loại B, tuy nhiên đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, dầu và vi sinh. Chất lượng nước khu
vực Cần Giờ đang bị ảnh hưởng bởi dòng nước bẩn từ sông Thị Vải.
Kênh rạch tại Thành phố bị ô nhiễm nặng về mặt hữu cơ và vi sinh, mùa khô ô
nhiễm nặng hơn mùa mưa do khả năng tự làm sạch của thủy vực trong mùa mưa tốt
hơn (nồng độ BOD
5
ở kênh rạch nội thành TP. Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn cho
phép đối với nước mặt loại B TCVN 5942 – 1995 từ 6,2 – 12,1 lần; nồng độ Coliform
tại các trạm quan trắc vượt tiêu chuẩn cho phép đối với nước mặt loại B khoảng từ 50
– 1.000 lần).
3.2.2 Nước dưới đất:
Thành phố Hồ Chí Minh có 3 tầng chứa nước chính là tầng Pleistocen Q I-II,
Pliocentrei N2
2
và Pliocen dưới N2
1
. Khoảng phân nửa diện tích thành phố nước dưới
đất lại mặn, ranh mặn hình vòng cung nằm ở phía Nam đi qua các huyện Bình Chánh,
quận Bình Tân, 2, 9. Tổng trữ lượng của tầng chứa nước khoảng 600.000 m
3
/ngày



Nguồn nước dưới đất chưa được bảo vệ và khai thác một cách hợp lý. Thể hiện
ở chỗ việc khai thác nước dưới đất một cách bừa bãi, các giếng khai thác lại quá tập
trung một khu vực, nhiều giếng kết cấu không đảm bảo việc cách ly chống ô nhiễm
do thông tầng. Công tác quản lý nguồn nước dưới đất đã được quan tâm từ lâu, song
việc đầu tư cho công tác quản lý vừa thiếu lại vừa yếu.
Do còn một số những bất cập trên, nguồn nước dưới đất đang bị ô nhiễm cả về
quy mô và độ ô nhiễm, nhất là đối với tầng chứa nước gần mặt đất. Mực nước đang
cạn kiệt, nhiều nơi mực nước đã hạ thấp đến trên 30 m so với mặt đất và xu hướng
này vẫn đang tiếp diễn với tốc độ từ 2 – 3 m/năm. Chính sự hạ thấp mực nước lớn
như vậy, hiện tượng xâm nhập mặn đã và đang xảy ra khu vực phía Tây, Tây Nam
thành phố đối với các tầng chứa nước Pliocen trên và dưới. Trong vùng phễu hạ thấp
mực nước hiện tượng trồi ống chống các giếng khoan đã và đang xảy ra.
- Chất lượng nước dưới đất tầng nông đang ở mức báo động, bị ô nhiễm hữu cơ, ô
nhiễm vi sinh và nhiễm mặn ở một số khu vực. Kết quả quan trắc chất lượng nước dưới
đất trong 6 tháng đầu năm cho thấy giá trị pH tại các trạm dao động từ 4,4 – 6,8; đa số
các mẫu đều không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước dưới đất (TCVN 5994-1995: pH: 6,5
– 8,5); tổng cacbon hữu cơ dao động từ 0,6 – 89,8 mg/l, thấp hơn so với khuyến cáo
(nồng độ cacbon hữu cơ phải nhỏ hơn 2 mg/l).
3.3. Môi trường đất
3.3.1. Thoái hoá đất
Nhìn chung tình trạng thoái hoá đất ở Thành phố diễn ra khá phổ biến. Đất bị thoái
hoá dưới các hình thức: Nhiễm mặn (Cần Giờ); nhiễm phèn (phía Nam huyện Bình
Chánh, Nhà Bè, ven sông Đồng Nai, Sài Gòn và Bắc Cần Giờ); xói mòn rửa trôi bề mặt ở
các vùng có địa hình cao và dốc (Thủ Đức, Củ Chi, Hóc Môn); sụt lún đất (Thủ Đức, Củ
Chi, Hóc Môn, Tân Bình, Quận 3, Quận 10); lầy hoá (Nhà Bè, Thủ Đức, Quận 8, Bình
Chánh), xói lở bờ sông (ở một phần kênh rạch Nhà Bè).
3.3.2. Ô nhiễm đất do thuốc bảo vệ thực vật
Các quan trắc trong đề án phân tích môi trường đất cho thấy các vùng trồng rau

là một trong những trọng điểm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều. Riêng tại Hóc
Môn, ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, bình quân một vụ rau được phun thuốc bảo vệ
thực vật từ 10 đến 25 lần. Lượng thuốc sử dụng cho 1 ha trong một năm có thể đạt tới
100 thậm chí 150 lít.
Kết quả phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại một số điểm trong đợt
quan trắc tháng 7 năm 1996 đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong tầng
đất mặt tại 5 trong số 8 điểm quan trắc với hàm lượng từ 0,4 - 0,9 mg/kg, vượt quá
Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN-1995).
Trong các đợt phân tích hoàn toàn không phát hiện được dư lượng các nhóm
thuốc khác mặc dù lượng sử dụng có thể đạt tới 50 - 100 lít thuốc thương phẩm trên
một ha. Kết quả trên đây cho thấy hiện tượng ô nhiễm đất do thuốc bảo vệ thực vật
mang tính tạm thời.
3.3.3. Ô nhiễm đất do chất thải đô thị
Song song với quá trình đô thị hoá, lượng rác thải hữu cơ đang có xu hướng
ngày càng tăng lên. Theo số liệu thống kê tThành phố Hồ Chí Minh bình quân hàng
năm có khoảng 6 triệu tấn rác thải, trong đó có khoảng hơn 4,5 triệu tấn rác thải sinh
hoạt gồm phần lớn rác từ thực phẩm. Nếu có quy trình công nghệ chọn lọc và xử lý
tốt thì lượng phế thải này có thể trở thành một nguồn phân hữu cơ quý góp phần cải
tạo đất.
Theo số liệu điều tra tại địa bàn quan trắc thuộc xã Xuân Thới Thượng - Hóc
Môn cho thấy bình quân mỗi vụ rau một ha đất gieo trồng có thể được bón từ 25 đến
80 tấn rác tươi. Dưới góc độ nông hoá học, không thể phủ nhận vai trò tích cực của
hữu cơ trong việc cải tạo đất. Tuy nhiên, dưới góc độ môi trường, bên cạnh những ưu
điểm, việc dùng phế thải đô thị thay thế phân hữu cơ không qua xử lý chọn lọc có thể
gây ảnh hưởng đến môi trường đất.
Tại các điểm quan trắc đã được xác lập từ năm 1996, kết quả quan trắc đến nay cho thấy vấn đề ô
nhiễm một số kim loại nặng gây độc và vi sinh vật gây bệnh thật sự đã và đang còn tồn tại trong đất mặc
dù từ năm 2000 đất tại vùng quan trắc không còn được bón phân rác do chính quyền đã nghiêm cấm. Kết
quả quan trắc năm 2002 cho thấy hàm lượng Cu, Cr, Cd ở tầng đất mặt cao gần hoặc vượt mức báo động;
mật độ Coliform dao động trong khoảng 132 - 170 MPN/g đất khô.

3.3.4. Ô nhiễm kim loại nặng tại vùng chịu ảnh hưởng của nước thải công
nghiệp và đô thị
Nước thải công nghiệp và đô thị cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng gây ô nhiễm môi trường đất. Môi trường đất tại một số khu vực sản xuất nông
nghiệp bị ô nhiễm bởi nước thải sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và bùn thải
của các cống rãnh đô thị. Kết quả phân tích các mẫu bùn lắng trong hệ thống sông, kênh
rạch và các mẫu đất tại các vùng ven, khu vực sản xuất nông nghiệp cho thấy môi trường
đất bị ô nhiễm dầu và ô nhiễm kim lọai nặng.
Thành phố Hồ Chí Minh, hàng ngày các khu công nghiệp đã thải ra hơn 600
ngàn m
3
nước thải với mức độ ô nhiễm khác nhau. Nước thải có thể xâm nhập vào đất
trực tiếp do các cống thải bị vỡ thông qua hệ thống kênh rạch. Kết quả quan trắc ở
vùng đất trong khu vực thuộc 2 huyện Nhà Bè và Bình Chánh là vùng đất chịu ảnh
hưởng trực tiếp của nước thải do các hoạt động công nghiệp và sinh hoạt từ các quận
nội thành (Quận 5, 6, 7, 11, Tân Bình) qua hệ thống kênh Tân Hoá - Lò Gốm tiếp nối
với kênh Tàu Hủ, kênh Đôi, kênh Tẻ, kênh Bến Nghé và các hệ thống rạch nhỏ chằng
chịt trong toàn bộ khu vực quan trắc (rạch Ông Lớn, Xóm Củi, Bà Lào...).
Kết quả điều tra, quan trắc cho thấy do bị ảnh hưởng của nước thải, việc ô
nhiễm môi trường đất ở vùng quan trắc đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất
lượng nông sản, vì vậy đến năm 2002 hầu hết diện tích đất trong vùng quan trắc đều
bị bỏ hoang. Kết quả phân tích mẫu đất, nước tại 4 điểm quan trắc cho thấy có sự tích
luỹ một số kim loại nặng như Pb, Cd, Co, Cr gần bằng hoặc vượt ngưỡng cho phép.
Độ dẫn điện trong đất (EC) trong tầng đất mặt khá cao đến mức có thể gây ảnh hưởng
xấu đến sự sinh trưởng của cây trồng.
3.3.5 Xử lý chất thải rắn:
Thành phố hiện có 01 Công ty Môi trường Đô thị Thành phố, 22 Công ty Dịch vụ
công ích quận, huyện và 01 Hợp tác xã Công nông tham gia công tác thu gom, vận
chuyển rác thải. Trong năm 2005, lượng rác sinh hoạt được thu gom là 1.733.351 tấn
(bình quân 4.749 tấn/ngày); lượng rác xà bần là 305.328 tấn (bình quân 836,5 tấn/ngày).

Chất thải rắn đô thị chỉ mới thu gom được khoảng 70-80%, còn một lượng rác xả trực
tiếp xuống kênh rạch. Chất lượng vệ sinh môi trường trên đường phố và nơi công cộng
chưa đáp ứng được yêu cầu của một thành phố văn minh, sạch đẹp. Chất thải rắn sinh
hoạt và xà bần được chôn lấp tại 3 bãi rác: Phước Hiệp, Gò Cát và Đông Thạnh. Chất
thải rắn công nghiệp và chất thải rắn nguy hại chưa được thu gom triệt để và chưa được
xử lý thích hợp.
3.3.6 Tình hình khai thác cát
Trong những năm trước đây, việc quản lý các hoạt động khai thác cát còn nhiều
hạn chế đã dẫn đến tình trạng các công ty khai thác hoạt động không theo đúng thiết
kế, khai thác quá độ sâu, quá gần bờ gây những hậu quả nghiêm trọng về môi trường.
Theo quyết định số 2611/UB-CNN ngày 01 tháng 8 năm 2001 của Ủy ban nhân dân
thành phố, hoạt động khai thác cát đã bị đình chỉ trên các tuyến sông rạch thuộc địa
bàn thành phố. Hiện chỉ có hoạt động nạo vét khơi thông luồng hàng hải trên một số
đoạn sông có kết hợp tận thu cát. Tuy nhiên, hiện nay còn tồn tại hiện tượng khai thác
cát trái phép diễn ra hết sức phức tạp: các xáng cạp nạo vét không đúng vị trí khu vực
được phép nạo vét, nạo vét quá độ sâu; một số đơn vị tổ chức thi công xây dựng duy
tu cảng không có thông báo và đăng ký; hoạt động bơm hút cát trái phép trên các
sông rạch
3.3.7 Tình hình lún và động đất
a. Lún đất
Công tác nghiên cứu lún mặt đất chưa được tiến hành có hệ thống. Mặc dù vậy,
đã có một số báo cáo khoa học đề cập đến tình trạng lún đất do xây dựng các công
trình dân dụng và do khai thác nước. Hiện nay trên địa bàn thành phố (vùng nội
thành) đã xuất hiện một phễu hạ thấp mực nước với diện phân bố gần 400km
2
. Ngoài
ra, cũng đã phát hiện thấy một số giếng khoan thuộc quận 6, 8, Bình Tân, Bình Chánh
có hiện tượng lún. Vấn đề lún đất do khai thác nước dưới đất cần phải được tiếp tục
nghiên cứu thêm. Xuất phát từ thực tế trên, từ năm 2005 Ủy ban nhân dân thành phố
đã triển khai Đề án “Xây dựng trạm quan trắc lún đất do khai thác nước dưới đất

vùng phía Nam TP. Hồ Chí Minh”.
b. Động đất
Theo các kết quả nghiên cứu khoa học, động đất cực đại khu vực thành phố Hồ
Chí Minh có thể xảy ra từ 5-6 độ Ritchter với độ sâu tâm chấn từ 10-15km; kết hợp
với đặc điểm địa chất công trình thì chấn động có thể đạt cấp VII-VIII. Các nhà khoa
học cho rằng các đới đứt gãy phương Tây Bắc-Đông Nam, Sài Gòn-Vàm Cỏ Đông và
đới đứt gãy phương kinh tuyến Lộc Ninh-Thủ Dầu Một-thành phố Hồ Chí Minh là
các đứt gãy có khả năng sinh chấn.
4. Nhận xét chung:
4.1. Những thuận lợi, lợi thế
- Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, một khu vực có tốc độ phát triển
kinh tế cao và năng động hàng đầu thế giới. Với vị trí địa lý của mình và lợi thế phát triển so với cả
nước, Thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển thành một đô thị hiện đại
ngang tầm với các nước trong khu vực.
- Là trung tâm khu vực Nam bộ, trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
khu vực kinh tế phát triển nhất và hiệu quả nhất cả nước, với hệ thống giao thông
huyết mạch, Thành phố Hồ Chí Minh có đủ điều kiện để phát triển các loại hình dịch
vụ cao cấp như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ khoa học, viễn thông, cảng,
vận tải, hậu cần... cho toàn vùng và khu vực.
- Hệ thống sông rạch tự nhiên phong phú góp phần làm giàu cảnh quan và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc bố trí hệ thống tiêu thoát nước đô thị.
- Địa hình, địa mạo tương đối bằng phẳng, quỹ đất đai còn có khả năng đáp
ứng cho nhu cầu phát triển đô thị trong tương lai.
- Đặc điểm khí hậu ôn hòa, ít chịu của thiên tai bão lụt của Thành phố Hồ Chí
Minh thuận lợi cho môi trường sống dân cư.
4.2. Những khó khăn, hạn chế:
- Lượng mưa phân bố không đều trong các mùa đã ảnh hưởng lớn đến lưu
lượng dòng chảy, xâm mặn... gây khó khăn trong công tác cấp thoát nước và ảnh
hưởng tới nông nghiệp.
- Phần diện tích thấp, trũng có độ cao dưới 2 m và diện tích mặt nước chiếm

đến 61% diện tích tự nhiên Thành phố lại nằm trong vùng có nền địa chất yếu đòi hỏi
chi phí cao trong việc đầu tư xây dựng công trình.
- Nhìn chung, đất cho sản xuất nông nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh thuộc loại trung bình và
xấu so với Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Để tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
lớn, cần phải có sự đầu tư, cải tạo đất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với quá trình đô thị
hóa.
- Tuy Thành phố rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường với nhiều chương
trình, dự án nghiên cứu, đánh giá tác động và đề xuất giải pháp xử lý giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nhưng nhìn chung mức độ ô nhiễm môi trường vẫn còn ở mức khá
cao.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tăng trưởng kinh tế
1.1. Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng ngày càng cao
Thành phố đặt mục tiêu cho giai đoạn 2001 - 2005 tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm nội địa (GDP) cao hơn giai đoạn 5 năm trước, với mức tăng bình quân là
11%/năm.
Kết quả tăng trưởng kinh tế 5 năm 2001- 2005 cho thấy Thành phố đã đạt được
mục tiêu tăng trưởng đề ra, đạt mức bình quân 11%/năm, cao hơn tốc độ tăng
10,3%/năm của giai đoạn 1996 - 2000.
Nét nổi bật là tốc độ tăng trưởng GDP trong những năm qua ngày càng cao,
năm sau cao hơn năm trước (năm 2005 ước đạt 12,2%, năm 2004 đạt 11,6%; năm
2003 đạt 11,4%; năm 2002 đạt 10,2%; năm 2001 đạt 9,5% và năm 2000 đạt 9,0%).
Về giá trị tuyệt đối, trong năm 2005, GDP của thành phố theo giá hiện hành ước đạt
164 nghìn tỷ đồng (tương ứng với 10,4 tỷ USD).
1.2. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn
Kinh tế trên địa bàn Thành phố chủ yếu dựa vào 2 khu vực công nghiệp –
xây dựng và dịch vụ - thương mại:
- Khu vực công nghiệp - xây dựng luôn có tốc độ tăng giá trị gia tăng nhanh
nhất, bình quân giai đoạn 2001-2005 là 12,6%/năm (kế hoạch đề ra là 13%);
- Khu vực dịch vụ - thương mại với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình

quân là 9,8%/năm (kế hoạch đề ra là 9,5%);
- Khu vực nông nghiệp (bao gồm nông lâm nghiệp và thủy sản) có tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân 3,5%/năm (kế hoạch đề ra là 2%).
Với tốc độ tăng trưởng như vậy, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp
tục diễn ra theo xu hướng như giai đoạn 1996-2000, tức là khu vực công nghiệp có
tỷ trọng tăng dần trong cơ cấu GDP của Thành phố.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nếu cơ cấu kinh tế Thành phố năm 2000 là: nông nghiệp (khu vực I) 2,0%, công
nghiệp (khu vực II) 45,4%, dịch vụ (khu vực III) là 52,6%. So với mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Thành phố đến 2005 là: Nông nghiệp 1,4%; công nghiệp 48,8%; dịch vụ
49,8%. Nghĩa là cơ cấu kinh tế Thành phố xét về tỷ trọng thứ tự vẫn là dịch vụ- công
nghiệp - nông nghiệp; trong đó khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Thực tế tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh trong 10 năm qua, tỷ trọng khu vực công nghiệp
ngày càng tăng do có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 3 khu vực và diễn biến này cũng
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của Thành phố đang trong giai đoạn công
nghiệp hóa nhanh.
Đến cuối năm 2005, trong cơ cấu GDP của Thành phố tỷ trọng khu vực I:
1,7%; khu vực II (công nghiệp - xây dựng): 47,5% và khu vực III (dịch vụ): 50,8%.
Những kết quả đạt được phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành
phố; đặc biệt, khu vực dịch vụ đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn kế hoạch
đề ra.
2.1. Khu vực dịch vụ
Nét nổi bật trong cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005
là các ngành của khu vực dịch vụ đã bắt đầu phát triển khởi sắc. Tuy vậy các ngành
dịch vụ cao cấp vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ và hầu như không có sự thay đổi
trong suốt thời qua. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,8%/năm so với 8,4%/năm
của giai đoạn 1996-2000. Một điểm đáng lưu ý là tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn
năm trước, từ 7,0% năm 2000 tăng lên 7,4% năm 2001, 9,3% năm 2002, 9,4% năm
2003, 11,1% năm 2004 và 12% năm 2005.
Xét về cơ cấu nội bộ các ngành dịch vụ, nhận thấy:

Các loại hình dịch vụ cao cấp: tài chính - ngân hàng, tín dụng bảo hiểm, viễn
thông, công nghệ thông tin và truyền thông có tốc độ phát triển rất cao (12,2 % năm
2001, 28,6 % năm 2002, 20,0% năm 2003, 18,7% năm 2004, và trên 20% năm 2005)
nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng khá thấp. Thành phố Hồ Chí Minh khó có thể chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ khi mà các dịch vụ cao cấp
này chưa có sự phát triển mang tính đột phá.
Dịch vụ vận tải, kho bãi, cảng... chưa thực sự phát huy hết tác dụng và thực đạt đến trình độ
tương xứng của một trung tâm lớn hiện nay. Tốc độ tăng trưởng các năm qua: 10,6% năm 2001,
12,8% năm 2002, 10,9% năm 2003, 9,4% năm 2004 và năm 2005 - 8%.
Dịch vụ thương mại nay đang trên đà phục hồi sau ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế khu vực, (tăng 7,0% năm 2002, 9,4% năm 2003, 10,3% năm 2004 và năm 2005 -
11,6%); thị trường nội địa phát triển ổn định, hàng hóa phong phú, đa dạng, nhiều sản
phẩm của Thành phố đã chiếm lĩnh được thị trường, giành được thị phần vững chắc; cơ
sở vật chất, hạ tầng ngành thương mại đã được quan tâm đầu tư xây dựng, bước đầu phát
huy tác dụng, góp phần tăng cường vai trò, vị trí trung tâm, đầu mối của Thành phố
trong điều phối, cung ứng hàng hóa trong khu vực và ra nước ngoài qua nhiều kênh phân
phối đa dạng và ngày càng lớn mạnh.
Xuất khẩu đã bước đầu cho thấy việc chuyển hướng chú trọng vào tinh chế,
tăng giá trị, hàm lượng công nghệ, chuyển dần sản xuất gia công, chế biến thô về
vùng nguyên liệu (khảo sát hai ngành dệt may và giày dép cho thấy tỷ trọng gia công
trong xuất khẩu liên tục giảm qua các năm 2001-2005: dệt may giảm từ 78,8% xuống
còn 73,4%; giày dép giảm từ 52,6% xuống còn 35,8%).
Các loại dịch vụ khác như du lịch, giáo dục, y tế... cũng tăng trưởng cao, với
tốc độ tăng bình quân hơn 10%/năm trong 5 năm qua. Đây là những loại hình mà
Thành phố thật sự có thế mạnh để phát triển phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế sang các loại hình dịch vụ hiện đại.
2.2. Khu vực công nghiệp - xây dựng
Trong 5 năm 2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân
trên 15%/năm, chiếm tỉ trọng gần 30% so với công nghiệp cả nước. Tỷ trọng của công
nghiệp chế biến trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2001-2005 có tăng lên nhưng không đáng kể (96,2% năm 2001 lên
khoảng 97,2% năm 2005). Điều này cho thấy công nghiệp thành phố mới đạt được sự
thay đổi về số lượng và còn chậm thay đổi về chất lượng. Những ngành có tỉ trọng lớn
vẫn là những ngành thâm dụng lao động và hàm lượng giá trị gia tăng thấp; 4 lĩnh vực
có hàm lượng chất xám cao mà Thành phố chọn làm “mũi nhọn” (điện tử, công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) chưa có sự phát triển vượt trội so với các
ngành khác.
Ngành cơ khí chế tạo rất yếu kém, không làm được vai trò chủ đạo trong đổi
mới thiết bị, do vậy hầu hết thiết bị mới đều phải nhập khẩu.
Đầu tư thiếu tầm nhìn dài hạn đã làm cho nhiều doanh nghiệp đầu tư không đúng nhu cầu. Trong
công nghiệp thiếu các “nhạc trưởng” của từng lĩnh vực; mạnh ai nấy làm, nên xảy ra tình trạng nhập trùng
lắp, cạnh tranh dìm lẫn nhau không cần thiết. Trong khi đó thị trường còn bỏ ngỏ để hàng ngoại nhập
chiếm lĩnh.
Trong lĩnh vực xây dựng, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt bình quân
11,86% trong giai đoạn 2001 – 2005. Tuy tốc độ có chậm hơn các ngành công
nghiệp, nhưng vẫn cao hơn tốc độ của giai đoạn 1996 – 2000, chỉ đạt dưới 10%.
2.3. Khu vực nông nghiệp
Trong cơ cấu GDP, khu vực nông nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỉ trọng
ngành thủy sản và chăn nuôi, giảm tỉ trọng ngành trồng trọt. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp như
sau: chăn nuôi 32,3%, thủy sản 29,5%, trồng trọt 27,9%, dịch vụ nông nghiệp 8%, lâm nghiệp 2,3%.
Điểm nổi bật trong 5 năm qua là sự chuyển dịch mạnh sản xuất nông nghiệp theo mô hình sản xuất
hiệu quả hơn đối với quỹ đất nông nghiệp với sự phát triển của các ngành chăn nuôi, thủy sản, cây
kiểng, cá kiểng ...
3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
3.1. Khu vực kinh tế công nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước. Năm
2004 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 101.962 tỷ đồng, tăng 15,07% so với năm
2003 (giá cố định 1994), chiếm 28,8% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước và
chiếm 59,32% giá trị sản xuất công nghiệp vùng Đông Nam bộ.
Năm 2004, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 35.096 cơ sở sản xuất công

nghiệp, trong đó: 217 cơ sở sản xuất công nghiệp Nhà nước; 75 cơ sở sản xuất công
nghiệp tập thể; 3.335 cơ sở sản xuất công nghiệp tư nhân; 30.891 cơ sở sản xuất công
nghiệp cá thể và 578 cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong giai đoạn vừa qua, công nghiệp Thành phố mới đạt được sự thay đổi
về lượng và còn chậm thay đổi về chất. Những ngành có tỷ trọng lớn vẫn là những
ngành thâm dụng lao động, còn những ngành có hàm lượng chất xám cao (điện tử,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) tuy có tăng nhưng vẫn
còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
Cụ thể là, công nghiệp trên địa bàn Thành phố tập trung chủ yếu là các
ngành: chế biến thực phẩm và đồ uống (19,4%), nhựa-cao su (8,8%), hoá chất
(8,3%), may mặc (7,5%), giày da (7,1%), dệt (5,0%), máy móc-thiết bị điện
(5,0%). Trong nhóm công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm và đồ uống có
tỷ trọng cao (chiếm 13,9%). Trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp theo thành
phần kinh tế, công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn.
Tổng cộng có 15 khu công nghiệp tập trung đã hoạt động (gồm 12 khu công
nghiệp, 03 khu chế xuất), đến nay đã triển khai đạt 2.752 ha.
Ngoài các khu công nghiệp - khu chế xuất, trên địa bàn Thành phố đã hình
thành nhiều cụm công nghiệp – làng nghề được quy hoạch và xây dựng theo Quyết
định phê duyệt của Ủy ban nhân dân Thành phố nằm trong quy hoạch chung các quận
huyện, với diện tích khoảng 940 ha (48 cụm, trong đó 36 cụm công nghiệp - làng
nghề đã đi vào hoạt động ). Theo thống kê, diện tích lấp đầy khoảng 224,3 ha đạt
23,8% so với quy hoạch đợt đầu.
Ngành nghề phát triển chủ yếu ở các khu cụm công nghiệp do các quận huyện
quản lý là cơ khí (chiếm khoảng 23,7% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động), dệt, da,
may (khoảng 26,9%), hoá chất, nhựa, cao su (khoảng 13,3%), giấy, gỗ (khoảng 14%),
chế biến thực phẩm (khoảng 6,5%)…
Một số cụm công nghiệp bố trí xen cài trong các khu dân cư, đầu tư cơ sở hạ tầng không đồng
bộ. Giữa khu sản xuất và khu dân cư không có khoảng cách ly để đảm bảo về vệ sinh, môi trường, an
ninh, trật tự xã hội. Việc phát triển, xây dựng nhà ở sát các khu vực tập trung các xí nghiệp sản xuất
công nghiệp là nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng đến đời sống dân cư.

Các khu công nghiệp – chế xuất tập trung trên địa bàn Thành phố phần lớn là
các khu công nghiệp tổng hợp, chưa phân định rõ ngành nghề chủ đạo khó kiểm soát
chất lượng môi trường.
Định hướng quy hoạch xây dựng công nghiệp trong quy hoạch chung của Thành phố đến năm
2020 theo quyết định 123/1998/TTg chưa quan tâm đến việc bố trí các khu công nghiệp gắn với các
khu dân cư, đặc biệt dân cư nông thôn nhằm thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn. Chính sách giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân các khu công
nghiệp chưa đồng bộ. Đặc biệt chương trình di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm trong nội
thành vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung đã làm phát sinh thêm nhu cầu sử dụng
đất tại các nơi này.
Ngành xây dựng
Giá trị sản xuất và GDP của ngành xây dựng liên tục tăng trong giai đoạn
2001 - 2004, năm năm 2001 đạt 12.497 tỷ đồng, năm 2002 đạt 17.866,4 tỷ đồng,
năm 2003 đạt 21.282 tỷ đồng và đến năm 2004 đạt 23.436,2 tỷ đồng (giá thực tế);

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×