Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quản trị tài chính công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.29 KB, 99 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***






KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CÔNG TY ĐA QUỐC
GIA


Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Như Thi
Lớp : Pháp 2
Khoá : 43F
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thuý Anh



Hà Nội, 06/2008


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA 4
I. Tổng quan về quản trị tài chính doanh nghiệp 4
1. Tài chính doanh nghiệp 4
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp 5
2.1 Đối tượng của quản trị tài chính doanh nghiệp 5
2.2 Vai trò của quản trị tài chính 7
2.3 Nội dung của quản trị tài chính 8
2.3.1 Quyết định đầu tư 9
2.3.2 Quyết định tài trợ 11
2.3.3 Quyết định tài chính ngắn hạn 14
II. Tổng quan về công ty đa quốc gia 16
1. Khái niệm 16
2. Đặc điểm của công ty đa quốc gia 17
2.1 Phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia 17
2.2 Các công ty đa quốc gia khác nhau có những động lực phát triển
khác nhau 18
2.3 Các công ty đa quốc gia luôn tận dụng cơ chế chuyển giao nội bộ để
thu lợi nhuận nhiều hơn 20
III. Quản trị tài chính công ty đa quốc gia 21
1. Vai trò của quản trị tài chính công ty đa quốc gia 21
2. Nội dung quản trị tài chính công ty đa quốc gia 23
2.1 Quyết định đầu tư 23
2.2 Quyết định tài trợ 27
2.3 Quyết định tài chính ngắn hạn 30


CHƯƠNG II: THỰC TIỄN QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CỦA MỘT SỐ
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH TRÊN THẾ GIỚI 39

I. Khái quát chung 39
1. Sự phát triển của mô hình công ty đa quốc gia 39
2. Các công ty đa quốc gia gắn liền với quá trình toàn cầu hóa 41
II. Kinh nghiệm quản trị tài chính của một số công ty đa quốc gia điển
hình trên thế giới 44
1. Kinh nghiệm của các công ty Nhật Bản trong việc ra quyết định đầu tư
44
1.1 Đầu tư chú trọng vào chất lượng sản phẩm 44
1.2 Phát triển các hình thức tổ chức mới 44
1.3 Thâm nhập thị trường, tận dụng hiệu quả kinh tế theo quy mô và
chiều sâu 45
1.4 Linh hoạt trong lựa chọn địa điểm đầu tư 48
1.5 Xác định yếu tố cốt lõi trong các lĩnh vực đầu tư 49
1.6 Bài học rút ra 50
2. Kinh nghiệm của Nestlé và Novo Industri trong việc ra quyết định tài
trợ 52
2.1 Nestlé 52
2.1.1 Kiểm soát tài chính tập trung 53
2.1.2 Bài học rút ra 54
2.2 Novo Industri 55
2.2.1 Phát hành chứng khoán ở thị trường nước ngoài 55
2.2.2 Bài học rút ra 57
3. Kinh nghiệm của American Express trong việc ra quyết định tài chính
ngắn hạn 58
3.1 Phát triển hệ thống quản trị tiền tệ quốc tế với chi phí thấp 58
3.2 Kiểm soát những rủi ro trong quản trị tiền tệ 60


3.3 Bài học rút ra 61
4. Kinh nghiệm của Kodak, Rolls-Royce và Avon trong việc quản trị rủi

ro tài chính 62
4.1 Kodak đối phó với những biến động tiền tệ 62
4.2 Công ty Rolls-Royce 63
4.3 Avon với quyết định thu hẹp sản xuất tại châu Á 65
4.3.1 Giảm thiểu rủi ro tiền tệ và điều chỉnh về chiến lược kinh doanh
để đối phó với khủng hoảng tiền tệ 66
4.3.2 Những bài học về quản trị rủi ro tài chính 67
CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG ÁP DỤNG KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM 70
I. Thực trạng quản trị tài chính của doanh nghiệp Việt Nam 70
1. Tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung 70
2. Tình hình phát triển của các tập đoàn kinh tế Việt Nam 72
2.1 Thực trạng khung pháp luật đối với quản trị doanh nghiệp 74
2.2 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của
quản trị tài chính 76
2.3 Đào tạo nhân lực tài chính chưa đáp ứng được nhu cầu 77
II. Khả năng áp dụng 79
1. Dự báo sự phát triển của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam 79
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng áp dụng kinh nghiệm
QTTC của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam 80
2.1 Nhóm giải pháp chung 80
2.1.1 Tổ chức bộ phận quản trị tài chính doanh nghiệp theo một cơ cấu
thống nhất 80
2.1.2 Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tài chính-kế toán 82
2.1.3 Tiếp cận mục tiêu QTTC một cách phù hợp 83



2.2 Nhóm giải pháp liên quan quyết định đầu tư 84
2.2.1 Thẩm định dự án trước khi đưa ra quyết định đầu tư 84

2.2.2 Xác định lãi suất chiết khấu thích hợp khi đánh giá dự án 85
2.2.3 Tính đến chi phí cơ hội khi lựa chọn dự án đầu tư 85
2.3 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài trợ 85
2.3.1 Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp 85
2.3.2 Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả 88
2.4 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài chính ngắn hạn 88
2.5 Nhóm giải pháp liên quan quản trị rủi ro 89
2.5.1 Giữ tỷ lệ vốn nợ trong cơ cấu vốn ở mức thích hợp 89
2.5.2 Trích lập các quỹ dự phòng sự biến động lãi suất trên thị trường 91
KẾT LUẬN 92
1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hóa và cùng với
nó là sự phát triển không ngừng của mô hình công ty đa quốc gia
(Multinational Corporation) – những công ty tiến hành một số dạng kinh
doanh quốc tế. Ban đầu các công ty thường chỉ cố gắng xuất khẩu sản phẩm
sang một số nước nhất định hoặc nhập khẩu các yếu tố từ một nhà sản xuất
nước ngoài. Tuy nhiên theo thời gian nhiều công ty nhận thức được những cơ
hội khác từ nước ngoài và cuối cùng thiết lập các công ty con ở nước ngoài.
Một số công ty như Dow Chemical, Exxon, American Brands & Colgate -
Palmolive đã thực hiện hơn một nửa doanh số của họ ở nước ngoài.
Nhắc đến công ty đa quốc gia và sự phát triển nhanh chóng của chúng,
người ta thường nhắc đến sự đa dạng và thay đổi trên phạm vi quốc tế. Nhà
quản trị của công ty đa quốc gia là người phải kết hợp sự đa dạng và dự đoán
những thay đổi đó để tạo nên giá trị tổng thể cao nhất. Chính vì thế hoạt động
quản trị trong các công ty đa quốc gia là nhân tố quyết định thành công của
nó. Trong đó quản trị tài chính được coi là quan trọng nhất bởi vì hệ thống tài

chính quốc tế chứa đựng trong nó sự phức tạp và những biến động khôn
lường. Tại các công ty này, nhà quản trị tài chính của chúng sử dụng những
chiến lược trên phạm vi quốc tế. Vấn đề được quan tâm không phải là tỷ giá
lãi suất ở một quốc gia, không phải là những rủi ro ở thị trường trong nước.
Mà đó là tỷ giá hối đoái thường xuyên thay đổi, sự khác nhau về tỷ lệ lạm
phát, hệ thống thuế, các thị trường đa tiền tệ, các kiểm soát ngoại hối, các thị
trường vốn được phân đoạn và những rủi ro chính trị như sự quốc hữu hóa
hoặc sung công.
Trước xu thế đó, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển mình,
phát triển và hội nhập. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách phù
2

hợp, nhằm tạo hành lang và môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, những loại hình công ty mới ra đời đã phần nào làm cho kinh tế
Việt Nam càng thêm sôi động và phát triển. Theo xu thế cạnh tranh và hội
nhập quốc tế, chắc chắn rằng không lâu nữa loại hình công ty đa quốc gia mà
công ty mẹ nằm ở lãnh thổ Việt Nam và các công ty con hoạt động ở các
nước trên thế giới sẽ hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển
kinh tế.
Chính vì thế em đã chọn đề tài “Quản trị tài chính trong các công ty đa
quốc gia” nhằm tìm hiểu các vấn đề lý thuyết liên quan đến quản trị tài chính
công ty đa quốc gia, nghiên cứu kinh nghiệm của một số mô hình công ty đa
quốc gia điển hình trên thế giới thông qua phân tích một số trường hợp cụ thể
và từ đó rút ra những bài học để tiếp thu và áp dụng tại các doanh nghiệp Việt
Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là:
- Tìm hiểu các vấn đề lý thuyết liên quan đến quản trị tài chính công ty
đa quốc gia;
- Nghiên cứu kinh nghiệm về quản trị tài chính của một số công ty đa

quốc gia điển hình và rút ra bài học;
- Nghiên cứu khả năng áp dụng kinh nghiệm quản trị tài chính của các
công ty đa quốc gia tại các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các tập đoàn
kinh tế Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động quản trị tài chính
của các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý thuyết liên
quan đến quản trị tài chính, công ty đa quốc gia, quản trị tài chính trong các
công ty đa quốc gia và thực tiễn quản trị tài chính ở một số công ty đa quốc
gia cụ thể.
3

4. Phạm vi nghiên cứu
Quản trị tài chính bản thân nó đã bao gồm rất nhiều vấn đề cần nghiên
cứu, quản trị tài chính trong các công ty đa quốc gia lại càng phức tạp hơn do
đặc thù mang tính quốc tế đa dạng của các công ty đa quốc gia. Chính vì thế
trong phạm vi khóa luận này tác giả chỉ nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ
bản nhất bao gồm: quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, quyết định tài chính
ngắn hạn và quản trị rủi ro tài chính.
Trong phần tìm hiểu kinh nghiệm của một số công ty đa quốc gia trên
thế giới, khóa luận sẽ nghiên cứu một số trường hợp điển hình minh hoạ cho
nội dung lý thuyết nhằm nghiên cứu khả năng áp dụng tại các tập đoàn kinh tế
của Việt Nam.
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khoá luận
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản trị tài chính đối với công ty đa
quốc gia
Chương 2: Thực tiễn quản trị tài chính của một số công ty đa quốc gia
điển hình trên thế giới

Chương 3: Khả năng áp dụng kinh nghiệm quản trị tài chính của công
ty đa quốc gia tại Việt Nam.






4

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
I. Tổng quan về quản trị tài chính doanh nghiệp
1. Tài chính doanh nghiệp
Tài chính là cách thức mà các chủ thể kinh tế huy động, sử dụng, phân
phối các quỹ tiền tệ có tính đến yếu tố thời gian và rủi ronhằm đáp ứng yêu
cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế.
1

Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng,
chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của
nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là những hoạt động hỗn loạn mà ngược
lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó
những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một
bộ phận riêng. Tài chính bao gồm tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp
và tài chính cá nhân. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng
buộc lẫn nhau. Chúng cùng hoạt động trong một môi trường gọi là thị trường
tài chính. Bên cạnh mối liên hệ trực tiếp, các bộ phận này còn liên hệ gián
tiếp với nhau thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Các bộ phận khác
nhau của tài chính và mối quan hệ tổng hòa của chúng tạo thành hệ thống tài

chính. Hệ thống tài chính bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước;
- Tài chính doanh nghiệp;
- Thị trường tài chính và tổ chức tài chính trung gian;
- Tài chính cá nhân.
Như vây, tài chính doanh nghiệp là một bộ phận trong hệ thống tài
chính, tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút


1
TS. Nguyễn Hữu Tài (2006), Giáo trình Lý thuyết Tài chính-tiền tệ, NXB Thống kê
5

trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Từ khái niệm tài
chính nói trên có thể rút ra khái niệm về tài chính doanh nghiệp là cách thức
mà các doanh doanh nghiệp huy động, sử dụng và phân phối các quỹ tiền tệ
có tính đến yếu tố thời gian và rủi ro nhằm thỏa mãn mục tiêu tối đa hóa giá
trị doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã
hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp
có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá
trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau, quá trình kinh
doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Mỗi quan hệ đều có những
nét khác biệt và có những tác động khác nhau đến tài chính doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính
doanh nghiệp thể hiện ở chỗ: nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành
theo cơ chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà
nguồn tài chính được tăng cường và mở rộng không ngừng, đáp ứng tốt nhất
nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tài chính doanh nghiệp là một lĩnh vực đặc biệt của ngành tài chính.
Nó liên quan đến việc đưa ra các quyết định về mặt tài chính của một doanh

nghiệp, các công cụ cũng như những phân tích được sử dụng để đưa ra các
quyết định này. Mục đích chủ yếu của tài chính doanh nghiệp là nhằm nâng
cao giá trị doanh nghiệp đồng thời tránh được các rủi ro đáng tiếc về mặt tài
chính.
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp
2.1 Đối tượng của quản trị tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp liên quan mật thiết với quản trị tài chính doanh
nghiệp. Quản trị tài chính doanh nghiệp là quá trình ra quyết định và triển
khai các quyết định liên quan đến tài chính doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối
đa hóa giá trị doanh nghiệp. Quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm đến
6

mọi mặt của hoạt động tài chính trong một doanh nghiệp như quyết định đầu
tư, quyết định về vốn đầu tư, đánh giá các cơ hội đầu tư.
Đối tượng của quản trị tài chính bao gồm hàng loạt những chức năng
rộng lớn trong các đơn vị kinh doanh. Quản trị tài chính phải giúp doanh
nghiệp trả lời được các câu hỏi như: Doanh nghiệp cần phải huy động tiền cho
đầu tư như thế nào, ở đâu và vào thời điểm nào? Đầu tư vào lĩnh vực nào, dài
hạn hay ngắn hạn, lợi nhuận làm ra có xứng đáng không?
Những câu hỏi này chỉ có thể được trả lời một cách chuẩn xác sau khi
phân tích một khối lượng lớn những thông tin mới nhất, cả ở bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp. Do đó công việc hàng ngày của Giám đốc tài chính gồm
rất nhiều nhiệm vụ như: dự báo tài chính, định lượng hiệu quả của những
nguồn ngân quỹ huy động trên thị trường vốn, đánh giá hiệu quả tiềm tàng
của các dự án đầu tư, phân tích các cơ hội thuê tài sản. Đồng thời đánh giá
chính sách phân chia lợi tức cổ phần và cơ cấu vốn đầu tư; phân tích các chiến
lược định giá và ảnh hưởng của chúng tới doanh số và lợi nhuận
Bởi vậy, các nhà quản trị tài chính phải thông thạo, hiểu rõ về các thị
trường tài chính và có khả năng thu thập, xử lý những thông tin mới nhất. Mọi
quyết định tài chính đều phải dựa trên cơ sở những thông tin thị trường được

thu thập xử lý theo một phương pháp nào đó. Chẳng hạn khi quyết định huy
động thêm nguồn ngân quỹ mới, đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích nhiều
nguồn tài trợ khác nhau để lựa chọn. Thêm vào đó, thay vì đi vay ngân hàng,
doanh nghiệp có thể huy động nguồn tài chính bằng cách bán ra những chứng
khoán mới. Nhưng nên phát hành loại chứng khoán nào? Công ty nên bán trái
phiếu dài hạn hay ngắn hạn? Nên phát hành cổ phần ưu đãi hay cổ phần
thường? Tất cả những câu hỏi này phải được trả lời bằng những thông tin có
thể thu thập được.
7

2.2 Vai trò của quản trị tài chính
Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh là một trong những điều
kiện tiên quyết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách
nhịp nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Sự lành mạnh đó có được hay không
phụ thuộc phần lớn vào khả năng quản trị tài chính của doanh nghiệp.
Ở nhiều nước như Mỹ và châu Âu, trong các công ty, tập đoàn kinh tế
lớn như General Motor, Microsoft, Apple, Vodaphone, quản trị tài chính
được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Tại các hãng này, quản trị tài
chính là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính và đưa ra những
quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Bộ
phận quản trị tài chính trong các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu dựa vào các
báo cáo kế toán, báo cáo doanh thu, chi phí, báo cáo nhân sự và tiền lương,
do các bộ phận kế toán tài chính, kế toán quản trị, thống kê cung cấp, kết hợp
với những yếu tố khách quan để tiến hành phân loại, tổng, hợp, phân tích và
đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, so sánh kết quả phân loại của
kỳ này với kỳ trước của doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp cùng
ngành, lĩnh vực sản xuất, so sánh với các chuẩn mực của ngành. Bằng các chỉ
tiêu và sự nhạy bén mà bộ phận quản trị tài chính có thể chỉ ra những mặt
mạnh cũng như những thiếu sót của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài ra, bộ phận
quản trị tài chính còn giúp giám đốc hoạch định chiến lược tài chính ngắn và

dài hạn của doanh nghiệp dựa trên sự đánh giá tổng quát cũng như từng khía
cạnh cụ thể các nhân tố tài chính có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn tại của
doanh nghiệp, bao gồm: chiến lược tham gia vào thị trường tiền tệ, thị trường
vốn, thị trường chứng khoán; xác định chiến lược tài chính cho các chương
trình, các dự án của doanh nghiệp là mở rộng hay thu hẹp sản xuất Thông
qua đó, đánh giá, dự đoán có hiệu quả các dự án đầu tư, các hoạt động liên
doanh liên kết, phát hiện âm mưu thôn tính doanh nghiệp của các đối tác cạnh
tranh; đề xuất phương án chia tách hay sáp nhập Nhu cầu vốn sản xuất kinh
8

doanh của doanh nghiệp luôn có những biến động nhất định trong từng thời
kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính là
xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn sử dụng sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất:
- Quản trị tài chính trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa
ra một cơ cấu nguồn vốn huy động tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Quản trị tài chính trong doanh nghiệp còn có nhiệm vụ kiểm soát việc
sử dụng cả các tài sản trong doanh nghiệp, tránh tình trạng sử dụng lãng phí,
sai mục đích.
- Quản trị tài chính phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận
một cách hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ
doanh nghiệp và các cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho
người lao động; xác định phần lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn
quan trọng cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư
vào những lĩnh vực kinh doanh mới, sản phẩm mới, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.
Có thể nói, nhiệm vụ của bộ phận quản trị tài chính, bộ não của doanh
nghiệp, rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với bộ phận kế toán - thống kê.
Người đứng đầu bộ phận quan trọng này được gọi là giám đốc tài chính
(CFO). Trong các tập đoàn kinh tế đa quốc gia trên thế giới, giám đốc tài
chính chịu trách nhiệm toàn bộ về mặt tài chính kế toán trước tổng giám đốc

và quản trị tài chính là bộ phận chức năng quan trọng nhất trong các bộ phận
chức năng của doanh nghiệp.
2.3 Nội dung của quản trị tài chính
Quản trị tài chính quan tâm đến việc đầu tư, mua sắm, tài trợ và quản lý
tài sản doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Qua
định nghĩa này có thể thấy quản trị tài chính liên quan đến 3 loại quyết định
chính: quyết định đầu tư, tài trợ và quản lý tài sản.
9

2.3.1 Quyết định đầu tư
Quyết định đầu tư là một trong những quyết định tài chính quan trọng
vì sai lầm không thể sửa chữa được cho nên trước khi quyết định các nhà
quản trị cần phải đánh giá kĩ lưỡng và đúng đắn các cơ hội đầu tư thông qua
việc thẩm định các dự án đầu tư.
Nội dung của quyết định đầu tư thường gồm các bước như sau:
- Đề xuất dự án đầu tư
Đây là bước đầu tiên trong quy trình để đưa ra một quyết định đầu tư.
Đề xuất dự án đầu tư không chỉ do nhà quản trị tài chính mà nó phải là quyết
định chung của nhà quản trị doanh nghiệp. Bởi vì trước khi đưa ra một đề
xuất dự án các nhà quản trị phải dựa vào các nghiên cứu về thị trường, về
khách hàng, về nguồn cung cấp hàng Các ý tưởng về những dự án đầu tư có
thể xuất phát từ rất nhiều nguồn trong doanh nghiệp như: từ bộ phận
marketing, bộ phận kế hoạch, bộ phận R&D hay từ những người bán hàng do
họ thường xuyên tiếp xúc với người tiêu dùng và hiểu được mức cầu của thị
trường đối với từng sản phẩm cụ thể. Tuy nhiên để duy trì tính cạnh tranh, các
doanh nghiệp cần phải tìm những dòng tư duy mới về các dự án đầu tư. Do
đó, nhiều doanh nhgieepj thường bổ nhiệm một số người chuyên đảm nhiệm
việc theo dõi và giải quyết những công việc này.
- Xác định dòng tiền của dự án
Sau khi có đề xuất một dự án, nhà quản trị tài chính phải là người xác

định các dòng tiền của dự án, đó chính là các dòng tiền kỳ vọng. Dòng tiền
của dự án bao gồm các dòng tiền vào và các dòng tiền ra. Nhà quản trị tài
chính phải biết với khoản tiền đầu tư ban đầu, dự án đó sẽ tạo ra dòng tiền vào
là bao nhiêu. Hay nói cách khác là phải ước tính được lợi nhuận và chi phí
của nó. Và muốn xác định dòng tiền của dự án nhà quản trị phải xác định lãi
suất chiết khấu.

10

- Xác định lãi suất chiết khấu
Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng để xác định giá trị hiện tại của dòng lưu
kim kỳ vọng tương lai phải tương xứng với mức độ rủi ro của dự án đầu tư.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu riêng của từng dự án là một công việc rất
khó khăn nhưng cần hiểu rằng tỷ lệ chiết khấu phải là phần lợi nhuận thích
hợp trả cho rủi ro. Rõ ràng là, khi rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của
doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án, thì tỷ
lệ chiết khấu thích hợp bằng tỷ lệ WACC (chi phí vốn trung bình trọng) của
doanh nghiệp.
- Thẩm định dự án
Thông thường, giá trị của một dự án được đánh giá thông qua phương
pháp chiết khấu dòng tiền. Dự án nào có kết quả tốt nhất - thường được thể
hiện qua giá trị hiện tại thuần (NPV) thì dự án đó sẽ được lựa chọn. Nhưng để
làm được điều này công ty cần xác định được quy mô và thời điểm thu được
tiền lãi từ dự án. Dòng tiền tương lai sau đó sẽ được chiết khấu để quy về giá
trị hiện tại của nó, so sánh với chi phí bỏ ra để thực hiện, nếu tiền thu về lớn
hơn thì dự án là khả thi, và công ty có thể tiến hành hoạt động đầu tư.
Giá trị hiện tại thuần của một dự án đầu tư = giá trị hiện tại của dòng
lưu kim kỳ vọng – khoản tiền chi phí ban đầu của dự án đầu tư.
Nếu một dự án đầu tư có dòng lưu kim gồm n kỳ hạn, với P là khoản
đầu tư ban đầu, CFt là khoản thu nhập trong kỳ hạn t, n là thời gian tồn tại và

k là tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự án. NPV của dự án được tính như sau:


n
CFt
NPV= ∑ –––––– - P

t =1
(1+k)
n


11

NPV đo lường lợi nhuận ngoài phần bù đắp cho thời giá của tiền tệ và
rủi ro. Giá trị dương của NPV là giá trị tăng thêm của công ty sau khi dự án
được đầu tư và lợi ích kỳ vọng của nhà đầu tư đã được thoả mãn. Khi NPV =
0 thì thu nhập chỉ vừa đủ bù đắp cho thời giá và rủi ro của dự án.
Khi sử dụng NPV như một tiêu chuẩn để đánh giá dự án đầu tư, chúng
ta phải phân biệt giữa hai tình huống. Trường hợp thứ nhất, chúng ta coi dự
án đầu tư cần đánh giá độc lập so với những dự án khác. Trong trường hợp
này, tiêu chuẩn áp dụng để chấp nhận hay loại bỏ dự án khá đơn giản.
+ Nếu NPV > 0  chấp nhận dự án
+ Nếu NPV < 0  loại bỏ dự án
+ Nếu NPV = 0, doanh nghiệp sẽ không thiên vị trong việc chấp nhận hay
loại bỏ dự án mà tùy theo sự cần thiết của nó đối với công ty mà ra quyết định.
Trong thực tế, nhiều khi doanh nghiệp phải lựa chọn một trong số nhiều
dự án đầu tư loại trừ nhau, tức là công ty chấp thuận một dự án thì phải loại
bỏ những dự án còn lại. Khi áp dụng NPV làm tiêu chuẩn lựa chọn trong tình
huống này, chúng ta phải chọn dự án đầu tư có NPV cao nhất.

Ngoài NPV, các nhà quản trị đôi khi còn dựa vào một số tiêu chuẩn
khác để đánh giá các dự án đầu tư. Đó là: Tỷ suất nội hoàn (IRR), chỉ số lợi
nhuận (PI), thời gian hoàn vốn (PP).
- Đánh giá sau dự án
Sau khi dự án được thực hiện, nhà quản trị thường làm một bước cuối
cùng là đánh giá sau dự án. Mục đích là để thấy được hiệu quả dự án, rút ra
những điểm còn thiếu sót để hoàn chỉnh hơn trong những dự án sau.
2.3.2 Quyết định tài trợ
Nếu như quyết định đầu tư liên quan đến bên trái thì quyết định tài trợ
lại liên quan đến bên phải của bảng cân đối tài sản. Nó gắn liền với việc quyết
định nên lựa chọn loại nguồn vốn nào tài trợ cho việc mua sắm tài sản, nên sử
dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay, nên dùng vốn ngắn hạn hay vốn dài hạn.
12

Một khi sự lựa chọn giữa tài trợ bằng vốn vay hay bằng vốn của doanh
nghiệp, tài trợ bằng vốn vay ngắn hạn hay vốn vay dài hạn, hoặc lựa chọn
giữa lợi nhuận để lại và lợi nhuận phân chia đã được quyết định thì bước tiếp
theo nhà quản trị còn phải quyết định làm thế nào để huy động được các
nguồn tài trợ đó. Nên sử dụng lợi nhuận tích lũy hay nên kêu gọi thêm vốn từ
cổ đông, nên vay ngân hàng hay nên huy động vốn bằng cách phát hành các
công cụ nợ, nên phát hành trái phiếu hay thương phiếu,… Đó là những quyết
định liên quan đến tài trợ trong hoạt động của doanh nghiệp.
Quyết định tài trợ bao gồm:
+ Lựa chọn nguồn tài trợ
Nhà quản trị tài chính phải là người quyết định lựa chọn nguồn tài trợ
cho một dự án của doanh nghiệp. Đó có thể là nguồn vốn vay hay nguồn vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn chủ
sở một cách đơn giản và ít tốn kém nhưng thường khó có thể huy động với
khối lượng lớn. Nguồn vốn vay là giải pháp cổ điển mà các doanh nghiệp đều
nghĩ tới. Nếu doanh nghiệp đủ điều kiện để vay vốn, nó có thể huy động được

nguồn vốn đủ lớn đầu tư cho dự án. Nhưng nguồn vốn vay có nhược điểm là
dễ gây ra gánh nặng nợ cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường huy động
nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng hay phát hành
trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Để tăng nguồn vốn chủ sở hữu cho các
hoạt động của mình, cách đơn giản nhất là doanh nghiệp tăng phần vốn đóng
góp của các cổ đông. Số vốn này thậm chí không gây ra chi phí cho doanh
nghiệp nhưng phương pháp này có hạn chế là không tạo được nguồn vốn lớn.
Cho nên doanh nghiệp thường huy động vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành
cổ phiếu ra thị trường chứng khoán bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu
đãi (đối với những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu). Tuy nhiên
để lựa chọn được nguồn tài trợ thích hợp nhất cho dự án thì doanh nghiệp lại
phải dựa vào chi phí từng nguồn vốn.
13

+ Xác định chi phí vốn
Chi phí vốn vay được xác định bằng công thức:
K’d = Kd (1-T)
Trong đó, Kd là khoản vốn vay còn T là khoản lãi vay mà doanh nghiệp
phải trả.
Chi phí vốn huy động bằng cách phát hành cổ phiếu được chia ra cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
● Chi phí vốn cổ phiếu ưu đãi:
Kp =
P
D
o
p

Trong đó Dp là cổ tức, Po là giá thị trường của cổ phiếu.
● Chi phí vốn cổ phiếu thường:

* Xác định theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM):
Ke = Krf + ß (KM – Krf)
Trong đó Krf là tỷ lệ lợi tức phi rủi ro, ß là hệ số biến động của doanh
nghiệp.
* Xác định theo phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF):
Ke =
P
D
o
1
+ g
Trong đó D1 là cổ tức năm 1, g là mức tăng trưởng cổ tức.
Khi đã xác định được chi phí của từng nguồn vốn, nhà quản trị sẽ dựa
trên cơ sở đó để lựa chọn nguồn vốn thích hợp nhất cho một dự án.
+ Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu
Một cấu trúc vốn tối ưu được định nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó
chi phí sử dụng vốn bình quân là nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp đạt lớn
nhất.
Chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp:
WACC = Ki . wi
14

Trong đó Ki là chi phí của từng nguồn vốn và wi tỷ trọng vốn của từng loại.
Vấn đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ,
doanh nghiệp tiết kiệm được thuế nhờ lãi vay, bản chất của vấn đề này là lãi
suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (thuế được đánh sau lãi vay).
Khi doanh nghiệp vay nợ thì một phần lợi nhuận được sử dụng để trả lãi vay,
như vậy thu nhập chịu thuế giảm đi, hay nói cách khác là thuế mà doanh
nghiệp phải trả cũng giảm đi. Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị
của doanh nghiệp khi vay nợ sẽ bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ

cộng với hiện giá của khoản tiết kiệm được nhờ lãi vay.
2.3.3 Quyết định tài chính ngắn hạn
Loại quyết định thứ ba trong quản trị tài chính là quyết định tài chính
ngắn hạn hay còn gọi là quyết định về quản trị tài sản. Một khi tài sản đã được
mua sắm và nguồn tài trợ đã được sử dụng để mua sắm tài sản thì vấn đề quan
trọng là quản lý sao cho tài sản được sử dụng một cách hiệu quả và hữu ích.
Giám đốc tài chính chịu trách nhiệm về việc quản lý và sử dụng tài sản có
hiệu quả, đặc biệt đối với tài sản lưu động là loại tài sản dễ gây ra thất thoát
và lãng phí khi sử dụng.
+ Quản trị tiền mặt
Quản trị tiền mặt đề cập tới việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân
hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gần
với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Các loại
tài sản tài chính gần như tiền mặt giữ vai trò như một “miếng đệm” cho tiền
mặt: Số dư thanh khoản tiền mặt có thể được đầu tư dễ dàng vào các loại
chứng khoán thanh khoản cao, đồng thời chúng cũng có thể được bán rất
nhanh để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách về tiền mặt.
Tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp, trong khi đó sức mua của
tiền tệ luôn có khuynh hướng giảm do chịu ảnh hưởng của lạm phát. Bởi vậy
có thể nói tỷ lệ sinh lời thực của tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có tỷ lệ âm.
15

Động cơ chủ yếu của việc nắm giữ tiền mặt là để làm thông suốt quá trình tạo
ra các giao dịch kinh doanh. Bởi nếu sử dụng một loại tài sản khác có thanh
khoản thấp có thể làm các chi phí giao dịch cao, mất nhiều thời gian hơn đối
với một giao dịch kinh doanh thông thường.
Quản trị tiền mặt bao gồm các yếu tố:
a- Tăng tốc độ thu hồi
b- Giảm tốc độ chi tiêu
c- Dự báo chính xác nhu cầu tiền mặt

d- Xác định nhu cầu tiền mặt
e- Đầu tư thích hợp những khoản tiền nhàn rỗi
+ Quản trị khoản phải thu
Trong kinh doanh, một doanh nghiệp mua chịu và bán chịu là công việc
thường ngày và hóa đơn cũ được thanh toán thì hóa đơn mới cũng được tạo
ra. Tuy nhiên độ lớn của các khoản phải thu của một doanh nghiệp thay đổi
theo thời gian, tùy thuộc vào tốc độ thu hồi nợ cũ và tạo ra nợ mới, cũng như
sự tác động của những điều kiện kinh tế chung nằm ngoài tầm kiểm soát của
doanh nghiệp. Hoạt động quản trị tiền mặt của một doanh nghiệp nhằm vào
những yếu tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được tạo thành chính sách tín
dụng của một doanh nghiệp. Chính sách tín dụng của một doanh nghiệp liên
quan đến những yếu tố sau:
a- Tiêu chuẩn tín dụng là nguyên tắc chỉ đạo định rõ sức mạnh tài chính
tối thiểu và có thể chấp nhận được của những khách hàng mua chịu. Theo
nguyên tắc này, những khách hàng nào có sức mạnh tài chính hay vị thế tín
dụng thấp hơn những tiêu chuẩn có thể chấp nhận được thì sẽ bị từ chối cấp
tín dụng.
b- Chiết khấu tiền mặt là phần tiền chiết khấu đối với những giao dịch
mua hàng bằng tiền. Chiết khấu tạo ra những khuyến khích thanh toán sớm
các hóa đơn mua hàng.
16

c- Thời hạn bán chịu là độ dài thời gian mà các khoản tín dụng được
phép kéo dài.
d- Chính sách thu tiền là cách thức xử lý những khoản tín dụng thương
mại quá hạn.
+ Quản trị hàng tồn kho
Hàng tồn kho gồm có ba loại: nguyên liệu thô, sản phẩm dở dang và
thành phẩm. Hàng tồn kho có tác dụng duy trì khả năng hoạt động thông suốt
của dây chuyền sản xuất và các hoạt động phân phối, bên cạnh đó nó còn có

tác dụng ngăn chặn những bất trắc trong sản xuất như sự chậm trễ ngoài dự
kiến trong vận chuyển, giao hàng. Quản trị hàng tồn kho nhằm mục đích tối
thiểu hóa chi phí tồn kho. Đó là các loại chi phí:
a- Chi phí tồn trữ: những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa:
chi phí bốc xếp hàng hóa, bảo hiểm hàng tồn kho, chi phí sử dụng vốn, trả lãi
vay cho nguồn kinh phí vay mượn để mua hàng dự trữ
b- Chi phi đặt hàng: chi phí quản lý, giao dịch và vận chuyển hàng hóa.
Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường rất ổn định, không phụ thuộc số
lượng hàng được mua. Cho nên chi phí đặt hàng thường tỷ lệ thuận với số lần
đặt hàng trong năm. Khi khối lượng hàng của mỗi lần đặt hàng nhỏ, thì số lần
đặt hàng tăng và chi phí đặt hàng cao. Khi khối lượng mỗi lần đặt hàng lớn,
số lần đặt hàng giảm và chi phí đặt hàng cũng thấp hơn.
c- Chi phí cơ hội: Nếu một doanh nghiệp không thực hiện được đơn đặt
hàng khi có nhu cầu, công ty sẽ bị đình đốn sản xuất và có thể không kịp giao
hàng cho khách hàng. Sự thiệt hại do để lỡ cơ hội này được coi là chi phí cơ
hội.
II. Tổng quan về công ty đa quốc gia
1. Khái niệm
Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational
Corporation) là công ty tham gia vào quá trình sản xuất và bán sản phẩm hoặc
17

dịch vụ ở nhiều nước. Ban đầu nó gồm một công ty mẹ đặt tại chính quốc và
có ít nhất năm hoặc sáu công ty con ở nước ngoài, đặc biệt có mức độ hợp tác
hỗ trợ lẫn nhau cao và mang tính chiến lược giữa các công ty con của nó. Các
công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia.
Các công ty này có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Một số công ty đa
quốc gia có tới 100 công ty con ở nước ngoài trên khắp thế giới. Liên hiệp
quốc dự đoán rằng có ít nhất 35.000 công ty con trên thế giới có thể xem là

công ty đa quốc gia.
2

Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc các
phương tiện sản xuất:
● Công ty đa quốc gia "theo chiều ngang" sản xuất các sản phẩm cùng
loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).
● Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc" có các cơ sở sản xuất ở một số
nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số
nước khác (ví dụ: Adidas).
● Công ty đa quốc gia "nhiều chiều" có các cơ sở sản xuất ở các nước
khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ:
Microsoft).
2. Đặc điểm của công ty đa quốc gia
2.1 Phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia
Dù theo đuổi chiến lược thâm nhập nước ngoài hay mở rộng toàn cầu,
đặc trưng của một công ty đa quốc gia là quy mô và phạm vi phân bổ tài sản
của nó. Sự tồn tại thực sự của các công ty đa quốc gia là dựa vào khả năng dễ
di chuyển của một số nhân tố sản xuất nhất định giữa các nước. Thay vì phải
giới hạn việc tìm kiếm các địa điểm xây dựng nhà máy trong nước, một công


2
Báo cáo kinh tế thường niên của Liên Hiệp Quốc năm 2005
18

ty đa quốc gia đặt vấn đề: ở đâu trên thế giới là nơi mà chúng ta nên đặt nhà
máy? Tương tự như vậy, bộ phận quản lý marketing tìm kiếm thị trường quốc
tế chứ không phải trong nước để thâm nhập và bộ phận quản lý tài chính
không giới hạn việc tìm kiếm vốn hoặc cơ hội đầu tư đối với bất kỳ một thị

trường tài chính quốc gia nào. Vì vậy nhân tố quan trọng để phân biệt công ty
đa quốc gia đó là hoạt động tìm kiếm bên ngoài, thực hiện và hợp tác sản
xuất, marketing, R&D và các cơ hội tài trợ trên cơ sở toàn cầu chứ không phải
trong nước. Ví dụ, dự án về chất siêu dẫn của IBM được khởi xướng ở Thụy
Sỹ bởi một nhà khoa học Đức và một nhà khoa học Thụy Điển, những người
cùng nhận một giải thưởng Nobel vật lý về công trình nghiên cứu dự án này.
Một ví dụ khác, vốn được huy động ở Luân Đôn trên thị trường đôla châu Âu,
có thể được sử dụng bởi một nhà máy dược phẩm đặt tại Thụy Sỹ để tài trợ
việc mua thiết bị của Đức bởi một công ty con ở Braxin. Một con búp bê
Barbie có thể được làm ở 10 nước – thiết kế tại California, với những bộ phận
và quần áo từ Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Indonexia, Hàn
Quốc, Ý, Đài Loan, được lắp ráp tại Mexico và được bán trên 144 nước.
Những nhân tố cần thiết đối với việc hợp nhất hoạt động toàn cầu là
linh hoạt và tốc độ. Đặc biệt, tốc độ đã trở thành một vũ khí cạnh tranh lợi hại
trong cuộc chiến giành giật thị phần quốc tế. Khả năng phát triển, sản xuất và
phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ nhanh chóng cho phép các doanh nghiệp
chiếm được khách hàng, những người cần sự đáp ứng linh hoạt, nhanh chóng
và đổi mới thường xuyên.
2.2 Các công ty đa quốc gia khác nhau có những động lực phát triển khác nhau
Bởi vì các lợi thế về chi phí có thể thực hiện từ việc sản xuất ở nước
ngoài hoặc các cơ hội thu nhập có thể có từ nhu cầu của thị trường nước
ngoài, tiềm năng phát triển trở nên lớn hơn đối với các công ty quan tâm đến
hoạt động kinh doanh quốc tế. Những đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ qua
thời gian, chúng được thúc đẩy bởi sự tổng hợp của các nhân tố: Sự dỡ bỏ
19

hoặc giảm bớt những rào cản đối với đầu tư nước ngoài; các chi phí vận tải và
thông tin giảm mạnh; các thị trường vốn quốc tế và nội địa hoạt động tự do
hơn, trong đó các công ty có thể huy động những khoản vốn khổng lồ, những
rủi ro tiền tệ và các rủi ro khác có thể bảo hiểm được. Tuy nhiên không phải

tất cả các công ty đa quốc gia đều có chung một câu trả lời cho câu hỏi tại sao
chúng lại tấn công ra thị trường quốc tế. Trên thực tế chúng tìm kiếm những
cơ hội rất khác nhau.
- Tìm kiếm vật liệu thô
Những người tìm kiếm vật liệu thô là những công ty đa quốc gia và
những tổ chức kinh doanh quốc tế đầu tiên. Đó là những công ty Anh, Hà Lan
và Đông Ấn Độ, Pháp, công ty Bay Trading Hudson và Union Miniere
HautKatanga – lúc đầu chúng phát triển dưới sự che chở bảo vệ của các đế
chế thực dân Anh, Hà Lan, Pháp và Bỉ. Mục tiêu của chúng là khai thác các
vật liệu thô có thể tìm thấy ở nước ngoài. Những bản sao của những công ty
này trong thời đại hiện đại là những công ty khai mỏ, dầu lửa đa quốc gia. Họ
là những người đầu tiên tiến hành đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài, bắt đầu từ
những năm đầu của thế kỷ 20. Vì vậy, những công ty dầu lửa lớn như British
Petroleum và Standar Oil, đã đi đến những nơi mà những con khủng long đã
chết (những công ty được bảo trợ của những đế chế thực dân), là những công
ty đa quốc gia thực sự đầu tiên. Những công ty khai thác kim loại như
International Nickel. Anaconda Copper, và Kennecott Copper cũng là những
công ty sớm đầu tư ra nước ngoài.
- Tìm kiếm thị trường
Người tìm kiếm thị trường là công ty đa quốc gia hiện đại, nó ra nước
ngoài để sản xuất và bán hàng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như IBM, Volks-
wagen và Unilever. Tương tự như vậy, các công ty sản xuất những mặt hàng
nổi tiếng như Nestlé, Levi Strauss, MacDonald’s, P&G, Coca-Cola đã và đang
kinh doanh nước ngoài, nơi mà chúng có được doanh số và thu nhập lớn.
20

Mặc dù đã có những ví dụ về các công ty đa quốc gia tìm kiếm thị
trường nước ngoài (ví dụ, Colt Firearms, Singer, Coca-Cola, Philips, và
Imperial Chemicals), nhưng phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thông qua
mua lại những tài sản hữu hình như nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc ở

nước ngoài. Loại hình đầu tư này cơ bản là dòng chảy một chiều – từ Mỹ tới
Tây Âu – cho mãi tới những năm gần đầu thập niên 60 của thế kỷ 19. Sau đó,
đầu tư ngược chiều bắt đầu, chủ yếu là các công ty Tây Âu mua lại các công
ty của Mỹ. Gần đây, các công ty Nhật đã đầu tư vào Mỹ và Tây Âu, chủ yếu
để đối phó với những rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu sang những thị
trường này.
- Tối thiểu hóa chi phí
Người tối thiểu hóa chi phí là loại hình doanh nghiệp tương đối mới
tham gia kinh doanh quốc tế. Những doanh nghiệp này tìm kiếm và đầu tư
vào những quốc gia có chi phí sản xuất thấp (Ví dụ như Hồng Kông, Đài
Loan và Ireland) nhằm duy trì khả năng cạnh tranh về chi phí cả ở trong và
ngoài nước. Phần lớn các công ty này thuộc ngành công nghiệp điện tử. Ví dụ
như các công ty Texas Instruments, Atari và Zenith.
2.3 Các công ty đa quốc gia luôn tận dụng cơ chế chuyển giao nội bộ để thu
lợi nhuận nhiều hơn
Từ giác độ quản lý tài chính, một trong những đặc điểm của công ty đa
quốc gia khác biệt với tập hợp các công ty quốc gia thường hợp tác khách
quan với nhau, đó là khả năng của nó trong việc chuyển tiền và lợi nhuận giữa
các chi nhánh hoặc giữa công ty mẹ và chi nhánh thông qua các cơ chế
chuyển giao nội bộ. Có được điều đó là do các công ty đa quốc gia hoạt động
trong hệ thống tài chính quốc tế chứ không phải hệ thống tài chính của một
nước cụ thể. Những cơ chế này bao gồm chuyển giao giá cả về hàng hóa hoặc
dịch vụ được trao đổi trong nội bộ, các khoản tín dụng liên công ty, thanh

×