Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp việt nam sau khi việt nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.86 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam sau khi Việt
Nam gia nhập WTO

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Kiều Diễm
Lớp : A10
Khoá : 43C
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Bích Ngọc


Hà Nội, 2008



MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH


TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP 4
1 . Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4
1.1. Cạnh tranh 4
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 8
2. Doanh nghiệp nông nghiệp và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp 10
2.1. Khái niệm doanh nghiệp nông nghiệp 10
2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp 11
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp. 13
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 17
1. Các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam về nông nghiệp trong
khuôn khổ WTO 17
1.1. Các quy định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp 17
1.2. Các cam kết của Việt Nam về nông nghiệp trong khuôn khổ WTO 23
1.3. Tác động của việc gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp nông
nghiệp Việt Nam. 26
2. Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp
Việt Nam 31
2.1. Nhóm các yếu tố về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 31
2.2. Nhóm các yếu tố về thị trường của doanh nghiệp 46



CHƢƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI VIỆT
NAM GIA NHẬP WTO 56
1. Các giải pháp từ phía Chính phủ……………………………………… 56

2. Các giải pháp từ phía Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 68
3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp nông nghiệp 70
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO




DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ

Bảng 1: Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng nông
sản chính bao gồm: 24
Bảng 2. Khả năng về vốn của doanh nghiệp nông nghiệp trong 34
3 năm 2004 - 2006 34

Đồ thị 1. Tỉ lệ sản phẩm chính so với tổng doanh thu của các doanh nghiệp
nông nghiệp 39
Đồ thị 2. Trình độ đào tạo của chủ DN 44
Đồ thị 3. Chỉ số cạnh tranh phân theo loại hình doanh nghiệp 54
Đồ thị 4. Chỉ số cạnh tranh phân theo ngành hàng 55



DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
WTO Tổ chức thương mại thế giới
UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
SPS Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm
dịch động thực vật

TBT Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
TRIPS Hiệp định về Thủ tục giấy phép nhập khẩu, Hiệp định về các khía
cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
MFN Nguyên tắc đối xử Tối huệ quốc
NT Nguyên tắc đối xử quốc gia
STEs Doanh nghiệp thương mại nhà nước
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Gis Chỉ dẫn địa lí
MARD Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
ODA Viện trợ không hoàn lại
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEM Diễn đàn hợp tác Á – Âu
Codex Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế
OIE Tổ chức thú y thế giới
IPPC Công ước bảo vệ thực vật quốc tế
ISO Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
VCCI Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
USAID Cơ quan phát triển quốc tế Mĩ
SMEs Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
IPSARD Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), sự kiện này đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, mở ra một giai đoạn mới, nền kinh tế nước

ta hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới đang có những
biến đổi nhanh và sâu sắc. Con tàu kinh tế Việt Nam đã bơi ra biển lớn. Các
doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội to lớn trong hợp tác kinh
doanh với nước ngoài, đồng thời cũng phải đối mặt với không ít những thách
thức. Để có thể vững vàng trong sân chơi lớn, một trong số những điều kiện tiên
quyết đối với các doanh nghiệp là phải hoàn thiện để nâng cao sức cạnh tranh
của mình so với các đối thủ trong và ngoài nước. Điều này càng đặc biệt quan
trọng với các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam. Bởi vì, nông nghiệp là một
lĩnh vực chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam và là một đề tài hết sức nhạy cảm,
khó giải quyết trong các vòng đàm phán của WTO. Hiện nay, dân số nông thôn
chiếm đến 60,7% dân số quốc gia, ngành nông lâm thủy sản giải quyết công ăn
việc làm cho 56,8% người trong độ tuổi lao động và đóng góp đến 20,9% GDP
quốc gia. Bởi vậy, bất kì tác động nào của việc gia nhập WTO đến nông nghiệp
và nông thôn đều gây ra những ảnh hưởng to lớn và lâu dài đến toàn bộ nền kinh
tế. Các doanh nghiệp nông nghiệp phải là những người bước những bước tiên
phong và vững chắc nhất trong công cuộc hội nhập của ngành nông nghiệp nói
riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” để nghiên cứu trong khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: là nhằm đưa ra một số kiến nghị giúp
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp còn non trẻ của


2
Việt Nam sau khi gia nhập WTO, đưa những doanh nghiệp này lên một vị thế
mới để có thể đón nhận những cơ hội cũng như đối phó được với những thách
thức mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, góp phần thúc đẩy sự phát triển của

ngành nông nghiệp và nông thôn nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Để thực hiện được mục tiêu đó, Khóa luận tốt nghiệp này thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Khái quát một số vấn đề lí luận và thực tiễn về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp.
- Nghiên cứu các tác động của việc gia nhập WTO đối với các doanh
nghiệp nông nghiệp Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
nông nghiệp.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nông nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập WTO
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Lí thuyết về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá ở cấp
độ doanh nghiệp.
- Các quy định của WTO có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp.
- Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp này trong thời gian
tới.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông
nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ phù hợp với các cam kết của WTO về nông
nghiệp, không đề cập tới các khu vực mậu dịch tự do hay các hiệp định thương
mại song phương.


3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp miêu tả
- Tổng hợp tài liệu từ các nguồn: sách, tạp chí chuyên ngành, internet…

- Phương pháp tổng hợp số liệu và phân tích hệ thống
5. Kết cấu của Khóa luận tốt nghiêp:
Khóa luận gồm 3 chương với các nội dung chính như sau:
Chương I: Cơ sở lí luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nông nghiệp.
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nông
nghiệp Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên khóa luận này không tránh
khỏi có nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của
những người quan tâm giúp tôi bổ sung, hoàn thiện kiến thức cho mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn ThS Nguyễn Thị Hải Yến, người đã hết lòng
hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến các cơ quan hữu quan như Viện nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương,
Viện kinh tế thế giới, Thư viện quốc gia đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời
gian tham khảo, tìm hiểu tài liệu, thu thập kiến thức để hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, Ngày 20 tháng 06 năm 2008
Sinh viên

Nguyễn Thị Kiều Diễm







4
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH

TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP

1 . Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh
nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia
vv… Điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra là ở quy mô doanh
nghiệp hay quốc gia. Trong khi đối với một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là
tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối
với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân vv…
Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng
hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư
bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Marx đã phát hiện ra quy luật cơ
bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình
quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên
những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá
dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu đựơc lợi nhuận.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế
học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng: Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần.
Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect
Competition).
Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho cạnh
tranh là cạnh tranh hoàn hảo. Các tác giả này viết: “Một cạnh tranh hoàn hảo là


5

trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá
cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua”.
Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế
học vĩ mô cho rằng: “Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất
nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán duy
nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả”.
Theo Từ điển kinh doanh của Anh (xuất bản năm 1992), cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được hiểu là “sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên
thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình”.
Các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh
tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc dự án VIE/97/016 về cải thiện môi
trường pháp lí trong kinh doanh do UNDP tài trợ thì cho rằng: Cạnh tranh có thể
được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố
sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt
đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị
phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1), Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân,
các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu,
nhằm giành được các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Ở Phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống
Mỹ, cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị
trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng
được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu
nhập thực tế của người dân nước đó.
Tại diễn đàn Liên hợp quốc, báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2002 định
nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là “Khả năng của nước đó đạt được những
thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng



6
trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tính trên đầu người theo thời gian”.
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra các điểm chính sau đây về cạnh tranh:
- Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong
môi trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh, phải có các điều kiện tiên quyết sau:
Thứ nhất, phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh. Đó là các chủ
thể có cùng các mục đích, mục tiêu và kết quả phải giành giật, tức là phải có một
đối tượng mà chủ thể cùng hướng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ thể
cạnh tranh bên bán, kết quả đó là các loại sản phẩm tương tự có cùng mục đích
phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia cạnh tranh
đều có thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh
bên mua là giành giật mua được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình.
Thứ hai, việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh
cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân
thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các doanh nghiệp chính là
các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật
pháp và thông lệ kinh doanh ở trên thị trường.
- Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định, hoặc
ngắn (từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi
chủ thể tham gia cạnh tranh). Về mặt không gian, cạnh tranh cũng có thể xảy ra
trong phạm vi hẹp (một tổ chức, một địa phương, một ngành) hoặc rộng (một
nước, giữa các nước).
1.1.2. Phân loại
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
Cạnh tranh được chia thành 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá
của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả

cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.


7
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh
trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp
nhận giá cao để mua được hàng hoá mà họ cần.
- Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành
giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người
mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu
được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các
đối thủ mạnh hơn.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Cạnh tranh được phân thành 2 loại:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả
của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình
này có sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình
thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh
Cạnh tranh được phân thành 3 loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition): Là hình thức cạnh tranh giữa
nhiều người bán trên thị trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống
chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là
đồng thức, tức là không khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Để chiến
thắng trong cuộc cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí,
hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh

tranh.
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh
tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản


8
phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế
trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán hàng như:
Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh
tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có
nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản
phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thành 2 loại:
- Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực
xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng phẳng, công bằng và công
khai.
- Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật pháp,
trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế, buôn lậu, móc
ngoặc, khủng bố vv ).
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm chung về năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng đến
nay vẫn là khái niệm khó hiểu và rất khó đo lường. Năng lực cạnh tranh được
xem xét ở các góc độ khác nhau như: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực
cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh
của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng giành

được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng
giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa năng lực cạnh tranh
là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu vực


9
siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
Bách khoa toàn thư Việt Nam đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh là khả
năng của một mặt hàng, một đơn vị kinh doanh, hoặc một nước giành thắng lợi
(kể cả giành lại một phần hay toàn bộ thị phần) trong cuộc cạnh tranh trên thị
trường tiêu thụ. Một mặt hàng có năng lực cạnh tranh là mặt hàng có thể thu hút
được nhiều người mua hơn những hàng hoá cùng loại đang được tiêu thụ trên thị
trường. Năng lực cạnh tranh dựa trên nhiều yếu tố: giá trị sử dụng và chất lượng
sản phẩm cao, điều kiện sản xuất ổn định do sản xuất dựa chủ yếu trên cơ sở kĩ
thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, quy mô sản xuất lớn và nhờ đó giá thành và
giá cả sản phẩm hạ. Các yếu tố xã hội như giữ được tín nhiệm (chữ tín) trên thị
trường, việc tuyên truyền, hướng dẫn tiêu dùng, quảng cáo cũng có ảnh hưởng
quan trọng. Ở nhiều nước, các nhà sản xuất còn sử dụng một số hình thức như
bán hàng trả tiền dần (trả góp) để kích thích tiêu dùng, trên cơ sở đó tăng năng
lực cạnh tranh.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nghiên cứu ở cấp độ doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc
thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như
vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực
của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ
được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị
doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác

cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Việc
đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp phải thông qua
so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh
đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được
lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả


10
mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách
hàng của đối tác cạnh tranh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa
mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có
lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp
phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình
đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh
và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực
hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự,
công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng
lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc
đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực
cạnh tranh khác nhau.
2. Doanh nghiệp nông nghiệp và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nông nghiệp
2.1. Khái niệm doanh nghiệp nông nghiệp
2.1.1. Định nghĩa
Thuật ngữ doanh nghiệp nông nghiệp được hiểu một cách mềm dẻo là: Nông
thôn không chỉ có nông nghiệp, nông dân mà còn rất nhiều hoạt động kinh tế-xã
hội và các nhóm xã hội khác. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp có hoạt

động trong lĩnh vực nông nghiệp thì đều ở địa bàn nông thôn. Một cách chung
nhất, doanh nghiệp nông nghiệp được hiểu là các doanh nghiệp có hoạt động
trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, hướng vào sản xuất
kinh doanh các sản phẩm là cây, con. Hoạt động sản xuất kinh doanh của những
doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Doanh nghiệp
nông nghiệp có thể là doanh nghiệp tư nhân, nhà nước, liên doanh hoặc doanh


11
nghiệp nước ngoài có hoạt động liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
sản tại Việt Nam.
Loại hình doanh nghiệp nông nghiệp là sự liên kết giữa doanh nhân nông
nghiệp (chủ doanh nghiệp nông nghiệp) với nhà khoa học, ngân hàng để cho ra
những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng, tức là yếu tố chất xám (khoa học, công nghệ) phải rất cao.
2.1.2. Phân loại
 Theo lĩnh vực hoạt động, các doanh nghiệp nông nghiệp bao gồm:
(1) Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ phi nông
nghiệp: Xây dựng, chế biến, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
(2) Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp:
nông, lâm và thủy sản.
 Theo loại hình sở hữu, các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay bao gồm :
(1) Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân thành lập và hoạt động theo luật
doanh nghiệp.
(2) Các HTX nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn.
(3) Các nông, lâm trường.
2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp nhìn chung cũng được
đánh giá dựa trên các tiêu chí tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác. Ở
đây, khóa luận này hệ thống các tiêu chí đó thành 2 nhóm dựa trên nghiên cứu

của TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng viện Chính sách và chiến lược phát triển
nông nghiệp nông thôn về giải pháp nâng cao năng lực hội nhập cho các doanh
nghiệp nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hai
nhóm tiêu chí đó là:
2.2.1.Nhóm các yếu tố về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
 Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp (cán bộ và công nhân lành nghề, trình
độ cán bộ quản lý, trình độ ngoại ngữ, vi tính hay thị trường ). Chỉ tiêu này
được đánh giá thông qua đầu tư cho cán bộ công nhân viên đi đào tạo trong và


12
ngoài nước, tỉ lệ số người có thể sử dụng thành thạo máy vi tính trong công tác
chuyên môn, tỉ lệ số người biết ít nhất một ngoại ngữ hay tỉ lệ có thể làm việc
trực tiếp với chuyên gia nước ngoài, v.v
 Nguồn tài chính trong doanh nghiệp (cơ cấu vốn tự có trong tổng vốn, nợ
quá hạn, các khoản chi phí liên quan đến tăng cường năng lực hội nhập, v.v )
 Trình độ công nghệ, trang thiết bị (máy móc mới, thiết bị thông tin liên lạc,
đầu tư cho nghiên cứu và phát triển ). Điều đó được thể hiện qua chỉ tiêu việc có đầu
tư hay không cho mua sắm trang thiết bị mới và tỉ lệ chi trong tổng chi phí, v.v
 Sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
- Tính đa dạng: tỉ lệ sản phẩm chính, các sản phẩm thay thế
- Chất lượng: sản phẩm đã đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế, số sản
phẩm có thương hiệu riêng, v.v thông qua chỉ tiêu số doanh nghiệp đã đăng ký
nhãn hiệu và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế …
- Giá thành: so với các đối thủ cạnh tranh trên địa bàn, trong nước hay ngoài
nước ở mức độ nào? Đây là chỉ tiêu dựa trên sự tự đánh giá của chủ doanh nghiệp.
Đặc biệt là tỉ lệ chủ doanh nghiệp chưa xác định được đối thủ cũng như đối tác của
mình…
 Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp ( chủ yếu là đề cập đến bộ máy
quản lý (cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, có hay không bộ phận chuyên môn về

phát triển thị trường/quan hệ khách hàng, phân tích thông tin thị trường, dự báo
thị trường, phát triển mạng lưới ), năng lực, kiến thức của chủ doanh nghiệp.
Những tiêu chí này thường mới chỉ được quan tâm ở các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng sẽ chiếm vị trị
quan trọng trong tất cả các loại hình doanh nghiệp để đảm bảo không những
cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới mà cả trên thị trường trong nước.
2.2.2. Nhóm các yếu tố về thị trường của doanh nghiệp
 Hệ thống thông tin thị trường: có hay chưa hệ thống thông tin thị trường
(cơ sở dữ liệu, phương pháp và công cụ dự báo tiên tiến, đội ngũ cán bộ làm
công tác dự báo và phát triển thị trường ).


13
 Khả năng xúc tiến thương mại (quảng cáo sản phẩm theo hình thức nào,
mức độ tham gia các hội chợ/triển lãm trong và ngoài nước )
 Hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp: mạng lưới dịch vụ bán và sau bán
hàng: số lượng đại lý trong và ngoài nước, tỉ lệ tiêu thụ theo các kênh thị trường,
dịch vụ sau bán hàng (chế độ bảo hành bảo dưỡng, cung cấp phụ tùng thay thế,
khuyến mại ).
 Mối quan hệ khách hàng/ đối tác (sự tham gia vào các hiệp hội ngành
hàng ) được thể hiện qua một số chỉ tiêu gián tiếp như trang thiết bị thông tin
liên lạc, tỉ lệ doanh nghiệp tham gia các hiệp hội, v.v
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp.
Năng lực cạnh tranh là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên
thương trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở
năng lực cạnh tranh. Đây cũng chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp
trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO nhằm giành thế chủ động trong quá
trình hội nhập. Đặc biệt ở Việt Nam, với một ngành có vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế như nông nghiệp thì vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn càng cần được đặt lên hàng đầu.
Trong thời gian qua, nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các doanh
nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn sản xuất đã tạo được uy tín trên thị
trường quốc tế và có đặc trưng truyền thống như: hạt tiêu, hạt điều xuất khẩu,
gốm sứ, thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản, Các doanh nghiệp này có vai trò khá
quan trọng với các doanh nghiệp lớn xuất khẩu. Hiện nay đã hình thành một sợi
dây liên kết các doanh nghiệp lớn, Tổng công ty và Công ty với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong việc tổ chức sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trở thành cầu nối giữa các hộ sản xuất với
các nhà xuất nhấp khẩu.
Tuy nhiên, có một nghịch lí mà chúng ta đang vấp phải, đó là: trong lúc nông
nghiệp nông thôn chiếm đến 80% nhân lực thì doanh nghiệp nông nghiệp lại giữ


14
một vị trí rất khiêm tốn. Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
hiện nay số doanh nghiệp về nông nghiệp và nông thôn chỉ có khoảng 16000 và
đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số đó có tới 1/3, tức 5.000 doanh
nghiệp bị lỗ vốn và đang trong giai đoạn định hình, tìm hướng đi.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng nông thôn còn kém phát triển, các dịch vụ đi kèm
đều yếu và thiếu. Vì thế, việc kêu gọi đầu tư vào nông nghiệp nông thôn là rất khó
khăn.
Có một thực tế rằng, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Nhà nước nhưng một chuyên gia hoạt
động lâu năm trong ngành nông nghiệp nhận định: “Những doanh nghiệp này là
một trong những đứa con èo uột nhất của nền kinh tế. Nuôi lâu nhưng không lớn,
vì thói quen ỷ lại vào bầu sữa mẹ”. Lý do lớn nhất đã làm cho các doanh nghiệp
này thua lỗ là vì nhận được quá nhiều ưu đãi từ Nhà nước và không tự thân vận
động theo nền kinh tế thị trường.
Đơn cử một ví dụ, khi đề cập đến vấn đề các doanh nghiệp nhà nước không

bắt kịp nhu cầu thay đổi của thị trường trong kinh doanh hàng nông sản, ông Đỗ
Hà Nam, giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Intimex đã trả lời báo chí rằng: “Họ
có nguồn hàng, nhưng họ không quản lý được. Tuy quy mô lớn, vốn của doanh
nghiệp nhiều, nhưng chiến lược của họ không rõ ràng, họ phải chấp nhận thất bại
trong cuộc chơi của nền kinh tế thị trường. Thay vì tổng công ty phải đi tìm thị
trường, tìm đầu ra cho sản phẩm, tạo mối quan hệ tốt với những đối tác quốc tế,
họ lại kinh doanh theo kiểu cũ là đầu cơ tích trữ để tìm lợi nhuận phần chênh
lệch giá. Nên nhiều đơn vị tranh thủ thời gian giá rớt mua vào đầu cơ, nhưng
càng đầu cơ thì giá thế giới lại càng giảm. Nhiều thương vụ như vậy, công ty sẽ
dẫn đến phá sản hoặc lỗ vốn”.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy số vốn đầu tư đổ vào ngành nông
nghiệp là khổng lồ nhưng hiệu quả của những đồng vốn đầu tư này lại khá khiêm
tốn. Chỉ riêng giai đoạn 2001-2005, các chính sách về khoa học, công nghệ cho
phát triển nông nghiệp nông thôn được đầu tư nguồn kinh phí ngân sách 10.009
tỉ đồng. Số vốn đó hỗ trợ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông


15
thôn, tăng năng suất, hạ giá thành, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Cũng
trong giai đoạn 2001-2005, ngân sách nhà nước đầu tư cho chương trình giống
khoảng 1.900 tỉ đồng, trong đó ngân sách Trung ương đầu tư 670 tỉ đồng, ngân
sách địa phương đầu tư 1.200 tỉ đồng. Ngoài ra còn có các nguồn vốn khác, các
chính sách ưu đãi về thuế Tính chung, tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp vào khoảng 130.000 tỉ đồng, gấp 2 lần thời kỳ 1996-2000 và chiếm
khoảng 13% tổng huy động vốn đầu tư toàn xã hôi.
Không những nhận được hỗ trợ đầu tư trong nước, ngành nông nghiệp còn
nhận được nhiều dự án vốn lớn từ nước ngoài. Tính đến cuối năm 2005, có trên
70 dự án ODA đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp nông thôn, với số vốn ký kết là
1.406 triệu USD, trong đó có 1.201 triệu USD vốn vay ưu đãi, 205 triệu USD
viện trợ không hoàn lại. Bên cạnh đó, có khoảng 746 dự án đầu tư trực tiếp của

nước ngoài còn hiệu lực với số vốn hàng chục triệu USD. Cũng trong giai đoạn
2001-2005, Việt Nam đã ký được 3 dự án tín dụng với một số tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế tài trợ cho phát triển nông nghiệp, với số vốn 343 triệu USD,
trong đó dự án tín dụng nông thôn I là 113 triệu USD, dự án tín dụng nông thôn
II là 200 triệu USD và dự án tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ là 30 triệu USD
(số liệu từ Tổng cục thống kê).
Tuy nhiên, kết quả của mức đầu tư này lại rất khiêm tốn. Theo đánh giá của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp nông
thôn vẫn còn thấp, chỉ đạt 5,4%/ năm so với mức tăng trưởng GDP của nền kinh
tế trong cùng thời kỳ 2001-2005 là trên 7,5%/năm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn còn chậm, mỗi năm trung bình chỉ giảm 1%. Tỷ trọng giá
trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn còn cao,
chiếm hơn 70%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm 59-60% lao động cả
nước. Tăng trưởng tín dụng nhanh nhưng mới đáp ứng được 40% nhu cầu vay
vốn bị vướng mắc các quy định thế chấp, thu hồi nợ. Ngoải ra, một nghiên cứu
của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cũng cho thấy các nông trường
quốc doanh hiện đang kiểm soát đến 25% diện tích đất nông nghiệp của quốc
gia, nhưng chỉ tạo ra khoảng 1% tổng sản phẩm trong nước (GDP).


16
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh
và với mức độ ngày càng sâu, rộng. Việc ký kết Hiệp định Thương mại song
phương Việt-Mỹ, việc ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hàng loạt
các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM, đã đặt các doanh nghiệp
Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nông nghiệp nông thôn trước nhiều cơ
hội và thách thức mới.
Có ý kiến cho rằng, bản thân ngành nông nghiệp là đã có nhiều rủi ro, thiên
tai dịch bệnh và những biến động về giá cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thêm vào đó là cơ sở hạ tầng ở nông thôn rất kém, điểm xuất phát kém. Các

dịch vụ ở nông thôn đều khó khăn và đắt hơn ở thành phố như điện nước và vốn
đầu tư đều gặp khó khăn hơn. Đó là lý do khiến cho doanh nghiệp đầu tư vào
nông thôn ít và vì thế tỷ lệ tăng trưởng của nó không cao. Tuy nhiên, với những
khó khăn này so với mức đầu tư như trên cho ngành nông nghiệp, thì những khó
khăn trong ngành không đáng kể. Nông dân đang gặp khó trên cánh đồng của
mình và nông dân Việt Nam có tồn tại được hay không trong bối cảnh hội nhập
phụ thuộc nhiều vào việc những doanh nghiệp kinh doanh trong ngành nông
nghiệp có hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới hay không.









17
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

1. Các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam về nông nghiệp trong
khuôn khổ WTO
1.1. Các quy định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức quốc tế với 150 thành
viên với khoảng 97% thương mại toàn thế giới. WTO được thành lập bởi các
thành viên của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) vào năm
1995. Nó bao gồm GATT và khoảng hơn 20 Hiệp định khác trên nhiều lĩnh vực
kinh tế. Trong đó, nông nghiệp là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và khó giải
quyết trong quan hệ thương mại giữa các nước thành viên. Trong phạm vi WTO,

có một số Hiệp định cũng như qui định có liên quan đến nông nghiệp, bao gồm:
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947, GATT 1994), Hiệp
định nông nghiệp (AoA), Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch
tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong
thương mại (TBT), Hiệp định về Thủ tục giấy phép nhập khẩu, Hiệp định về các
khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), v.v.
1.1.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại ( GATT )
Các nguyên tắc cơ bản:
a/ Đối xử Tối huệ quốc (MFN): có nghĩa là các chính sách thương mại không
được phân biệt đối xử. Mỗi thành viên phải đối xử với hàng hóa và dịch vụ từ
các nước thành viên khác bình đẳng như nhau mà không có phân biệt đối xử.
Đặc biệt, nếu một quốc gia thành viên áp dụng thuế thấp hơn hay một lợi ích nào
khác đối với bất kỳ một quốc gia khác, thì quốc gia này cũng phải ngay lập tức
và vô điều kiện mở rộng việc áp dụng lợi ích tương tự đối với sản phẩm tương tự
của các quốc gia thành viên khác.
b/ Đối xử quốc gia (NT): Mỗi thành viên phải “dành sự đối xử không kém
phần thuận lợi hơn sự đối xử dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt


18
luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào hàng, mua,
chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng”. Qui tắc này yêu cầu rằng một sản phẩm
nhập khẩu đang vượt qua biên giới quốc gia sau khi nộp thuế hải quan và các phí
khác sẽ không nhận được sự đối xử kém ưu đãi hơn so với sự đối xử đối với sản
phẩm tương tự được sản xuất trong nước. Nói cách khác, nó yêu cầu hàng hóa
nhập khẩu phải được đối xử tương tự như đối với các hàng hóa được sản xuất
trong nước (cùng thuế nội địa, thuế giá trị gia tăng, v.v.).
c/ Chỉ bảo hộ ngành sản xuất trong nước thông qua thuế: Trong khi thừa
nhận tầm quan trọng của các quốc gia thành viên cần thực hiện các chính sách
thương mại tự do và mở cửa, WTO không cấm việc bảo hộ sản xuất nội địa đối

với cạnh tranh từ nước ngoài. Tuy nhiên, bảo hộ như vậy áp dụng đối với hàng
hóa chỉ được áp dụng thông qua thuế quan. Các hạn chế định lượng đối với nhập
khẩu nhìn chung là bị cấm áp dụng.
d/ Thuế và các nhượng bộ khác trong đàm phán: đều được ràng buộc để
không được tăng thêm: Mức thuế đồng ý trong các cuộc đàm phán cũng như các
cam kết khác được chấp thuận bởi các quốc gia thành viên như các nhượng bộ về
nhập khẩu dịch vụ và các nghĩa vụ về trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước
trong nông nghiệp đã được liệt kê trong Biểu Nhượng Bộ đều được ràng buộc
chống gia tăng. Mỗi quốc gia thành viên đều có nghĩa vụ không áp dụng thuế
nhập khẩu hay các phí khác “vượt quá mức đã đặt trước” trong Biểu của mình.
Mức thuế nhập khẩu liệt kê trong Biểu được hiểu là mức ràng buộc của các dòng
thuế.
Hơn nữa, cơ sở và phương pháp để quyết định giá trị của sản phẩm chịu thuế
nhập khẩu hay các phí khác hay các hạn chế khác đều phải dựa trên hay được qui
định theo cách mà giá trị “phải được ổn định và phải được công bố rộng rãi…”
1.1.2.Hiệp định nông nghiệp (AoA) :
Mục tiêu chính của Hiệp định là cải cách lại các nguyên tắc, luật lệ, chính
sách nông nghiệp cũng như giảm bớt những bóp méo trong thương mại nông


19
nghiệp gây ra bởi cơ chế bảo hộ nông nghiệp và hỗ trợ trong nước. Hiệp định đề
cập tới 3 nội dung chính :
 Tiếp cận Thị trường (Điều 4);
 Cam kết về Hỗ trợ trong nước (Điều 6); và
 Cam kết về Trợ cấp Xuất khẩu (Điều 9).
1.1.2.1. Tiếp cận thị trường
Theo Điều 4 của Hiệp định này, các nước trước đây áp dụng các biện pháp
phi thuế quan (ví dụ như hạn chế định lượng, giấy phép không tự động và thuế
biến đổi) đều bị yêu cầu bãi bỏ chúng, thay thế bằng thuế nhập khẩu bị ràng buộc

ở mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn. Việc chuyển từ các biện pháp phi
thuế sang thuế được gọi là “thuế hóa”. Các quốc gia thành viên đồng ý cắt giảm
thuế nhập khẩu theo tỷ lệ cố định. Các nước phát triển và chuyển đổi phải giảm
thuế 36% theo bình quân trong thời hạn 6 năm từ 1995 đến 2000, ít nhất là 15%
đối với mỗi dòng thuế. Các nghĩa vụ tương tự đối với các nước đang phát triển là
24% trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004 và ít nhất 10% đối với mỗi sản phẩm.
Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế cũng không bị loại bỏ hoàn toàn. Các thành
viên được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế như các biện pháp vệ sinh dịch
tễ và kiểm dịch động thực vật để bảo vệ con người và động vật khỏi các rủi ro từ
thực phẩm nảy sinh từ việc sử dụng các chất kích thích, các chất gây ô nhiễm,
độc tố hay các sinh vật gây bệnh và để bảo vệ động thực vật khỏi các sâu bệnh
hay dịch bệnh có thể tác động đến sản xuất nông nghiệp.
Các nước đang phát triển và kém phát triển được linh hoạt hơn khi ràng buộc
các mức thuế tại thuế trần có thể cao hơn so với mức thuế áp dụng thực tế.
1.1.2.2. Hỗ trợ trong nước
WTO cho phép áp dụng các chính sách hỗ trợ nông nghiệp mà bản thân các
chính sách đó không có tác dụng bóp méo thương mại (gọi là hỗ trợ “ hộp
xanh”). WTO cũng cho phép các nước đang phát triển áp dụng một số chính
sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp (các “chương trình phát
triển”), nhưng yêu cầu phải cam kết cắt giảm đối với các loại hỗ trợ trong nước


20
khác gây bóp méo thương mại (gọi là hỗ trợ “hộp hổ phách”) nếu như các loại
hỗ trợ đó vượt quá một mức nào đó (gọi là mức tối thiểu). Mức tối thiểu dành
cho các nước đang phát triển là 10% giá trị sản lượng của sản phẩm được hỗ trợ.
1.1.2.3. Trợ cấp xuất khẩu
Đây là dạng hỗ trợ được coi là các biện pháp bóp méo nhất đối với thương
mại của các Chính phủ. Về nguyên tắc, WTO nghiêm cấm trợ cấp xuất khẩu.
Nếu nước nào có trợ cấp xuất khẩu thì phải cam kết cắt giảm giá trị cũng như số

lượng trợ cấp. Các nước phát triển phải cắt giảm 36% về giá trị và 21% về số
lượng trong thời hạn 6 năm kể từ năm 1995. Đối với các nước đang phát triển thì
nghĩa vụ này là 24% về giá trị và 14% về số lượng trong thời hạn 10 năm.
1.1.3. Hiệp định SPS và Hiệp định TBT
1.1.3.1.Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS):
Hiệp đinh này áp dụng đối với tất cả các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm
dịch động thực vật mà chúng trực tiếp hay gián tiếp có thể ảnh hưởng đến
thương mại quốc tế. Khái niệm “qui định vệ sinh kiểm dịch động vật” được sử
dụng đối với các dạng qui định mà mục tiêu cơ bản là đảm bảo an toàn thực
phẩm, hay để ngăn ngừa các bệnh từ động vật lây lan vào một quốc gia.
Nội dung chính của Hiệp định SPS bao gồm: WTO thừa nhận quyền được áp
dụng các biện pháp SPS ở mức cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người và động
thực vật, nhưng không được áp dụng quá mức cần thiết gây cản trở thương mại
và bảo hộ cho sản xuất trong nước. Theo đó, WTO khuyến khích các nước áp
dụng các tiêu chuẩn, quy định do các tổ chức quốc tế ban hành như Codex, OIE,
IPPC. Trong trường hợp áp dụng cao hơn các quy định của quốc tế phải dựa trên
bằng chứng khoa học.
Mỗi nước phải xây dựng điểm thông tin, hỏi đáp quốc gia để tạo thuận lợi
cho các nước khác khi họ có yêu cầu. Mỗi nước phải xây dựng chương trình
hành động nhằm thực thi Hiệp đinh.
1.1.3.2.Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)

×