Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Quản lý ngoại hối ở việt nam trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.63 KB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾVÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
Quản lý ngoại hối của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thảo
Lớp : Anh 11
Khoá : K 43
Giáo viên hướng dẫn :ThS Vũ Thị Hiền


Hà Nội, tháng 05/2008
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong việc


hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Quản lý ngoại hối hiệu quả sẽ góp
phần đáng kể trong việc cân bằng cán cân thanh toán, kiểm soát sức mua của
đồng tiền, tận dụng nguồn vốn trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… tạo
điều kiện ổn định, phát triển kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay quản lý ngoại hối càng mang tính chiến lược và
thời sự cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, vấn đề nợ nước ngoài
của Argentina, là những bài học quý giá cho các nhà quản lý kinh tế vĩ mô
trong quản lý tiền tệ và kiểm soát ngoại hối. Việt Nam tuy không bị ảnh hưởng
nặng nề từ cuộc khủng hoản tài chính tiền tệ Châu Á như các quốc gia trong khu
vực nhưng trong những năm qua chúng ta gặp không ít khó khăn trong lĩnh vực
kinh doanh tiền tệ, thương mại và đầu tư quốc tế. Cụ thể, cán cân thanh toán
quốc tế chưa thực sự được cải thiện, giá trị VND không ổn định, nguồn vốn
nước ngoài đang có nguy cơ giảm sút, thị trường ngoại tệ chợ đen còn phát triển
mạnh, hiện tượng đô la hóa nền kinh tế, áp lực nợ nước ngoài gia tăng…Ngày
nay vấn đề quản lý ngoại hối đã trở thành nỗi bức xúc không chỉ đối với những
người trực tiếp kinh doanh tiền tệ mà đã lan ra nhiều chủ thể có hoạt động kinh
doanh gắn liền với ngoại tệ
Quản lý ngoại hối là việc làm phức tạp do hoạt động quản lý ngoại hối
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác của nền kinh tế vĩ mô. Các vấn
đề vừa tác động lên nhau vừa ảnh hưởng lên mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế: ổn
định giá cả, hạn chế hay phát triển hiện tượng đô la hoá nền kinh tế, hiệu quả
của công cuộc cải cách nền kinh tế, hoạt động ngoại thương, đầu tư quốc tế, vay
mượn nước ngoài…Quản lý ngoại hối được xem là hữu hiệu khi nó phù hợp với
nội dung của chính sách tiền tệ, và mục tiêu phát triển của nền kinh tế
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


2

Hơn nữa, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập sâu rộng

cũng đồng nghĩa việc quản lý nhà nước về ngoại hối phải đối mặt với hàng loạt
các vấn đề mới mẻ và phức tạp. Các biến động trong khu vực và trên thế giới
cũng như các cam kết song phương và đa phương trong lĩnh vực quản lý ngoại
hối (thỏa thuận tăng trưởng và Giảm nghèo với IMF, cam kết trong Hiệp định
thương mại Việt Mỹ, cam kết khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO…) đòi hỏi việc quản lý ngoại hối ngày càng linh
hoạt, hợp lý và kịp thời.
Nhận thức được tầm quan trọng của yêu cầu trên, việc nghiên cứu quản lý
ngọai hối nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện, phù hợp với những biến đổi
trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam và thế giới là hết sức cần thiết và cấp
bách. Xuất phát từ thực tế đó ―Quản lý ngoại hối của Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập‖ được chọn làm đề tài nghiên cứu của khoá luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý ngoại hối, chính
sách quản lý ngoại hối, khoá luận làm rõ chính sách quản lý ngoại hối của Việt
Nam trong thời gian qua, và đánh giá hoạt động quản lý ngoại hối của chính phủ
thông qua tác động của nó tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, hoạt
động xuất nhập khẩu, và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó đưa ra các
định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới chính sách quản lý ngoại hối
phù hợp với bối cảnh hội nhập của Việt nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các quan điểm, các biện pháp
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Quản lý ngoại hối chi phối đến tất cả các lĩnh vực,
các hoạt động trong nền kinh tế. Những thay đổi trong quản lý ngoại hối không
chỉ tác động đến chính sách tiền tệ mà còn ảnh hưởng đến chính sách kinh tế đối
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


3


ngoại, đến hoạt động sản xuất và chi phối lĩnh vực tiêu dùng, đến thương mại
trong nước và quốc tế, đầu tư nội địa và vay mượn nước ngoài, thị trường chính
thức và thị trường tự do, giá cả hàng hoá và giá trị tiền tệ
Trong phạm vi giới hạn nhất định, khoá luận không nghiên cứu sâu tất cả
các vấn đề trên mà chỉ tiếp cận hoạt động quản lý ngoại hối theo hướng quan sát,
đánh giá tình hình quản lý ngoại hối của chính phủ qua các thời kỳ, đặc biệt
trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay, được thể hiện thông qua hoạt động của các
NHTM, đến hoạt động ngoại thương, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi nghiên cứu khoá luận có sử dụng phương pháp nghiên cứu
thống kê, dự báo, phân tích- tổng hợp, đối chiếu, so sánh. Các số liệu trong khoá
luận tổng hợp từ các nghiên cứu đã được thực hiện các vấn đề có liên quan mà
không qua kiểm sát và điều tra riêng. Trong khoá luận còn sử dụng các đường
lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống,
khẳng định kết quả và đưa ra giải pháp.
5. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về quản lý ngoại hối
Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam những năm vừa qua
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
ngoại hối phù hợp với bối cảnh hội nhập
Em xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sỹ Vũ Thị Hiền, người đã trực
tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho em trong thời gian qua. Em cũng xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã cho em
những kinh nghiệm bổ ích trong công tác nghiên cứu khoa học và trong quá
trình hoàn thành luận văn.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập



4


CHƢƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1.1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGOẠI HỐI
1.1.1 Khái niệm ngoại hối
Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá gắn liền với việc không
ngừng mở rộng quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, lao động, công
nghệ v.v…Các quan hệ này không chỉ bó hẹp trong phạm vi một lãnh, một quôc
gia mà đã lan toả ra toàn cầu. Cùng với việc mở rộng phạm vi hoạt động, các
nhà kinh doanh cũng không ngừng hoàn thiện phương tiện thanh toán, dự trữ.
Bên cạnh công cụ chi trả cổ điển như vàng, bạc; ngày nay nhiều phương tiện
thanh toán hiện đại đã được các quốc gia đưa vào sử dụng.Các phương tiện này
gọi chung là ngoại hối.
Có nhiều quan điểm khác nhau về ngoại hối. Một số nhà kinh tế cho rằng
ngoại hối là phương tiện thanh toán, dự trữ được thể hiện dưới dạng ngoại tệ bao
gồm thương phiếu, chi phiếu, chứng từ có giá bằng ngoại tệ, số dư có trên tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng nước ngoài v.v Điểm đặc biệt của cách nhận định
này là vàng, kim khí quý, đá quý không được xem là ngoại hối. Một số khác
thừa nhận ngoại hối là toàn bộ tiền nước ngoài, phương tiện chi trả bằng ngoại
tệ, chứng từ có giá bằng ngoại tệ, đá quý v v Việc thừa nhận vàng bạc, đá qúy,
có phải là ngoại hối hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chuyển đổi của
đồng tiền. Đối với các đồng tiền có khả năng chuyển đổi thấp, vàng, bạc, đá qúy
là một thành phần không thể thiếu trong ngoại hối. Với các đồng tiền mạnh có
khả năng chuyển đổi cao vàng, bạc, đá quý thường được xem là hàng hoá có giá
trị cao hơn là ngoại hối.
Theo Pháp lệnh ngoại hối của Việt Nam được Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 2005, Ngoại hối bao gồm:
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập



5

- Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền
chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực;
- Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu
đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
- Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của
người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào
và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
- Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường
hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong
thanh toán quốc tế.
Ngoại hối là một phần tài sản quốc gia; là phương tiện thanh toán quan
trọng trong các giao dịch thương mại, đầu tư quốc tế; là yếu tố cực kỳ cần thiết,
thường xuyên được chuyển đổi cho nhau nhằm thực hiện các hoạt động kinh
doanh, đầu tư, chuyển tiền giữa các cá nhân, tổ chức, chính phủ của một quốc
gia với các cá nhân, tổ chức chính phủ của các quốc gia khác hoặc với tổ chức
quốc tế. Trong chuyển đổi, giá trị đồng tiền được tính toán, so sánh với nhau và
được biểu hiện qua tỷ giá hối đoái.
1.1.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá là một trong những công cụ cơ bản của nhà nước trong quản lý và
điều hành vĩ mô. Thông qua sự can thiệp vào tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng, Nhà nước có thể điều chỉnh các hoạt động tài chính, tiền tệ nhằm
đảm bảo các mục tiêu kinh tế nhất định trong từng thời kỳ. Nó là một bộ phận
hữu cơ đặc biệt quan trọng của chính sách tiền tệ nói chung và chính sách quản
lý ngoại hối nói riêng trong việc thực hiện hoạt động kinh tế quốc tế.


Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


6

1.1.2.1 Khái niệm tỷ hối đoái
Theo quan điểm kinh tế học, tỷ giá hối đoái là phạm trù kinh tế quan trọng
trong thương mại quốc tế, là công cụ đo lường giá trị tương đối giữa các đồng
tiền và là phương tiện cạnh tranh hữu hiệu giữa các quốc gia trong thương mại,
đầu tư quốc tế. Tỷ giá ảnh hưởng tới giá cả và tác động đến hoạt động kinh tế xã
hội trong và ngoài nước.
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan
giữa giá trị của hai đồng tiền phát sinh trong các hoạt động liên quan đến xuất
nhập khẩu, đầu tư quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế…Hoặc tỷ giá là giá cả của
một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác.
Trong khoá luận, tỷ giá được hiểu là giá cả của đơn vị tiền tệ nước này thể
hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
1.1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá là một loại giá; nên nó được điều tiết
bởi quan hệ cung cầu tiền tệ. Các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ là
các yếu tố tác động đến tỷ gía hối đoái. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá bao
gồm:
- Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
Cầu ngoại tệ của một quốc gia bắt nguồn từ nhu cầu nhập khẩu và cung
ngoại tệ xuất phát từ khả năng xuất khẩu của quốc gia đó. Nói cách khác cung
cầu ngoại tệ của nền kinh tế được quyết định bởi kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Tỷ giá cân bằng khi cung cầu gặp nhau, tỷ giá sẽ
biến đổi khi cung cầu ngoại tệ dao động. Nếu giá trị nhập khẩu tăng nhanh hơn
mức giá trị xuất khẩu thì cầu ngoại tệ tăng nhanh hơn cung. Kết quả là tỷ giá lên
giá. Và ngược lại khi cán cân thanh toán của quốc gia thặng dư, cung ngoại tệ

trong nền kinh tế dồi dào sẽ tạo áp lực ép tỷ giá giảm.
- Chuyển tiền một chiều
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


7

Các giao dịch chuyển tiền một chiều bao gồm các khoản viện trợ không
hoàn lại, chuyển lợi nhuận, trả lãi, thanh toán tiền thuê, kiều hối … Các hoạt
động này tạo nên các luồng tiền chuyển ra hoặc vào quốc gia, làm thay đổi cung
cầu ngoại tệ và tác động đến tỷ giá hối đoái. Nếu một quốc gia có khoản chuyển
tiền vào trong nước, cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là bản tệ lên giá. Ngược lại,
các quốc gia có số khoản tiền ròng ra quốc tế cầu ngoại tệ của các nước này sẽ
tăng và bản tệ giảm giá.
- Đầu tư quốc tế
Đầu tư nước ngoài gồm các khoản đầu tư trực tiếp và các khoản đầu tư
gián tiếp quốc tế. Các giao dịch này tạo nên nguồn cung cầu ngoại tệ cho nền
kinh tế thông qua hoạt động chuyển và thu hồi vốn đầu tư, chuyển tiền lãi, cổ
tức, lợi nhuận về nước sau một chu kỳ kinh doanh; tiền gửi tại ngân hàng nước
ngoài hoặc tiền gửi ngoại tệ của người không cư trú…
Khi nhận được các khoản đầu tư nước ngoài, cung ngoại tệ của một nước
sẽ tăng. Ngược lại, khi các nhà đầu tư trong nước chuyển vốn ra nước ngoài
kinh doanh, cầu ngoại tệ của quốc gia chuyển vốn sẽ tăng. Vì vậy trong điều
kiện các nhân tố khác không đổi giá trị bản tệ của một quốc gia sẽ tăng nếu quốc
gia đó có luồng vốn đầu tư ròng vào trong nước; và bản tệ của một quốc gia sẽ
giảm khi quốc gia này có khoản đầu tư ròng ra nước ngoài.
Bên cạnh tác động của lượng vốn đầu tư, tỷ giá hối đoái còn bị ảnh hưởng
bởi tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, cũng như độ rủi ro của các nước nhận vốn
đầu tư.
- Lạm phát

Trong trờng hợp lạm phát xảy ra ở một nứơc thì đồng tiền nước này sẽ
giảm giá đối ngoại với tỷ lệ tương đương với tỷ lệ lạm phát. Trong trường hợp
lạm phát xảy ra ở hai nước thì đồng tiền của một nước sẽ giảm giá nếu tỷ lệ lạm
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


8

phát của nước này cao hơn so với nước kia và tỷ lệ giảm giá tương đương với
phần chênh lệch giữa hai nước.
- Chính sách tài chính kinh tế của một quốc gia
Đó là các chính sách lãi suất, thuế quan, hạn ngạch, giá cả… trong đó
công cụ lãi suất được sử dụng nhiều nhất và tỏ ra hiệu quả nhất. Với các yếu tố
khác không đổi, khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu sẽ có tác động làm tăng mặt
bằng lãi suất thị trường, hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chảy vào, làm cung
ngoại tệ tăng, làm tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm xuống, đồng thời khi lãi
suất cho vay cao thì tiền nội tệ trong lưu thông sẽ được thu về ngân hàng, làm
giảm sức ép mất giá nội tệ. Và ngược lại khi NHTW giảm lãi suất chiết khấu.
- Yếu tố tâm lý
Tâm lý kỳ vọng của người dân về tỷ giá cũng một phần tác động đến sự
tăng giảm giá trị của đồng tiền một nước. Những biến cố về kinh tế, chính trị, xã
hội của một quốc gia có thể tạo ra các làn sóng gửi tiền, rút tiền, mua hoặc bán
ngoại tệ để tự bảo hiểm tài sản của mọi người trước tác động tiêu cực của các
diễn biến đó.
1.1.2.3. Các chế độ tỷ giá
Tuỳ theo mức độ can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái mà có các
loại tỷ giá sau:
- Chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó nhà nước tuyên bố sẽ duy
trì không thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó hoặc với

một rổ các ngoại tệ nào đó.
Đặc trưng của chế độ tỷ giá này là: Nhà nước thực hiện hoạt động mua
bán lượng dư cung hay cầu với tư cách là người mua bán cuối cùng. Những dự
báo về thay đổi tỷ giá trên thị trường bằng không.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


9

- Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi là một chế độ tỷ giá trong đó tỷ giá hối đoái
được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường, trực tiếp là
theo quy luật cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Đặc trưng của chế độ tỷ giá này là: Nhà nước không có bất kỳ sự can
thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ, cũng như không có bất kỳ một cam
kết nào về chỉ đạo, điều hành tỷ giá.
Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt:
Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt là một chế độ tỷ giá hối đoái có sự kết
hợp giữa hai chế độ tỷ giá hối đoái nói trên. Trong đó, tỷ giá hối đoái sẽ được
xác định trên thị trường theo quy luật cung cầu về ngoại tệ, Chính phủ can thiệp
vào thị trường khi tỷ giá hối đoái có những biến động mạnh.
Đặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá này: tỷ giá được xác định và thay đổi
hoàn toàn tuỳ thuộc vào tình hình cung cầu trên thị trường. Nhà nước tuyên bố
một mức biến động đối với tỷ giá và chỉ can thiệp vào thị trường với tư cách là
người mua bán cuối cùng khi tỷ giá trên thị trường có những biến động mạnh,
vượt mức cho phép.
1.1.2.4. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế
Biến động của tỷ giá ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế đất
nước, đặc biệt là với một nền kinh tế mở theo hướng thị trường như Việt Nam
hiện nay. Với vai trò là một công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ, tỷ giá hối

đoái có vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mực tiêu sau:
- Ổn định giá trị đồng tiền, nâng cao uy tín của đồng tiền quốc gia và đảm
bảo vấn đề chủ quyền tiền tệ.
- Khuyến khích xuất khẩu, trên cơ sở đó tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước, giảm dần thâm hụt cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


10

- Hạn chế nhập khẩu để bảo hộ cho nền sản xuất trong nước.
- Tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, góp phần quan trọng trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
1.1.3. Thị trƣờng ngoại hối
1.1.3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Theo nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối là nơi thực hiện trao đổi, mua bán
ngoại hối mà giá cả của nó được thiết lập trên quan hệ cung cầu tiền.
Theo nghĩa rộng, thị trường ngoại hối là nơi thực hiện các nghiệp vụ liên
quan đến việc chuyển đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác, tiền gửi ngoại tệ,
tín dụng ngoại tệ, tài trợ ngoại thương, hợp đồng có kỳ hạn về ngoại tệ, hoán đổi
tiền tệ…Thị trường ngoại hối thường được nghiên cứu dưới hai dạng: thị trường
trao ngay và thi trường kỳ hạn.
1.1.3.2. Chức năng của thị trường ngoại hối
Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên
của một trong các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại, đó là: nhằm
dịch vụ cho khách hàng các giao dịch thương mại quốc tế
Ngoài ra, thị trường ngoại hối còn có một số chức năng khác như:
+ Giúp luân chuyển các khoản đầu tư quốc tế, tín dụng quốc tế, các giao
dịch tài chính quốc tế khác giữa các quốc gia.

+ Thông qua thị trường ngoại hối, mà giá trị đối ngoại của tiền tệ được
xác định một cách khách quan theo quy định của luật cung cầu của thị trường.
+ Thị trường ngoại hối cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho
các ngân hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư và cho vay
quốc tế bằng các hợp đồng như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, quyền
chon, tương lai.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


11

+ Thị trường ngoại hối là nơi để Ngân hàng trung ương tiến hành can
thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
1.1.3.4. Các thành viên của thị trường
Nhóm khách hàng mua bán lẻ:
Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa
quốc gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại
hối nhằm phục vụ cho mục đích chính của mình (chứ không nhằm mục đích
kinh doanh ngoại hối - kiếm lời khi tỷ giá thay đổi). Thông thường, nhóm khách
hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau mà mua bán qua hệ thống
ngân hàng thương mại.
Các Ngân hàng thương mại:
Các NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm cung cấp dịch vụ cho
khách hàng mà chủ yếu là mua hộ, bán hộ cho nhóm khách hàng mua bán lẻ và
thông qua đó, NHTM thu một khoản phí; NHTM cũng có thể tiến hành giao
dịch kinh doanh cho chính mình, tức là mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ
giá thay đổi.
Những nhà môi giới ngoại hối:
Tại mỗi trung tâm tài chính quốc tế, các nhà môi giới ngoại hối chuyên
nghiệp hoạt động giúp các ngân hàng thực hiện các lệnh mua và bán ngoại hối.

Nhà môi giới ngoại hối thu thập hầu hết các lênh mua, bán ngoại tệ từ các ngân
hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua, và chào bán cho khách
hàng một cách nhanh nhất với giá ưu việt nhất. Đồng thời các nhà mô giới ngoại
hối nhận được một khoản phí từ các ngân hàng.
Các Ngân hàng Trung ương.
Mặc dù hầu hết các đồng tiền các nước phát triển được thả nổi từ năm
1973, nhưng trên thực tế, các ngân hàng trung ương vẫn thường xuyên can thiệp
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


12

bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng
lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi.
Trong cơ chế tỷ giá cố định, can thiệp của NHTW lên thị trường ngoại hối
là bắt buộc nhằm duy trì tỷ giá trong một biên độ nhất định. NHTW tiến hành
mua nội tệ vào khi cung nội tệ lớn hơn cầu; và tiến hành bán nội tệ ra khi cầu
lớn hơn cung trên thị trường ngoại hối, nhờ đó tỷ giá được duy trì cố định.
1.2. QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1.2.1. Chính sách quản lý ngoại hối
1.2.1.1. Khái niệm quản lý ngoại hối
Là một quá trình gồm việc hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện, kiểm
tra giám sát, phân tích đánh giá….ngoại hối và các giao dịch liên quan đến ngoại
hối.
Quản lý ngoại hối là việc làm phức tạp do hoạt động kiểm soát ngoại hối
có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động kinh tế vĩ mô khác. Các hoạt động
này vừa tác động lên nhau, vừa ảnh hưởng lên mọi lĩnh vực trong nền kinh tế
như: lạm phát, hạn chế hay phát triển hiện tượng đô la hoá, hiệu quả của công
cuộc cải cách nền kinh tế, hoạt động ngoại thương, đầu tư quốc tế, vay mượn
nước ngoài…Quản lý ngoại hối là nhiệm vụ quan trọng của chính phủ trong việc

điều hành chính sách tiền tệ.
1.2.1.2. Khái niệm chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối là tập hợp các giải pháp về tích luỹ, dự trữ,
sử dụng và trao đổi các đồng tiền nước ngoài trong mối tương quan với đồng
tiền trong nước một cách tối ưu, bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển cao một cách ổn định. Chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách
về thị trường ngoại hối; chính sách tỷ giá; chính sách kết hối; chính sách luân
chuyển, lưu thông, kinh doanh và thanh toán ngoại hối…
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


13

Chính sách quản lý ngoại hối là một phần quan trọng đối ngoại của chính
sách tài chính - tiền tệ, do vậy việc xây dựng chính sách quản lý ngoại hối phải
trên cơ sở phát triển thị trường tiền tệ trong nước và có sự hội nhập với thị
trường tiền tệ quốc tế. Đồng thời việc điều hành chính sách ngoại hối cũng cần
phải chú trọng đến khả năng phối hợp với các chính sách trên phạm vi quốc tế.
1.2.1.3. Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối luôn thay đổi cho phù hợp với
nền kinh tế, chính trị, đối ngoại…của quốc gia trong từng thời kỳ. Theo pháp
lệnh ngoại hối được UBTV Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005, thì nội dung
của chính sách quản lý ngoại hối :
- Chủ thể của quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối của hầu hết các quốc gia trên
thế giới là việc làm của chính phủ. Thông thường, chính phủ ủy nhiệm cho một
số cơ quan ngang bộ đảm nhận công việc này. Tại Việt Nam, Chính phủ giao
cho Thống đốc Ngân hàng nhà nước có trách nhiện trực tiếp quản lý ngoại hối.
Ngoài ra phối hợp quản lý ngoại hối cùng với NHNN còn có các bộ, cơ quan
của chính phủ, ủy ban các cấp.

- Đối tượng quản lý ngoại hối
Ở đây cần phân biệt rõ đối tượng quản lý ngoại hối không phải là bản thân
ngoại hối mà là các tổ chức, cá nhân có ngoại hối hay có hoạt động ngoại hối.
Bời vì việc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này là quản lý chính những
hành vi xử sự của những người có ngoại hối hay có hoạt động ngoại hối.
Đối tượng quản lý ngoại hối là những tổ chức, cá nhân liên quan đến
ngoại hối và hoạt động ngoại hối, chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quản lý
ngoại hối. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp của các cá
nhân tham gia hoạt động ngoại hối, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


14

nước ngoài tại Việt nam, các đối tượng của quản lý ngoại hối trên được phân
thành người cư trú và người không cư trú.
- Phạm vi quản lý ngoại hối
Phạm vi quản lý ngoại hối bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến
ngoại hối của quốc gia. Đó là, toàn bộ hoạt động làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ
như giao dịch thương mại, đầu tư, hoạt động chuyển tiền một chiều mang tính
quốc tế, tỷ giá hối đoái; trạng thái ngoại hối của các định chế tài chính; thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường vàng, bạc, đá quý…
1.2.1.4. Phân loại chính sách quản lý ngoại hối
Tùy theo mức độ can thiệp, kiểm soát ngoại hối của chính phủ, chính sách
quản lý ngoại hối có thể được chia thành các loại sau:
- Chính sách nhà nước độc quyền quản lý ngoại hối
Chính sách nhà nước độc quyền quản lý ngoại hối bị quyết định bởi quan
điểm Chính phủ độc quyền quản lý ngoại thương, và nắm giữ toàn bộ hoạt động
kinh tế đối ngoại của đất nước. Trong chính sách này, Chính phủ ấn định tỷ giá
một các chủ quan, duy ý chí. Tỷ giá do chính phủ ban hành được sử dụng trong

tất cả các giao dịch chuyển đổi giữa nội tệ và ngoại tệ có được từ các giao dịch
thương mại, đầu tư, vay mượn quốc tế. Mọi giao dịch về ngoại hối phải được
thực hiện tại các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Các hoạt động
bán, kinh doanh, tàng trữ ngoại hối trong xã hội bị nghiêm cấm toàn bộ. Vì đặc
tính nêu trên, chính sách độc quyền quản lý ngoại hối phù hợp với nền kinh tế
hướng nội, kế hoặch hóa, tập trung cao độ
- Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối
Đặc trưng cơ bản của chính sách này là Chính phủ không độc quyền nắm
giữ hoạt động kinh tế đối ngoại, nhưng chính phủ quản lý gắt gao toàn bộ hoạt
động xuất nhập khẩu, kiểm soát chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối. Trong
chính sách này, các tổ chức, cá nhân có nguồn thu chi ngoại tệ được phép mở tài
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


15

khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Các tổ chức, các nhân buộc phải bán toàn bộ số
ngoại tệ thu được cho ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Khi cần ngoại
tệ thanh toán các giao dịch với nước ngoài, các đơn vị này phải được sự cho
phép của các cơ quan có thẩm quyền và được các NHTM bán ngoại tệ. Các giao
dịch trong nước buộc phải thực hiện bằng nội tệ. Chính sách này được áp dụng
tại các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
- Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối
Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối được quyết định bởi quan điểm mở
rộng quan hệ thương mại quốc tế đến tất cả các thành phần kinh tế, nới lỏng hoạt
động ngoại thương và đầu tư quốc tế của Chính phủ. Chính phủ quản lý ngoại
hối thông qua thị trường hối đoái. Với tư cách là một thành viên của thị trường
hối đoái, NHTW điều tiết thị trường thông qua việc đặt lệnh mua bán ngoại tệ.
Các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế được chủ động sử dụng nguồn thu ngoại
tệ của mình. Hiện tượng ngoại tệ hóa nền kinh tế phát triển. Khi cần tập trung

ngoại tệ Chính phủ sẽ sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để thu hút ngoại tệ trong
nền kinh tế. Chính sách này phù hợp với quốc gia muốn đẩy nhanh tốc độ thu
hút nguồn ngoại tệ trong và ngoài nước nhằm thực hiện tốt quá trình cải cách
nền kinh tế
- Chính sách tự do quản lý ngoại hối.
Chính sách tự do quản lý ngoại hối được thiết lập trên nền tảng tự do hóa
thương mại và đầu tư quốc tế của chính phủ. Chính phủ giữ vai trò điều tiết hoạt
động ngoại thương, ngoại hối ở tầm vĩ mô. Các rào cản thương mại được tháo
dỡ, chu chuyển hàng hóa và vốn quốc tế được tự do hóa hoàn toàn. Thị trường
hàng hóa và thị trường ngoại hối vận hành hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Điều này có nghĩa giá cả hàng hóa và tỷ giá được quyết định bởi yếu tố cung
cầu trong nền kinh tế. Chính sách tự do quản lý ngoại hối thường phù hợp với
các nước có nền kinh tế phát triển theo xu hướng hội nhập, thị trường chứng
khoán, thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ cao, nguồn ngoại tệ phong phú.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


16

1.2.2. Mục tiêu của quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối là một bộ phận của quản lý kinh tế vĩ mô; vì vậy mục
tiêu quản lý ngoại hối được quyết định bởi mục tiêu phát triển kinh tế của quốc
gia trong từng thời kỳ nhất định. Mục tiêu quản lý ngoại hối tổng thể mà hầu hết
các quốc gia đều phấn đấu là đạt được sự cân đối giữa nền kinh tế đối nội và
kinh tế đối ngoại.
Để đạt được các mục tiêu này quản lý ngoại hối phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
1.2.2.1 Đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia gồm cán cân vãng lai, cán
cân vốn và tài sản dự trữ. Sự tăng giảm các khoản mục trong cán cân thanh toán

làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế; và ngược lại, những thay đổi
trong quản lý ngoại hối sẽ tác động mạnh đến chu chuyển ngoại tệ của đất nước.
Hoạt động quản lý ngoại hối được xem là hiệu quả khi nó đảm bảo khả năng chi
trả của một quốc gia trong từng thời kỳ. Khi cán cân thanh toán thâm hụt, chính
phủ phải hướng hoạt động quản lý ngoại hối sao cho hạn chế nhập khẩu, khuyến
khích xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, tập trung nguồn ngoại tệ trong dân cư…
nhằm hạn chế thâm hụt. Và ngược lại, với các quốc gia thặng dư trong cán cân
thanh toán nguồn ngoại tệ dồi dào sẽ làm tăng giá trị bản tệ mà hậu quả của nó
là làm giảm sút khả năng cạnh tranh của những nước này trên thị trường thế
giới. Trong trường hợp này, chính phủ cần thiết lập các biện pháp quản lý ngoại
hối để khuyến khích hoạt động đầu tư hải ngoại, tận dụng các tiềm năng kinh tế,
đẩy mạnh sản xuất và phát triển giao thương quốc tế.
1.2.2.2. Ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát
Theo học thuyết ngang giá sức mua, tỷ giá của 2 đồng tiền thể hiện mối
tương quan về sức mua của hai đồng tiền, do vậy tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ
với giá cả. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá thường xuyên biến động nhưng giá
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


17

cả hàng hoá cần ổn định để nâng cao đời sống người dân, khuyến khích sản xuất
phát triển…Như vậy, trong quản lý ngoại hối chính phủ cần thiết lập các giải
pháp hữu hiệu để can thiệp, chấn chỉnh kịp thời tính bất ổn của tỷ giá góp phần
ổn định thị trường, phát triển sản xuất, đồng thời tạo tâm lý an tâm cho các nhà
đầu tư.
Giữ vững giá trị bản tệ, kiềm chế lạm phát là một trong những mục tiêu
quan trọng của quản lý ngoại hối. Trong nền kinh tế mở, giá trị bản tệ được thiết
lập dựa trên cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Khi cung cầu biến động theo
chiều hướng bất lợi, thông qua các biện pháp như: thiết lập cơ chế xác định tỷ

giá, quy định tỷ lệ kết hối, co giãn biên độ mua bán ngoại tệ, kết hợp với các
chính sách lãi suất, tín dụng…chính phủ có thể tác động đến cung cầu tiền tệ
nhằm duy trì mức tỷ giá nhất định để giữ giá trị bản tệ, kiểm soát lạm phát.
1.2.2.3. Kiểm soát tình trạng đô la hoá nền kinh tế
Thực tế cho thấy, đối với các nước vừa chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch
hoá sang cơ chế thị trường, hiện tượng đô la hoá (ĐLH) nền kinh tế có nguy cơ
ngày càng tăng cao. Đô la hoá là hiện tượng công dân của một quóc gia (khu
vực) sử dụng ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi cao- chủ yếu là USD- làm
phương tiện dự trữ, công cụ thanh toán, thậm chí làm thước đo giá trị. Hiện
tượng này được biểu hiện dưới hai hình thức; một là, số lượng ngoại tệ lưu
thông trong nền kinh tế cao; hai là, xu hướng chuyển từ bản tệ sang ngoại tệ
mạnh khi có một biến động bất thường trong nền kinh tế vĩ mô cao.
Trong những điều kiện cụ thể, ĐLH có thể phát huy những mặt tích cực
như tăng cung ngoại tệ, giảm áp lực lạm phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế
khi đồng bản tệ quá suy yếu. Nếu lạm dụng, để kéo dài với mức độ cao thì ĐLH
sẽ gây tác hại ở thời kỳ sau, đặc biệt khi đồng nội tệ đã phục hồi và nền kinh tế
đang phát triển. Cụ thể, ĐLH làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm cho thị trường
ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ lấn át các quan
hệ mua bán ngoại tệ. ĐLH làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền, tạo
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


18

điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước.
Nhà nước không những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát
hành đồng nội tệ. Về dài hạn, ĐLH có những tác động tiêu cực đối với tăng
trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính
sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ
thống ngân hàng vì NHTW không thực hiện được vai trò ―Người cho vay cuối

cùng‖ của mình.
1.2.3. Công cụ quản lý ngoại hối
1.2.3.1. Tỷ giá
Mức độ tác động của công cụ tỷ giá đến hiệu quả quản lý ngoại hối phụ
thuộc việc lựa chọn chế độ tỷ giá của Chính phủ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi
hoàn toàn, tỷ giá được quyết định hoàn toàn theo quy luật cung cầu tiền tệ. Điều
này có nghĩa Chính phủ không thể can thiệp trực tiếp vào việc hình thành tỷ giá
và không thể sử dụng tỷ giá làm phương tiện điều tiết chính sách tài chính, tiền
tệ quốc gia. Nói cách khác, trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, vai trò của
công cụ tỷ giá trong việc điều hành chính sách quản lý ngoại hối là rất mờ nhạt.
Dưới chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát và cố định tỷ giá, Chính phủ các
nước luôn tác động vào tỷ giá và sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để
thực hiện mục tiêu quản lý ngoại hối. Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, các
Chính phủ luôn dùng tỷ giá làm công cụ thực hiện chiến lược đối ngoại, kích
thích ngoại thương, mở rộng nguồn vốn nước ngoài…nhằm khơi nguồn ngoại
hối và góp phần củng cố giá trị bản tệ và bình ổn giá cả.
Tuỳ theo chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ mà cơ chế điều
hành tỷ giá có thể thay đổi. Chẳng hạn, để phục vụ cho chính sách nhà nước độc
quyền quản lý ngoại hối, Chính phủ sử dụng chế độ tỷ giá cố định và duy ý chí.
Ngược lại chế độ tỷ giá linh hoạt được xem là phù hợp với chính sách tự do hoá
ngoại hối.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


19

Như vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung và của hoạt động kiểm
soát ngoại hối nói riêng là yếu tố quan trọng mang tính quyết định trong việc lựa
chọn tỷ giá. Tuy nhiên, do tỷ giá là một phạm trù rất phức tạp, nên trong quá
trình vận hành, tỷ giá luôn tác động ngược lại hiệu quả quản lý ngoại hối. Nó sẽ

chỉ ra những khiếm khuyết, những chỗ chưa phù hợp với chính sách quản lý
ngoại hối và quyết định hiệu quả công việc quản lý ngoại hối.
1.2.3.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một phần của thị trường hối đoái.
Đó là nơi các định chế tài chính trung gian của một quốc gia trao đổi, mua bán
ngoại hối. Nói cách khác, trong phạm vi một quốc gia thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng là điểm gặp gỡ cung và cầu ngoại tệ và là nơi xác định tỷ giá. Thông
qua thị trường, NHTW- cơ quan quản lý tiền tệ của Chính phủ- có thể nắm bắt
thông tin, kiểm soát, quản lý, điều tiết tỷ giá nhằm thực hiện mục tiêu của chính
sách ngoại hối. Bằng việc đặt lệnh mua, lệnh bán cuối cùng, NHTW sẽ điều tiết
hoạt động ngoại hối của các tổ chức tài chính trung gian và ổn định tiền tệ. Cụ
thể, khi cung ngoại tệ vượt cầu ngoại tệ, làm giá ngoại tệ giảm quá mức cho
phép, NHTW sẽ đặt lệnh mua ngoại tệ nhằm giảm áp lực nâng giá bản tệ; và
ngược lại, khi cầu ngoại tệ vượt cung, bản tệ có nguy cơ mất giá mạnh, gây bất
lợi cho chính sách tài chinh quốc gia, NHTW sẽ bán ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại
tệ để điều hoà nhằm làm giảm cơn khát ngoại tệ của nền kinh tế
1.2.3.3. Kết hối
Kết hối là việc cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ phải
bán ngoại tệ theo một tỷ lệ nhất định, trong một thời hạn xác định, cho định chế
tài chính được phép kinh doanh ngoại tệ. Kết hối là công cụ của NHTW nhằm
tập trung nguồn ngoaị tệ cho các nhu cầu ngoại hối hợp lý của quốc gia trong
từng thời kỳ.
Về bản chất kết hối là công cụ kiểm soát trực tiếp, áp đặt của NHTW.
Công cụ này thường được áp dụng trong trường hợp niềm tin của công chúng
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


20

vào bản tệ bị suy giảm, nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia không đáp ứng đủ

cung ngoại tệ của nền kinh tế. Cũng như các công cụ kiểm soát ngoại hối khác,
chính sách kết hối chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, nếu duy trì lâu nó sẽ tác động
xấu làm giảm hiệu quả quản lý ngoại hối như hạn chế xuất khẩu, gia tăng rủi ra
cho các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ ngoại thương…
Khi nền kinh tế tương đối ổn định, thị trường hối đoái hoạt động hiệu quả,
quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia tương đối dồi dào, bản tệ tạo được niềm tin
trong công chúng… kết hối sẽ không còn ý nghĩa, vì lúc này các tổ chức có
nguồn thu ngoại tệ sẽ tự nguyện bán ngoại hối và nắm giữ tài sản của mình bằng
ngoại tệ.
1.2.3.4. Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường, hoán đổi tiền tệ không chỉ là một nghiệp vụ
kinh doanh tiền tệ đơn thuần mà nó còn là công cụ của chính sách quản lý ngoại
hối giúp NHTW điều hoà tiền tệ và lưu thông và quản lý quỹ dự trữ ngoại tệ một
cách hiệu quả.
Thật vậy, khi tài sản nợ ngoại tệ tại NHTM tăng đột biến, trong khi mức
tăng tài sản có ngoại tệ không tương xứng; nhu cầu vay bản tệ trong nền kinh tế
tăng cao; NHTW có thể mua trao ngay đồng thời bán kỳ hạn một lượng ngoại tệ
nhất định cho các NHTM. Qua nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, NHTW không những
kiểm soát được lượng tiền bơm ra tiền ngoài lưu thông mà còn giúp các NHTM
thảo mãn nhu cầu vốn của khách hàng; đồng thời cân bằng trạng thái ngoại hối.
Bên cạnh các công cụ nêu trên, để hoạt động quản lý ngoại hối có thể hiệu
quả, NHTW cần có sự phối hợp hài hoà, đồng bộ với các chính tài chính tiền tệ
khác như: lãi suất, tín dụng, đầu tư quốc tế, thuế….
1.3. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI
HỐI VÀ CÁC NHÂN TỐ KHÁC TRONG NỀN KINH TẾ
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


21


1.3.1. Chính sách quản lý ngoại hối là công cụ thực hiện chính sách kinh tế
đối ngoại, hỗ trợ chính sách ngoại thƣơng và đầu tƣ quốc tế.
Chính sách quản lý ngoại hối và chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, chính sách kinh tế đối
ngoại là yếu tố quyết định chiến lược, phương hướng hoạt động của chính sách
ngoại hối; chính sách ngoại hối là một trong các phương tiện hữu hiệu góp phần
thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại. Khi một nước với mục tiêu mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, thì nước đó sẽ tiến hành nới lỏng quản lý ngoại hối
như tiến hành tự do hoá các giao dịch vãng lai, tự do hoá một số giao dịch vốn
nhằm tạo điều kiện cho hoạt động ngoại thương và đầu tư quốc tế. Và với một
chính sách quản lý ngoại hối phù hợp sẽ góp phần tăng nguồn dự trữ ngoại hối
quốc gia, đảm bảo nguồn cung và cầu ngoại tệ, tạo sự bình ổn tỷ giá, giảm bớt
sự lệ thuộc vào bên ngoài, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức linh hoạt và
chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh
tế đối ngoại phát triển.
Một trong các yếu tố cơ bản của quản lý ngoại hối là cơ chế điều hành tỷ
giá. Tỷ giá là công cụ đo lường giá trị giữa các đồng tiền, vì vậy nó có tác dụng
như một công cụ cạnh tranh trong thương mại và giao lưu quốc tế. Mức độ
hướng ngoại cuả nền kinh tế càng cao bao nhiêu, thì mối quan hệ giữa bản tệ và
ngoại tệ càng lớn bấy nhiêu. Vì vậy, dù các giao dịch hối đoái ra đời từ các hoạt
động tài chính, thương mại, đầu tư quốc tế, nhưng khi đã hình thành, cơ chế tỷ
giá nói riêng và chính sách ngoại hối nói chung sẽ tác động mạnh mẽ các giao
dịch trên.
Thật vậy, trong thương mại quốc tế, khi bản tệ hạ giá so với ngoại tệ,
hang xuất khẩu tính bằng ngoại tệ sẽ trở nên rẻ hơn, điều này làm nâng cao khả
năng cạnh tranh của quốc gia đó trong thương trường quốc tế; đồng thời làm
giảm nhu cầu nhập khẩu do hàng hoá nước ngoài tính bằng bản tệ trở nên đắt
hơn. Tuy nhiên, nếu tình trạng phá giá bản tệ kéo dài, tác động này sẽ giảm hiệu
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập



22

lực, do giá cao của hàng nhập (nguyên vật liệu) được chuyển vào giá thành hàng
xuất đẩy giá hàng xuất khẩu lên cao làm triệt tiêu các lợi điểm do tỷ giá mang
lại. Tương tự, khi bản tệ được đánh giá cao so với ngoại tệ, hoạt động nhập khẩu
được khuyến khích do hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn, và hoạt động xuất khẩu bị
hạn chế do giá hàng trở nên đắt hơn. Nếu tình trạng này bị kéo dài, cán cân vãng
lai sẽ bị thâm hụt.
Trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối góp phần
đáng kể trong việc khơi tăng và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Một cơ
chế tỷ giá hợp lý, phản ánh đúng gía trị bản tệ sẽ tạo tâm lý an tâm cho các nhà
đầu tư quốc tế. Một chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng, linh hoạt, phù
hợp với sự biến động của nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế toàn cầu là một
trong những yếu tố căn bản hạn chế rủi ro tỷ giá, rủi ro quốc gia. Đây là giải
pháp quan trọng trong việc khơi tăng nguồn vốn nước ngoài.
1.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối là một bộ phận trong chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ bao gồm chính sách lãi suất, tín dụng, đầu tư….và quản
lý ngoại hối. Là một phần của chính sách tiền tệ, nên chính sách quản lý ngoại
hối có mối quan hệ chặt chẽ với chính sách tiền tệ. Mối quan hệ này được hiểu ở
hai góc độ; một là, mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối được định đoạt bởi
chính sách, phương hướng phát triển của chính sách tiền tệ; hai là, chính sách
quản lý ngoại hối có mối quan hệ tương hỗ với các chính sách tiền tệ khác.
Thứ nhất, chính sách tiền tệ quyết định mục tiêu của chính sách quản lý
ngoại hối. Thật vậy, tuỳ theo mục đích mở rộng hay thắt chặt mà Chính phủ ban
hành các quy chế kiểm soát ngoại hối tương xứng. Chẳng hạn, để đối phó với
lạm phát, ổn định tiền tệ, cơ chế tỷ giá phải được thiết lập sao cho giữ vững giá
trị bản tệ so với ngoại tệ; nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế bị kiểm soát
chặt chẽ; các NHTM phải xem xét cẩn trọng trước khi cung ứng ngoại tệ cho
khách hàng; mọi hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài bị kiểm soát chặt

Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


23

chẽ…Ngược lại, để kích thích nền kinh tế tăng trưởng, Chính phủ có thể nới
lỏng chính sách quản lý ngoại hối và linh hoạt hoá cơ chế tỷ giá.
Thứ hai, để chính sách tiền tệ được thực hiện một cách hiệu quả, nội dung
quản lý ngoại hối phải phù hợp với các quy định trong chính sách tín dụng, đầu
tư, dự trữ bắt buộc…trong từng thời kỳ nhất định. Đây là mối quan hệ qua lại
giữa các yếu tố cấu thành nên chính sách tiền tệ. Nếu việc phối hợp giữa các
chính sách bộ phận không hoàn mỹ, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm sút
nghiêm trọng. Chẳng hạn, để đối phó với hiện tượng đô la hoá nền kinh tế ngày
càng gia tăng phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các yếu tố: lãi suất ngoại tệ, lãi
suất bản tệ. tỷ giá. Theo đó, các quy định cho vay bằng ngoại tệ phải được mở
rộng tối đa trong phạm vi cho phép, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của bản tệ và ngoại tệ
phải thay đổi theo hướng nâng cao mức dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ và hạ
thấp mức dự trữ đối với bản tệ.
1.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối quyết định khả năng chuyển đổi của
bản tệ.
Tính chuyển đổi của đồng tiền được hiểu nôm na là việc tự do sử dụng và
trao đổi tiền tệ theo một tỷ giá nhất định. Theo nghĩa rộng, khả năng chuyển đổi
hoàn toàn của đồng tiền cho phép người sở hữu nó có thể chuyển đổi thường
xuyên, không hạn chế bản tệ với bất kỳ đồng tiền nào trên thế giới theo một tỷ
giá xác định.
Khả năng chuyển đổi của đồng tiền có nhiều mức độ khác nhau. Theo
IMF, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi khi Chính phủ cam kết
việc không hạn chế chuyển đổi tiền tệ trong các giao dịch vãng lai, giao dịch
vốn, và các chu chuyển khác. Trong đó, yêu cầu tối thiểu là tiền tệ phải có khả
năng chuyển đổi trên tài khoản vãng lai. Nói cách khác, một đồng tiền được xem

là có khả năng chuyển đổi tối thiểu khi nó được tự do chuyển đổi trên tài khoản
vãng lai. Các đồng tiền mạnh trên thế giới đều có khả năng chuyển đổi cao.
Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập


24

Trong quản lý tiền tệ khả năng chuyển đổi của bản tệ đóng vai trò quyết
định trong việc lựa chọn chính sách quản lý ngoại hối. Thật vậy, với đồng tiền
có khả năng chuyển đổi, do các chủ thể trong nền kinh tế được phép tự do
chuyển bản tệ thành ngoại tệ khi có nhu cầu hợp lý; vì vậy, các biện pháp mang
tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối như quy định tỷ lệ kết hối, khống chế
biên độ mua bán ngoại tệ của các NHTM, quản lý thị trường ngoại tệ ―chợ
đen‖… là không cần thiết.
Đối với đồng tiền không có khả năng chuyển đổi, Chính phủ phải chủ
động tập trung nguồn ngoại tệ thông qua việc bắt buộc các doanh nghiệp, thậm
chí cá nhân có nguồn thu ngoại tệ kết hối theo một tỷ lệ nhất định; kiểm soát
chặt chẽ việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài; can thiệp trực tiếp lên tỷ giá.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, chính sách quản lý ngoại hối cũng
tác động trở lại đối với khả năng chuyển đổi của đồng tiền. Chẳng hạn, để tạo
khả năng chuyển đổi cho bản tệ, các quy định kiểm soát ngoại hối như chủ động
phá giá tiền tệ để khuyến khích xuất khẩu, tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế,
quy định tỷ lệ kết hối cao; đồng thời hạn chế luồng ngoại tệ chuyển ra nước
ngoài….sẽ tạo điều kiện gia tăng nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia. Nguồn dự trữ
ngoại hối dồi dào là một trong những điều kiện cơ bản tạo nền tảng cho việc tự
do chuyển đổi của bản tệ thành ngoại tệ. Điều này có nghĩa, trong một số trường
hợp nhất định, chính sách quản lý ngoại hối có thể trở thành một trrong những
phương tiện hữu hiệu trong việc thiết lập tính chuyển đổi cho bản tệ.
1.3.4. Chính sách quản lý ngoại hối góp phần phát triển sản xuất, ổn định
giá cả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng.

Chính sách quản lý ngoại hối được xem là hiệu quả khi nó kích thích nền
sản xuất trong nước phát triển, ổn định đời sống nhân dân góp phần tăng trưởng
kinh tế. Trƣớc hết, như đã phân tích ở trên, chính sách quản lý ngoại hối tác
động mạnh đến ngoại thương và đầu tư quốc tế nên cũng ảnh hưởng gián tiếp
đến sản xuất và tiêu dùng nội địa. Bởi vì các yếu tố đầu vào và thành phẩm của

×