Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Vai trò của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.81 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
***








KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM




Sinh viên thực hiện : Đặng Thu Hiền
Lớp : Anh 1
Khóa : K45A - TCNH
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Tú Uyên






Hà Nội, tháng 05 năm 2010
MỤC LỤC


CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT0
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU0
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chƣơng I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 3
I. Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán 3
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán 3
1.1.1. Khái niệm về chứng khoán: 3
1.1.2. Các quan điểm về TTCK 4
1.2. Phân loại thị trường chứng khoán 6
1.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các luồng vốn 6
1.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 6
1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch 7
1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hoá lưu hành trên thị trường
chứng khoán 7
1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán 8
1.3.1. TTCK góp phần thúc đẩy việc tích luỹ và tập trung vốn. 8
1.3.2. TTCK phản ánh hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. 8
1.3.3. TTCK tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở
cửa, cải cách kinh tế. 8
II. Hoạt động của ngân hàng thƣơng mại trên thị trƣờng chứng khoán9
2.1. Các khái niệm 9
2.1.1. Định nghĩa ngân hàng thương mại 9
2.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại 9
2.1.3. Cơ cấu tổ chức 9
2.1.4. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 10

2.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán 10
2.2.1. Mô hình hoạt động 10
2.2.2. Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên TTCK 12
III. Mối quan hệ giữa ngân hàng thƣơng mại và thị trƣờng chứng
khoán 23
3.1. Hoạt động của NHTM tạo ra hàng hoá cho TTCK 23
3.2. Vai trò trung gian chứng khoán của các ngân hàng thương mại 24
3.3. Điều chỉnh cung cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán 24
3.4. Vai trò của ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin
trên thị trường chứng khoán 24
3.5. Vai trò của ngân hàng thương mại về định chế quản lý thị trường
chứng khoán 25
IV. Điều kiện cần thiết để ngân hàng thƣơng mại hoạt động trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam 25
4.1. Điều kiện pháp lý 25
4.2. Uy tín, tiềm lực tài chính, quy mô và chất lượng hoạt động 26
4.3. Công nghệ ngân hàng 28
4.4. Trình độ nhân sự 28
Chƣơng II: 30
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 30
I. Quá trình hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam 30
1.1. Sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam 30
1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 31
1.2.1. Nguyên tắc trung gian 31
1.2.2. Nguyên tắc đấu giá: 31
1.2.3. Nguyên tắc công khai 32
1.3. Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán 32

1.3.1. Giai đoạn đầu (2000-2005) 32
1.3.2. Giai đoạn năm 2006-2007 32
1.3.3. Giai đoạn 2008- nửa đầu năm 2009 33
1.3.4. Giai đoạn nửa cuối năm 2009 đến nay: 33
II. Thực trạng các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK Việt Nam 34
2.1. Khái quát về các ngân hàng thương mại Việt Nam 34
2.2. Tình hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường
chứng khoán 36
2.2.1. Hoạt động phát hành chứng khoán 36
2.2.2. Kinh doanh chứng khoán 40
2.2.3. Hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán các giao dịch
chứng khoán 44
2.2.4. Hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu 45
2.2.5. Hoạt động môi giới chứng khoán 48
2.2.6. Hoạt động tư vấn, đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán 49
2.2.7. Về thực hiện vai trò ngân hàng giám sát 52
2.2.8. Về góp vốn thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán 53
III. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM 53
3.1. Những thành tựu đạt được 53
3.1.1. Hoạt động phát hành chứng khoán tạo nguồn cung hàng hoá
quan trọng cho TTCK. 53
3.1.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán đã được triển khai khá tốt,
góp phần tạo hiệu quả cho thị trường, và thực hiện đa dạng hoá hoạt
động của các NHTM. 54
3.1.3. Hoạt động tư vấn, môi giới chứng khoán phát triển khá mạnh 55
3.1.4. Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán tạo cơ sở
phát triển hàng hoá cho thị trường, và hỗ trợ nhà phát hành huy động
vốn. 55
3.2. Hạn chế và nguyên nhân 56
3.2.1. Hạn chế trong việc phát huy vai trò của NHTM đối với sự phát

triển của TTCK 56
3.2.2. Nguyên nhân. 58
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI PHÁT HUY VAI TRÒ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM 62
I. Định hƣớng phát triển thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn
2010-2020 62
II. Định hƣớng phát triển NHTM Việt Nam 63
III. Một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các NHTM trong tiến
trình xây dựng và phát triển của TTCK ở Việt Nam 64
3.1. Giải pháp vĩ mô 65
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về ngân hàng,
tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích NHTM tham gia hoạt động chứng
khoán. 65
3.1.2. Thực hiện các biện pháp phát triển TTCK. 66
3.1.3. Tiếp tục tiến hành cổ phần hoá các NHTMNN nhằm đổi mới
phương thức tạo vốn, thay đổi phương thức quản lý điều hành, góp
phần lành mạnh hoá và minh bạch hoá tình hình tài chính của các
NHTM. 66
3.1.4. Xây dựng và phát triển một số NHTM theo mô hình tập đoàn
kinh tế đa năng. 67
3.1.5. Đẩy mạnh thị trường OTC với nòng cốt là hoạt động của các
NHTM và CTCK. 67
3.1.6. Tiếp tục khuyến khích phát triển các công ty quản lý quỹ do các
NHTM tự thành lập hoặc liên doanh với nước ngoài. 68
3.2. Giải pháp vi mô 68
3.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính của các NHTM. 68
3.2.2. Nâng cao trình độ nhân sự 69
3.2.3. Hiện đại hoá và quốc tế hoá công nghệ ngân hàng 69
3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTM 70

3.2.5. Xây dựng mô hình hoạt động của NHTM trên thị trường chứng
khoán 71
3.2.6. Kết hợp hoạt động của NHTM với hoạt động của công ty chứng
khoán thuộc ngân hàng thương mại 72
IV. Một số kiến nghị 73
4.1. Đối với UBCKNN 73
4.1.1. Phối hợp với NHNN xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho thị
trường chứng khoán phát triển. 73
4.1.2. Thực hiện điều hành TTCK theo nguyên tắc liên thông. 74
4.2. Đối với các NHTM 74
4.2.1. Có chiến lược thích hợp phát triển các dịch vụ phi ngân hàng. 74
4.2.2. Chủ động, tích cực phối hợp giữa các NHTM với TTCK. 74
4.2.3. Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro 74
4.2.4. Nâng cao năng lực tài chính 75
4.2.5. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ liên quan đến TTCK 76
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CK
Chứng khoán
CTCK
Công ty chứng khoán
CTCP
Công ty cổ phần
IPO
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
NHNN
Ngân hàng Nhà Nước
NHTM

Ngân hàng Thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN
Ngân hàng thương mại Nhà Nước
SGDCK
Sàn giao dịch chứng khoán
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TTCK
Thị trường chứng khoán
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTLKCK
Trung tâm lưu ký chứng khoán
TPCĐ
Trái phiếu chuyển đổi
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước




DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 1: Quy mô vốn điều lệ hiện nay và dự kiến của một số ngân hàng cổ
phần 38
Bảng 2: Giá trị vốn hoá cổ phiếu ngân hàng 38
Bảng 3: Lợi nhuận trước thuế của một số ngân hàng trong năm 2009 39

Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn/tổng dư nợ phân theo nhóm ngân hàng
60
.




















1
LỜI NÓI ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Đi vào hoạt động từ tháng 7/2000, đến nay, Thị trường chứng khoán Việt
Nam đã có những bước phát triển đáng kể, bước đầu góp phần hình thành một mô
hình thị trường vốn tương đối toàn diện, tạo lập và vận hành kênh huy động vốn

trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tầm quan trọng có tính tất yếu của thị trường
chứng khoán đã thu hút sự tham gia của không chỉ các cá nhân nhà đầu tư, mà còn
của các tổ chức, trong đó, có các định chế tài chính mà cụ thể là hệ thống Ngân
hàng thương mại.
Với tiềm lực kinh tế lớn mạnh trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại
có vai trò quan trọng và quyết định đến sự phát triển của thị trường chứng khoán
Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian qua, sự tham gia và tác động của loại hình tổ
chức tín dụng này trên thị trường chứng khoán vẫn chưa thực sự rõ nét và hiệu quả.
Điều này được thể hiện cụ thể như các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại liên
quan đến chứng khoán vẫn còn đơn giản, mang tính chất thăm dò, thử nghiệm, chưa
kể một số nghiệp vụ vẫn chưa được thực hiện, nhiều ngân hàng vẫn chưa khẳng
định được vị thế của mình trên thị trường chứng khoán do những nguyên nhân từ
phía cơ sở pháp lý, cũng như từ chính các ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán trong
mối liên hệ với các Ngân hàng thương mại trong thời gian tới, đề tài: “Vai trò của
Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của Thị trường chứng khoán Việt
Nam” đã được lựa chọn nghiên cứu.
II. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm những mục đích chính sau:
 Làm rõ thực trạng của những nghiệp vụ trực tiếp và gián tiếp được thực
hiện bởi các Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam
 Đánh giá về những đóng góp tích cực cũng như những hạn chế của Ngân
hàng thương mại đối với sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.

2
 Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp và
kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường
chứng khoán Việt Nam.
III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các Ngân hàng thương mại, công ty

chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại và hoạt động của các tổ chức
này trên Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Không gian: Các NHTM tại Việt Nam.
Thời gian: 25/1 đến 15/5/2010
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp
với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên
cứu.
V. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về Thị trường chứng khoán và hoạt động của
Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy các Ngân hàng thương mại phát huy vai trò
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhân đây, tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới sự giúp đỡ nhiệt tình,
tận tâm của Ths. Nguyễn Tú Uyên trong quá trình hoàn thành khoá luận. Do thời gian có
hạn, nguồn tài liệu hạn chế, khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được sự ý kiến đóng góp, bổ sung để khoá luận được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Đặng Thu Hiền.

3
Chƣơng I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
I. Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán
1.1. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán

1.1.1. Khái niệm về chứng khoán:
1

Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Đó là những tài sản
tài chính dài hạn vì nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu có thể bán nó để
thu tiền về.
Chứng khoán thường được chia thành 4 nhóm chính: Cổ phiếu, Trái phiếu,
các công cụ chuyển đổi, và các công cụ phái sinh.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ
phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể được phát
hành vào lúc thành lập công ty hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở rộng.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ trái phiếu (người cho vay) một khoản
tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả
khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm
giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng
khoán khác. Thông thường có: cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ phiếu
thường, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được sinh ra từ một chứng
khoán gốc và giá cả của nó phụ thuộc vào giá cả của chứng khoán gốc. Có các loại
chứng khoán phái sinh cơ bản là:
 Quyền mua cổ phần là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông


1
Đào Lê Minh (2002), Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia, tr. 72 – 97, Hà Nội.


4
hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt
phát hành cổ phiếu phổ thông mới, tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong
công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và
trong một thời hạn nhất định.
 Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền
được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu
thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này được
phát hành khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà
đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém
thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối
với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
 Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó, một người mua và một
người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một
thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
 Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ
mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo
một mức giá đã định trước.
 Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định.
1.1.2. Các quan điểm về TTCK
Một trong những kênh dẫn vốn quan trọng, làm cầu nối giữa bên cần vốn
và bên có vốn trong nền kinh tế đó là thông qua các trung gian tài chính theo
nguyên tắc tín dụng, trong đó, quan trọng nhất là hệ thống ngân hàng. Đây được coi
là kênh dẫn vốn gián tiếp. Một hình thức khác mà ở đó, người có vốn có thể có điều
kiện chuyển vốn của mình trực tiếp vào sản xuất thông qua nguyên tắc đầu tư, đó là
khi dòng vốn được lưu chuyển thông qua thị trường chứng khoán chứ không phải hệ
thống ngân hàng.




5
Sơ đồ về Thị trƣờng tài chính




Có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán.
 Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là
khác nhau vì công cụ của thị trường chứng khoán ngoài các chứng khoán dài hạn
còn có các giấy tờ ghi nợ ngắn hạn (các tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 3
tháng hoặc 6 tháng).
 Quan điểm thứ 2 cho rằng thị trường vốn và thị trường chứng khoán là
thống nhất với nhau. Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế phát triển, Thị trường
chứng khoán (TTCK) được quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có
điều khiển, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài
hạn giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh
doanh chứng khoán.
Tóm lại, thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó, người ta
mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời, qua đó,
thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.

6
Các công cụ trên thị trường chứng khoán bao gồm: Cổ phiếu, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay
thế chấp…
1.2. Phân loại thị trƣờng chứng khoán
1.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các luồng vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường chứng khoán sơ cấp và

thị trường chứng khoán thứ cấp.
 Thị trường chứng khoán sơ cấp:
Thị trường chứng khoán sơ cấp còn gọi là thị trường phát hành chứng
khoán. Đây là nơi mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu ra công
chúng. Như vậy, thị trường chứng khoán sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng
nhất của TTCK, đó là chức năng kinh tế: mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người
cần sử dụng, đưa nguồn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư, tạo ra hàng hoá cho thị
trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
 Thị trường thứ cấp:
Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường cấp 2, là nơi giao dịch, mua
bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Nếu như việc phát
hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút vốn đầu tư cho các đơn vị phát
hành thì việc giao dịch ở thị trường thứ cấp không góp phần làm tăng thêm một
đồng vốn huy động nào mà nhằm đảm bảo tính thanh khoản của các cổ phiếu được
phát hành. Thị trường thứ cấp giúp các nhà đầu tư muốn mua một cổ phiếu nào đó
có thể mua được và muốn bán cổ phiếu nào đó cũng có thể bán được.
1.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
TTCK được chia thành thị trường tập trung và phi tập trung
 Thị trường tập trung (Còn gọi là thị trường chứng khoán chính thức hay
thị trường chứng khoán có tổ chức).
Đây là thị trường chứng khoán tập trung, hoạt động đúng theo các quy định
của pháp luật. Các loại chứng khoán đã được đăng ký được giao dịch, mua bán tại
các sở giao dịch chứng khoán bằng các động tác đấu giá.
 Thị trường phi tập trung (OTC):

7
Đây là thị trường không có địa điểm tập trung những người môi giới,
những người kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng khoán, không có
khu vực giao dịch cụ thể, hoạt động giao dịch diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, vào thời
điểm và tại chỗ mà những người có nhu cầu mua bán chứng khoán gặp nhau.

1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch
TTCK được chia làm 2 loại: Thị trường giao ngay và thị trường tương lai:
 Thị trường giao ngay:
Thị trường giao ngay là thị trường giao dịch, mua bán theo giá của ngày
hôm đó, còn việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày, tuỳ
theo mỗi TTCK qui định riêng số ngày này.
 Thị trường tương lai:
Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp
đồng mà giá cả được thoả thuận ngay trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán
và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định ở tương lai.
1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hoá lưu hành trên thị trường
chứng khoán
TTCK được chia làm 3 loại: Thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị
trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán.
 Thị trường cổ phiếu:
Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch, mua bán các loại cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi. Những cổ phiếu ưu đãi gồm các loại: cổ phiếu ưu đãi
không nộp lãi, cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần, cổ phiếu
ưu đãi không tham dự chia phần, cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi được, cổ phiếu ưu đãi
có thể bồi hoàn được.
 Thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch, mua bán các loại trái phiếu
khác nhau, như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty.
 Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán:
Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán là thị trường giao dịch,
mua bán những hợp đồng về quyền lựa chọn, chứng quyền…

8
1.3. Vai trò của thị trƣờng chứng khoán
Sự phát triển của TTCK cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của nó đối

với nền kinh tế.
1.3.1. TTCK góp phần thúc đẩy việc tích luỹ và tập trung vốn.
Thực tế, đa số các dự án đầu tư cần lượng vốn lớn và thời gian tín dụng dài
mới có thể đem lại lợi nhuận lớn. Tuy nhiên các kênh tín dụng khác, như kênh tín
dụng ngân hàng lại không thể đáp ứng triệt để nhu cầu này do không thể chuyển hoá
vốn quá mức, dẫn đến tăng tỉ lệ các khoản vay khó đòi, đe doạ an toàn của các ngân
hàng. Khi này, thị trường chứng khoán là nơi tạo nguồn vốn trung và dài hạn quan
trọng. Trên thị trường sơ cấp, vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang
người cần vốn thông qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán. Trong khi
đó, thị trường thứ cấp tạo điều kiện cho các khoản đầu tư sinh lợi thông qua việc
mua đi, bán lại các chứng khoán, mà đồng thời vẫn đảm bảo nguồn vốn dài hạn
thường xuyên và ổn định cho các doanh nghiệp. Như vậy, thị trường chứng khoán
còn là nơi hỗ trợ hệ thống ngân hàng trong hoạt động cấp tín dụng của mình.
1.3.2. TTCK phản ánh hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Được xem là phong vũ biểu của nền kinh tế, chỉ số chứng khoán rất nhạy
cảm đối với những thay đổi của thị trường. Giá trị cổ phiếu của công ty tỷ lệ thuận
với lợi nhuận mà công ty đạt được. Vì vậy, chỉ số chung của thị trường chứng
khoán phản ánh mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung
và dài hạn.
1.3.3. TTCK tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở
cửa, cải cách kinh tế.
Điều này được thực hiện thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước
ngoài. Các quy định về tiêu chuẩn và quy ước niêm yết ở nước ngoài rất cao, đòi
hỏi chính các doanh nghiệp phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt chế độ công bố thông
tin, chế độ kế toán, kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng cách quản trị doanh
nghiệp và các điều lệ mẫu…, góp phần nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp
niêm yết.

9
II. Hoạt động của ngân hàng thƣơng mại trên thị trƣờng chứng

khoán
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Định nghĩa ngân hàng thương mại
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua ngày 12 tháng 12
năm 1997, sửa đổi, bổ sung ngày 15 tháng 6 năm 2004 định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
2.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Nhìn chung, Ngân hàng thương mại (NHTM) có 3 chức năng cơ bản: Chức
năng trung gian tài chính, chức năng tạo tiền, và chức năng sản xuất, trong đó, chức
năng trung gian tài chính là quan trọng nhất. Thực hiện chức năng này, ngân hàng
thương mại đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ
cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh
chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác. Ngoài ra, NHTM còn có chức năng
tạo tiền, tức là chức năng gia tăng khối lượng tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu
chuyển và phát triển nền kinh tế; và chức năng sản xuất, tức là việc huy động và sử
dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền
kinh tế.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Tuỳ theo hình thức sở hữu mà ngân hàng thương mại có cơ cấu tổ chức
khác nhau, trong đó có hai loại hình ngân hàng tiêu biểu: Ngân hàng thương mại
quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần.
 Ngân hàng thương mại quốc doanh: là ngân hàng thương mại trong đó
nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Ở Việt Nam hệ thống ngân hàng thương mại
quốc doanh hiện có Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu
Long, và Ngân hàng Chính sách-Xã hội.

10

 Ngân hàng thương mại cổ phần: là loại ngân hàng được thành lập dưới
hình thức công ty cổ phần. Hiện tại và trong tương lai, loại hình ngân hàng này ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra còn có: Ngân hàng thương mại liên doanh, Ngân hàng thương mại
100% vốn nước ngoài.
2.1.4. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Chương III-Luật các tổ chức tín dụng nêu ra các hoạt động của ngân hàng
thương mại bao gồm:
 Hoạt động huy động vốn
 Hoạt động cấp tín dụng
 Hoạt động dịch vụ thanh toán
 Hoạt động ngân quỹ
 Các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền
tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh
dịch vụ uỷ thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt
động ngân hàng.
2.2. Hoạt động của ngân hàng thƣơng mại trên thị trƣờng chứng
khoán
2.2.1. Mô hình hoạt động
Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán rất đa
dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông
thường. Mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng, tuỳ theo đặc điểm của hệ thống tài chính
và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước.
Có thể khái quát thành 3 mô hình cơ bản hiện nay:
 NHTM hoạt động theo mô hình ngân hàng đa năng toàn phần
Trong mô hình này, không có bất cứ sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân
hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các NHTM đa năng cho phép cung
cấp đầy đủ các dịch vụ: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Mô hình này được áp


11
dụng tại cộng hoà liên bang Đức, ngoài ra còn ở các nước thuộc Bắc Âu, Hà Lan,
Thuỵ Sĩ và Áo.
Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần cho phép các NHTM tận dụng triệt để
các lợi thế về nhân lực, vật lực để cung cấp các dịch vụ tổng hợp cho khách hàng.
Việc đa dạng hoá các dịch vụ tài chính cũng cho phép các NHTM đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh, san sẻ rủi ro giữa các lĩnh vực đầu tư, tăng khả năng chống đỡ của
các NHTM trước các biến động kinh tế. Tuy vậy, hoạt động ngân hàng đa năng
cũng bộc lộ một số hạn chế như không phát triển thị trường cổ phiếu vì các ngân
hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng dễ gây lũng đoạn thị trường, và
các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có, sẽ ảnh hưởng mạnh tới hoạt
động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách biệt giữa hai loại hình kinh
doanh này.
 NHTM hoạt động theo mô hình ngân hàng đa năng một phần
Trong mô hình này, các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải
thành lập các công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập, do vậy, loại bỏ được
nhược điểm của mô hình đa năng toàn phần, tạo ra sự độc lập tương đối giữa hoạt
động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mô hình đa năng một phần được
áp dụng tại vương quốc Anh, Canada, Úc. Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm
là tạo ra sự chồng chéo về tổ chức trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
 NHTM hoạt động theo mô hình chuyên doanh
Mô hình này thể hiện sự phân biệt có tính pháp lý giữa hai ngành ngân hàng
và chứng khoán. Hoạt động kinh doanh chứng khoán do các công ty độc lập,
chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được
tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho
hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Mô hình
này được áp dụng ở nhiều nước, đáng chú ý là Mỹ, Nhật Bản, Canada, Hàn quốc.
Tuy nhiên, mô hình chuyên doanh tỏ ra không còn phù hợp trước xu thế
phát triển của các tổ chức tài chính, trong đó, có các ngân hàng thương mại theo

hướng đa năng. Hiện nay, các nước áp dụng mô hình chuyên doanh cũng đang

12
chuyển sang áp dụng mô hình đa năng một phần bằng cách nới lỏng các điều kiện
để cho phép các NHTM tham gia thị trường chứng khoán, đặc biệt, khi mô hình
ngân hàng chuyên doanh gặp khó khăn sau khủng hoảng tài chính 2008-2009 vừa
qua làm ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ là Leman Brother sụp đổ dẫn đến
các ngân hàng đầu tư còn lại phải nhanh chóng chuyển đổi từ mô hình chuyên
doanh sang mô hình đa năng một phần.
2.2.2. Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên TTCK
Tổ chức trung gian tài chính trong đó có các NHTM đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển và nâng cao tính hiệu quả của thị
trường thông qua các hoạt động của họ trên TTCK.
Tuy nhiên, NHTM là tổ chức nhận tiền gửi trong đó bộ phận tiền gửi thường
chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn. Phần lớn những người gửi tiết kiệm trong ngân
hàng là các cá nhân, hộ gia đình. Khi tham gia sâu rộng trên TTCK, khả năng ngân
hàng bị vỡ nợ và phá sản rất dễ xảy ra nếu TTCK đi xuống. Điều này không chỉ tác
động tiêu cực tới cá nhân, hộ gia đình và gây ra sự náo động trong dân chúng mà
còn ảnh hưởng xấu đến sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính cũng như
của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, chính phủ các nước luôn kiểm soát hoạt động của
các NHTM hết sức chặt chẽ.
Theo quy định của hầu hết quốc gia, trên TTCK, các NHTM được phát hành
chứng khoán, thực hiện hoạt động ngân quỹ và tham gia cung cấp trực tiếp các dịch
vụ an toàn được đảm bảo liên quan đến TTCK như hoạt động lưu kỹ, thanh toán bù
trừ chứng khoán, hoạt động giám sát, hoạt động cho vay, mua và cầm cố chứng
khoán. Ngoài ra, đối với những hoạt động rủi ro cao như kinh doanh chứng khoán
có tính an toàn thấp, bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư vấn
đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán, các NHTM phải lập CTCK thành viên mới được phép tham gia vào
hoạt động này.

 Nghiệp vụ trực tiếp của NHTM trên TTCK.
<a> Nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường chứng khoán

13
Nhằm huy động vốn trung hạn (3 năm, 5 năm hay 10 năm) và dài hạn (trên
10 năm), các NHTM có thể phát hành các loại cổ phiếu và trái phiếu.
 Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu
Với nhu cầu dài hạn trên 10 năm, việc huy động tiền gửi hay phát hành
giấy tờ có giá ngắn hạn là không mấy khả thi. Khi này, NHTM có thể phát hành trái
phiếu. Trái phiếu do NHTM phát hành có thể coi là một loại trái phiếu công ty.
Bằng việc phát hành trái phiếu bán cho các nhà đầu tư, NHTM thu về được một
khối lượng nguồn vốn dài hạn dưới hình thức nợ vay. Như vậy, khi phát hành khi
phát hành trái phiếu, nguồn vốn hoạt động của NHTM tăng lên. Tuy nhiên, phát
hành trái phiếu không làm tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của
ngân hàng.
 Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu chuyển đổi là một loại chứng khoán bao hàm 2 giá trị: giá trị của
trái phiếu cùng với giá trị của việc lựa chọn chuyển đổi thành cổ phiếu tại một mức
giá thỏa thuận trước trong tương lai.
Trong một số điều kiện, huy động vốn thông qua phát hành Trái phiếu
chuyển đổi (TPCĐ) có nhiều ưu điểm vượt trội đối với doanh nghiệp phát hành,
đồng thời hấp dẫn với nhà đầu tư. Với doanh nghiệp phát hành, ưu điểm nổi bật của
TPCĐ là huy động được vốn với chi phí thấp hơn: lãi suất của phần trái phiếu trong
phát hành TPCĐ thường thấp hơn là lãi suất khi phát hành trái phiếu thông thường.
Một số doanh nghiệp có đánh giá tín dụng thấp, nhưng có tiềm năng tăng trưởng
cao sẽ có khả năng phát hành TPCĐ ở gần mức lãi suất thị trường nhờ độ hấp dẫn
về cơ hội chuyển đổi thành cổ phiếu tăng trưởng. Trong một số trường hợp, doanh
nghiệp không thể tăng nợ theo cách thông thường vì tỷ lệ nợ của công ty đã quá
cao; khi này, phát hành TPCĐ có thể là một lựa chọn nhằm đa dạng hóa kênh huy
động vốn. Ngoài ra, người mua TPCĐ sẽ chỉ được hưởng một tỷ lệ lãi suất cố định

cho đến thời hạn cho phép chuyển đổi. Trong thời gian này, lợi nhuận của công ty
chỉ được dành cho cổ đông hiện hữu, không bao gồm người mua TPCĐ.



14
 Huy động vốn dài hạn bằng phát hành cổ phiếu
Cổ phiếu nói chung là chứng nhận đầu tư vào công ty cổ phần. Các ngân
hàng thương mại cổ phần cũng là một dạng công ty cổ phần, do đó, có thể phát hành
cổ phiếu để huy động vốn cổ phần.
<b> Nghiệp vụ ngân quỹ
Trong hoạt động ngân quỹ, các NHTM thường đầu tư ngắn hạn vào các
chứng khoán có tính thanh khoản cao, chủ yếu nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu
thanh toán, dự phòng và tích trữ. Các chứng khoán thường được lựa chọn cho mục
đích này là trái phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được, trái
phiếu chính phủ.
Hoạt động ngân quỹ là cầu nối quan trọng giữa thị trường tín dụng và thị
trường chứng khoán. Khi thị trường tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn trên thị
trường tín dụng sẽ dịch chuyển sang thị trường chứng khoán thông qua hoạt động
kinh doanh chứng khoán của NHTM, ngược lại, khi nhu cầu tín dụng tăng, các
NHTM sẽ bán chứng khoán để tăng lượng vốn cho hoạt động tín dụng. Như vậy,
vốn không bị ứ đọng và tính thanh khoản được đảm bảo.
TTCK mở ra cơ hội cho hoạt động ngân quỹ của NHTM phát triển, qua đó,
các NHTM có thể duy trì tính thanh khoản, và đảm bảo khả năng thanh toán cũng như
tích trữ của mình. Tuy nhiên, hoạt động ngân quỹ đòi hỏi sự sẵn có của các công cụ có
tính thanh khoản cao, chi phí giao dịch thấp, và tính ổn định của thị trường. Đôi khi, sự
thiếu ổn định của TTCK đã ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán của các tổ chức tín
dụng và qua đó, có ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tín dụng.
<c> Nghiệp vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán
Đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao

dịch chứng khoán là các dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán mà các NHTM có
thể trực tiếp cung cấp trên TTCK bao gồm ở cả thị trường chính thức và thị trường
phi chính thức.
Giao dịch chứng khoán tại các Sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK), thị
trường phi tập trung, và thị trường các chứng khoán phái sinh…đều là hình thức
giao dịch có tổ chức giữa nhiều bên mua bán với nhau. Để luôn đảm bảo nghĩa vụ

15
thực hiện hợp đồng cũng như sự an toàn cho tất cả các bên tham gia mua bán, giảm
thiểu chi phí giao dịch, hình thức giao dịch có tổ chức đòi hỏi việc thanh toán tiền
và chuyển giao chứng khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức. Khi
giao dịch chứng khoán đã được xác nhận thực hiện, việc chuyển giao chứng khoán
và thanh toán tiền sẽ được thực hiện theo hình thức chuyển khoản trên các tài khoản
chứng khoán và tiền thông qua các bút toán ghi sổ, thay vì chuyển giao vật chất trực
tiếp như trong hình thức giao dịch tự phát. Để làm được điều này, chứng khoán
niêm yết hay đăng ký giao dịch trên TTCK cần phải giữ tập trung và bất động hoá ở
một nơi. Chính đòi hỏi này đã dẫn đến sự ra đời của loại hình dịch vụ đăng ký, lưu
ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán để hỗ trợ cho việc
thực hiện và hoàn tất các giao dịch chứng khoán trên các thị trường giao dịch chứng
khoán có tổ chức.
Các tổ chức cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh
toán các giao dịch chứng khoán thường là các ngân hàng lưu ký (NHTM được phép
lưu ký chứng khoán), các CTCK, được gọi chung là các tổ chức lưu ký. Các tổ chức
thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán là các ngân hàng thanh toán.
Đối với các NHTM, tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện hoạt
động đăng ký, lưu ký, bảo quản chứng khoán và đảm nhận thanh toán hộ các nhà
đầu tư qua hệ thống thanh toán bù trừ cũng mang lại cho họ nhiều lợi ích. Các
NHTM có thể thêm thu nhập, tăng khả năng giám sát và đảm bảo tính an toàn trong
các giao dịch chứng khoán.
<d> Hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu

Cho vay cầm cố cổ phiếu là việc ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách
hàng dựa trên việc cầm cố các cổ phiếu (niêm yết hoặc chưa niêm yết) mà người
khách đó nắm giữ thay vì cầm cố bất động sản hay động sản như trước đây. Hoạt
động này giúp ngân hàng tăng dư nợ cho vay một cách an toàn vì cổ phiếu đó có
tính thanh khoản cao hơn các tài sản kể trên. Ngoài ra, nghiệp vụ này được thực
hiện còn nhằm đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, phân tán rủi ro và tăng thu nhập
ổn định cho ngân hàng

16
Nhờ nghiệp vụ này của các NHTM, người sở hữu chứng khoán có thể dùng
khoản chứng khoán của mình thế chấp ở ngân hàng và vay vốn để lại tiếp tục đầu tư
chứng khoán, vốn của họ không bị ứ đọng mà luôn được linh hoạt luân chuyển.
Điều này làm cho tốc độ chu chuyển vốn của toàn xã hội tăng lên và làm tăng khả
năng cầu về chứng khoán của các nhà đầu tư cả trên thị trường tập trung cũng như
OTC. Từ đó, hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán của NHTM có tác dụng kích
thích tăng trưởng giao dịch chứng khoán trên TTCK
<e> Hoạt động ngân hàng giám sát
Bên cạnh các hoạt động trên, các NHTM còn trực tiếp thực hiện nghiệp vụ
ngân hàng giám sát cho các quỹ đầu tư chứng khoán.
Để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư, mỗi quỹ đầu tư công chúng khi thành
lập và đi vào hoạt động đều phải được giám sát bởi một ngân hàng độc lập với công
ty quản lý quỹ. Ngoài việc lưu giữ toàn bộ tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát có
trách nhiệm kiểm tra, giám sát thường xuyên để đảm bảo hoạt động của công ty
quản lý quỹ là phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ quỹ. Mọi hoạt động
thu chi của quỹ đều phải thực hiện qua ngân hàng giám sát
Hoạt động của các NHTM trên TTCK không chỉ bó hẹp ở những nghiệp vụ
mà ngân hàng được trực tiếp thực hiện, mà họ còn mở rộng hoạt động của mình
bằng cách thành lập CTCK độc lập để được tham gia vào những nghiệp vụ khác
trên thị trường.
 Nghiệp vụ gián tiếp của NHTM trên TTCK

<a> Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của NHTM trên thị trường chứng
khoán được diễn ra cả ở thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Trên thị trường sơ cấp, nhờ có tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử
dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò nhà đầu tư trên
thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư
trung và dài hạn.
Trên thị trường thứ cấp, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán được thực hiện
qua các hình thức sau:

17
 Kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu: thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo
thanh khoản cho thị trường.
 Sản phẩm phái sinh: các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh
như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ
phiếu trên thị trường. Sự kết hợp giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán
sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ), và bảo hiểm
rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
Ngoài ra, bản thân các ngân hàng cũng lập ra Công ty chứng khoán (CTCK)
trực thuộc và đổ vốn cho những đơn vị này kinh doanh chứng khoán. Nhờ có ưu thế
về thông tin và tiềm lực tài chính, các CTCK trực thuộc ngân hàng này có lợi thế
hơn hẳn khi tham gia TTCK.
<b> Nghiệp vụ phân phối và bảo lãnh:
Tại một số thị trường lớn trên thế giới, các trung gian tài chính trong đó có các
NHTM đóng vai trò quan trọng với tư cách là đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành.
Nhưng thị trường chứng khoán là nơi chứa đựng nhiều rủi ro. Do lo ngại sự
bất ổn định của thị trường chứng khoán có thể có tác động xấu cho hoạt động của
các NHTM cũng như cho nền kinh tế quốc dân nên luật pháp nhiều nước đã giới
hạn hoạt động này của các NHTM. Các ngân hàng chỉ được phép thực hiện bảo lãnh
phát hành đối với những chứng khoán có tính thanh khoản cao như trái phiếu chính

phủ. Còn hoạt động bảo lãnh phát hành đối với những chứng khoán có chất lượng
thấp hơn như trái phiếu và cổ phiếu công ty thì do các CTCK, công ty con của các
NHTM đảm nhận.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc hỗ trợ tổ chức phát hành huy động vốn
bằng cách nhận mua số chứng khoán phát hành và phân phối cho các nhà đầu tư.
Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11: Bảo lãnh phát hành là việc tổ
chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước
khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ
chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối
hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng
khoán ra công chúng.

×