Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng phương pháp, tiêu chí và quy trình đánh giá chương trình khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.57 KB, 73 trang )

BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
VIỆN ĐÁNH GIÁ KHOA HỌC
VÀ ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ
------------------------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ ÁN
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN ĐỂ XÂY DỰNG
PHƯƠNG PHÁP, TIÊU CHÍ VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG
TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Chủ nhiệm đề án: Nguyễn Thị Thu Oanh

8945
Hà Nội tháng 11 năm 2011
1


KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết của nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và cơng nghệ (KH&CN),
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết về KH&CN và khẳng định “Cùng với
giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát
triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước dựa
vào khoa học và công nghệ”.
Thực hiện các nghị quyết trên, Chính phủ đã liên tục tăng đầu tư
choKH&CN trong thập kỷ vừa qua (năm 1996 : 0,96% tổng chi Ngân sách; 1998 :
1,26%; 1999 : 1,28%; 2000- 2010 : 2%). Cùng với việc tăng đầu tư cho khoa học
và cơng nghệ, Chính phủ cũng quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện các
chương trình khoa học và cơng nghệ. Các chương trình KH&CN bắt đầu được xây
dựng và thực hiện từ những năm 80, cụ thể :


- Giai đoạn 1981-1985 : 76 chương trình tiến bộ khoa học-kỹ thuật trọng
điểm nhà nước phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân;
- Giai đoạn 1986-1990 : 56 chương trình tiến bộ khoa học-kỹ thuật cấp nhà
nước;
- Giai đoạn 1991-1995 : 31 chương trình KH&CN cấp nhà nước;
- Giai đoạn 1996-2000 : 18 chương trình KH&CN cấp nhà nước;
- Giai đoạn 2001-2005 : 20 chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước;
- Giai đoạn 2006-2010 : 14 chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước.
Kết thúc mỗi giai đoạn thực hiện, Ban Chủ nhiệm chương trình và Bộ Khoa
học và Công nghệ xây dựng báo cáo tổng kết các chương trình dựa vào kết quả
đánh giá nghiệm thu các đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm thuộc chương trình.
2


Trong báo cáo tổng kết chương trình của từng giai đoạn, các nội dung chủ yếu tập
trung vào việc tổng kết về tình hình thực hiện kế hoạch, sử dụng tài chính, liệt kê
kết quả cụ thể của các đề tài, dự án. Mặc dù báo cáo tổng kết có nêu được những
thành công và tồn tại, tuy nhiên chưa phân tích, đánh giá một cách hệ thống, chủ
yếu là những nhận xét, kiến nghị mang tính định tính.
Nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình KH&CN, thời gian qua, Bộ
Khoa học và Công nghệ đã ban hành một số văn bản quy định về công tác quản lý
chương trình, ví dụ : QĐ 18/2006/QĐ-BKHCN về việc ban hành “Quy chế tổ chức
quản lý hoạt động chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước
giai đoạn 2006-2010”; Thông tư 19/2011/TT-BKHCN về việc Quy định tổ chức
quản lý hoạt động Chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 20112015; Thông tư 20/2011/TT-BKHCN về Quy định tổ chức và hoạt động của Ban
Chủ nhiệm Chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2011-2015;
tuy nhiên chưa có văn bản quy định, hướng dẫn về đánh giá chương trình.
Đặc thù của các chương trình KH&CN là có tính liên ngành, được đầu tư
kinh phí trong một giai đoạn dài, tập hợp lực lượng từ nhiều cơ quan khoa học
công nghệ để thực hiện các mục tiêu lớn về khoa học và công nghệ của đất nước,

do đó việc quản lý và đánh giá các chương trình đóng vai trị rất quan trọng. Đánh
giá chương trình sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý biết : Liệu
chương trình có đi đúng hướng khơng? Chương trình có đem lại hiệu quả mong
đợi khơng? Những vấn đề nào cịn tồn tại trong q trình thực hiện và điều chỉnh
chúng như thế nào? Kết quả chương trình được đo lường ra sao? Đâu là thành
công, đâu là thất bại?...Với lý do như vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê
duyệt và giao cho Trung tâm Hỗ trợ đánh giá khoa học và công nghệ thực hiện đề
án “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng phương pháp, tiêu chí và

3


quy trình đánh giá các chương trình KH&CN” làm cơ sở xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật về đánh giá chương trình KH&CN.
II. Mục tiêu của đề án
Xây dựng phương pháp, tiêu chí và quy trình đánh giá các chương trình
KH&CN (bao gồm 4 giai đoạn đánh giá : thẩm định (đầu kỳ), giữa kỳ, cuối kỳ và
tác động).
III. Phạm vi và mục đích của đề án
- Phạm vi của đề án : Chương trình khoa học cơng nghệ đề cập trong đề án
này bao gồm các chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước (Chương trình
KC và KX do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý) và các chương trình khoa học
và cơng nghệ trọng điểm quốc gia (chương trình KH&CN thuộc các Bộ, ngành).
- Mục đích của đề án : Xây dựng tài liệu hướng dẫn đánh giá chương trình
KH&CN làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia đánh giá, nhà quản lý, hoạch
định chính sách, các đối tượng có liên quan trong hệ thống KH&CN và làm cơ sở
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về đánh giá chương trình KH&CN.
IV. Cách tiếp cận trong nghiên cứu
Hoạt động đánh giá KH&CN nói chung và đánh giá chương trình KH&CN
nói riêng cịn rất sơ khai ở Việt Nam, do đó nhóm thực hiện đề án chủ yếu phải

nghiên cứu qua tài liệu của nước ngoài, học hỏi bài học kinh nghiệm và các sáng
kiến có chọn lọc của một số đề tài, dự án đã thực hiện ở Việt Nam và của một số
nước (những nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta : Hàn Quốc, Trung Quốc
và những nước có truyền thống đánh giá lâu đời và trình độ đánh giá tiên tiến : Mỹ,
Canada, Ủy ban Châu Âu). Đồng thời trong q trình thực hiện nhóm tiến hành
nghiên cứu hiện trạng, trình độ quản lý KH&CN để đề xuất phương pháp luận
đánh giá phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam.

4


V. Phương pháp tiến hành
- Nghiên cứu văn bản pháp luật, tài liệu về đánh giá KH&CN và chương
trình KH&CN của Việt Nam và của nước ngồi;
- Thảo luận nhóm;
- Tham vấn ý kiến chuyên gia;
- Hội thảo khoa học.
VI. Sản phẩm của đề án
Bộ tài liệu “Hướng dẫn đánh giá chương KH&CN” áp dụng đánh giá 4 giai
đoạn : Đánh giá thẩm định (đầu kỳ); Đánh giá giữa kỳ; Đánh giá cuối kỳ và Đánh
giá tác động, gồm những nội dung sau :
- Tiêu chuẩn đánh giá
- Phương pháp đánh giá
- Quy trình đánh giá
- Tiêu chí đánh giá
- Lựa chọn thành viên hội đồng đánh giá
- Các bảng biểu thực hiện đánh giá.
B. NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ ÁN
I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGỒI NƯỚC VÀ TRONG NƯỚC


1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngồi nước
Trong hai thập kỷ qua, việc đổi mới công nghiệp dựa trên nền tảng là khoa
học và công nghệ được coi là động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Vấn đề này
đã làm cho các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu-phát triển (R&D) tại các
nước phát triển và cả các nước đang phát triển phải tìm tịi hướng đi phù hợp nhằm

5


nâng cao hiệu quả và hiệu suất của các chương trình R&D của các quốc gia. Trong
một điều kiện ngân sách cũng như các nguồn lực khác (con người, hạ tầng cho
nghiên cứu) là có hạn, đánh giá trở thành công cụ hữu hiệu và là tiêu chuẩn để xác
định mục đích và kinh phí cho các chương trình R&D.
Đánh giá là một công cụ thiết yếu cho thực tiễn quản lý hiệu quả. Đánh giá
không những là công cụ để đo lường sự thành cơng của chương trình mà cịn góp
phần vào thành cơng đó. Đánh giá giúp cho những nhà quản lý chương trình lập kế
hoạch, thẩm định, và thể hiện mục tiêu cần đạt là gì, quyết định phân bổ nguồn lực
như thế nào, học làm thế nào để sửa đổi và thiết kế lại chương trình, và ước tính
kết quả đầu ra dự kiến, hiệu quả và tác động của chương trình. Đánh giá cịn giúp
cung cấp thông tin về mức độ tin cậy của chương trình bằng việc trả lời cho câu
hỏi: liệu chúng ta đã làm những gì mà chúng ta nói là sẽ làm chưa?
1.1 Mỹ
Từ những năm 90, Mỹ đã ban bố một loạt các bộ luật và quy định pháp lý
bắt buộc các cơ quan trong đó có các cơ quan về khoa học và công nghệ thực hiện
việc đánh giá. Nói cách khác, đánh giá ở Mỹ là một hoạt động bao trùm lên tất cả
các hoạt động của chính phủ Mỹ. Ví dụ như Luật về Thực hiện và Kết quả của
Chính phủ (Government Performance and Results Act - GPRA) ban hành năm
1993 yêu cầu tất cả các chương trình của chính phủ Liên bang phải tn thủ các
u cầu về việc đánh giá nhằm tăng tính trách nhiệm, tính hiệu suất và hiệu quả
của các chương trình. Căn cứ theo Luật này, việc đánh giá phải bắt đầu từ lập kế

hoạch chiến lược, đặt ra mục tiêu và triển khai thực hiện. Tất cả các cơ quan chính
phủ Liên bang phải triển khai thực hiện đánh giá tuân thủ theo GPRA và báo cáo
kết quả đánh giá cho Quốc hội.
Văn phòng Quản lý và Ngân sách là cơ quan trực thuộc Tổng thống sẽ xem
xét đánh giá các chương trình trong q trình phân bổ kinh phí chủ yếu theo 3 tiêu
6


chí : sự phù hợp, chất lượng và kết quả. Tuy nhiên, khi đánh giá các chương trình
R&D, các tiêu chí này bộc lộ một số bất cập, chẳng hạn việc đo lường nghiên cứu,
đặc biệt là nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là một quá trình, do đó việc đo
lường kết quả nghiên cứu hàng năm một cách trực tiếp là khơng thực hiện được, vì
lợi ích của các tri thức mới vốn dĩ khó đốn trước. Lợi ích của nghiên cứu cơ bản
cần phải được đo bằng cách theo dõi theo tiến trình lịch sử trong một thời gian dài.
Theo dõi tiền sử sẽ giúp nhận biết một cách rõ ràng qua các phép đo, rằng lợi ích
đối với nước Mỹ trong việc dẫn đầu về nghiên cứu cơ bản là rất cao, chẳng hạn :
an toàn sự sống, phát triển các phát minh, tăng việc làm và phúc lợi. Lịch sử cũng
chỉ ra rằng nghiên cứu cơ bản trong khoa học và kỹ thuật đem đến những kết quả
ngoài sự kỳ vọng, hoặc các kết quả có thể xuất hiện sau nhiều năm, thậm chí vài
thập kỷ. Đối với nghiên cứu ứng dụng thì vấn đề có thể đơn giản hơn : nghiên cứu
ứng dụng thường xác định được các mốc thời gian để đạt được các kết quả và đóng
góp hàng năm cũng như kết quả cuối cùng, do đó có thể đo lường kết quả hàng
năm. Ví dụ, Bộ Năng lượng đã xây dựng chương trình R&D với mục đích là sản
xuất năng lượng mặt trời có giá rẻ hơn, như vậy có thể đo lường kết quả nghiên
cứu cuối cùng một cách trực tiếp căn cứ vào giá thành của pin mặt trời và kết quả
hàng năm căn cứ vào tiến độ đã xác định.
Để giải quyết các vấn đề về đo lường nghiên cứu khi thực hiện đánh giá các
chương trình R&D, Hội đồng Khoa học, Kỹ thuật và Chính sách cơng của Mỹ đã
kiến nghị: đối với chương trình nghiên cứu ứng dụng, các tổ chức phải đo lường
tiến bộ theo các kết quả thực tế, đối với chương trình nghiên cứu cơ bản, các tổ

chức phải đo lường sự phù hợp, chất lượng và sự dẫn đầu về trình độ nghiên
cứu. Đánh giá của chuyên gia cùng ngành được áp dụng rộng rãi, được sử dụng để
giúp các tổ chức trả lời ba loại câu hỏi cụ thể liên quan đến Luật về Thực hiện và
Kết quả của Chính phủ (GPRA) :

7


1) Chất lượng của chương trình nghiên cứu là gì?
2) Chương trình nghiên cứu có tập trung vào nội dung phù hợp nhất đối với
sứ mạng của tổ chức không?
3) Nghiên cứu được thực hiện có phải là đi đầu trong tri thức khoa học và
cơng nghệ khơng?
Nhằm tích hợp thơng tin về kết quả hoạt động vào q trình phân bổ ngân
sách, tháng 7 năm 2002, Mỹ công bố triển khai bộ công cụ để đánh giá hiệu quả
của các chương trình Liên bang gọi là PART (Program Assessment Rating Tool).
Mục tiêu của PART là đánh giá chương trình nhằm tạo cơ hội để thông báo và cải
tiến công tác lập kế hoạch và báo cáo của các tổ chức theo GPRA, xây dựng sự liên
kết giữa GPRA và quá trình phân bổ ngân sách một cách hệ thống và có ý nghĩa.
PART được xây dựng nhằm cung cấp phương pháp phù hợp để đánh giá và
xếp hạng chương trình thơng qua chính phủ Liên bang. PART xem xét đánh giá
tổng thể chương trình, từ việc thiết kế đến thực hiện và kết quả đạt được.
Các câu hỏi trong PART được chia thành 4 nhóm : 1. Mục tiêu và thiết kế
chương trình, 2. Kế hoạch chiến lược, 3.Quản lý chương trình và 4. Kết quả
chương trình. Điểm đánh giá chương trình sẽ được chấm căn cứ vào từng câu hỏi,
xếp hạng tổng thể về hiệu quả chương trình sẽ được ghi nhận. Có 5 loại xếp hạng :
rất hiệu quả, hiệu quả vừa phải, đạt (trung bình), khơng có hiệu quả và kết quả
khơng rõ.
Nội dung chấm điểm của PART gồm 25 câu hỏi. Những câu hỏi này được
phân thành 4 nhóm và mỗi nhóm được gán trọng số để tính điểm tổng thể :

1. Mục tiêu và thiết kế chương trình (5 câu hỏi)

: 20%

2. Kế hoạch chiến lược (8 câu hỏi)

: 10%

8


3. Quản lý chương trình (7 câu hỏi)

: 20%

4. Kết quả chương trình (5 câu hỏi)

: 50%

Ngồi 25 câu hỏi chính, tùy vào loại hình chương trình sẽ có các câu hỏi bổ
sung liên quan đến đặc tính cụ thể của chương trình. Đối với chương trình R&D,
ngồi 25 câu hỏi chung phải trả lời thêm 3 câu hỏi bổ sung :
1. Nếu được ứng dụng, có thể đánh giá và so sánh về lợi ích và nỗ lực của
chương trình với chương trình có cùng mục tiêu khác khơng?
2. Chương trình có sử dụng q trình lựa chọn ưu tiên khi hướng dẫn kêu gọi
tài trợ và quyết định phân bổ kinh phí khơng?
3. Đối với những chương trình R&D không tài trợ theo cạnh tranh, việc phân
bổ kinh phí và q trình quản lý chương trình có đảm bảo duy trì chất lượng của
chương trình khơng?
Mỗi câu hỏi trong 3 nhóm đầu của PART được trả lời theo dạng Có/Khơng.

Các câu hỏi ở nhóm 4 (Kết quả chương trình) có thể trả lời Có, Mức độ cao, Mức
độ thấp hoặc Khơng có. Đi kèm mỗi câu trả lời phải có sự giải thích tóm tắt bao
gồm cả việc diễn giải các bằng chứng phù hợp để chứng minh cho câu trả lời. Câu
hỏi trong mỗi nhóm được cho trọng số (chấm điểm) bằng nhau, trừ trường hợp
chuyên gia đánh giá thay đổi trọng số để nhấn mạnh vào các nhân tố chính hoặc
quan trọng đối với chương trình.
Cấu trúc của PART được xây dựng rõ ràng, mỗi câu trả lời "Có" phải được
làm rõ và phải phản ánh kết quả đạt tiêu chuẩn cao. Câu trả lời đối với mỗi câu hỏi
phải được giải thích rõ ràng và trích dẫn các bằng chứng phù hợp, chẳng hạn như
thơng tin hoạt động của tổ chức, các đánh giá độc lập, và thơng tin về tài chính.
Các câu trả lời phải dựa vào bằng chứng và không dựa vào cảm tính hoặc những
cái chung chung.
9


Văn phòng phân bổ ngân sách chuyển đổi số điểm sang xếp hạng theo chất
lượng như bảng sau :
Xếp hạng

Khoảng điểm

Rất hiệu quả

85 - 100

Hiệu quả vừa phải

70 - 84

Đạt (trung bình)


50-69

Khơng hiệu quả

0 - 49

Căn cứ vào xếp hạng để có quyết định phê duyệt cuối cùng.
Tóm lại, các hoạt động đánh giá chương trình R&D ở Mỹ được thực hiện
nghiêm ngặt và có hệ thống.
1.2 Canada
Giới khoa học và cơng nghệ thuộc Chính quyền Liên bang Canada đang phải
đối mặt với sức ép giống như chính quyền ở nhiều nước khác trên thế giới, đó là
phải cung cấp thơng tin có chất lượng hơn cho người dân về kết quả đạt được của
các chương trình KH&CN.
Ở Canada, chức năng đánh giá chương trình có vai trị và vị trí hết sức vững
chắc trong chính phủ Liên bang. Hệ thống đánh giá chương trình Liên bang của
Canada được triển khai trong gần 20 năm. Uỷ ban Ngân sách là cơ quan thiết lập
chính sách của Chính phủ Liên bang về đánh giá chương trình. Chính sách đầu tiên
về đánh giá chương trình được ban hành năm 1997, kêu gọi xây dựng năng lực
đánh giá ở tất cả các tổ chức Liên bang và đề nghị các tổ chức đánh giá tất cả các
chương trình của mình theo chu kỳ. Mơ hình đánh giá của Liên bang là mơ hình
phi tập trung. Mỗi tổ chức chịu trách nhiệm đánh giá sáng kiến của mình theo
10


chính sách của Uỷ ban Ngân sách, độc lập với bộ phận quản lý, kết quả đánh giá
phải được chia sẻ với các cơ quan bên ngồi có quan tâm, ví dụ như Uỷ ban Ngân
sách, các Uỷ ban khác của Quốc hội. Phần lớn, khung đánh giá được thiết lập ngay
từ khi chương trình khởi động.

Là một lĩnh vực chun ngành, đánh giá chương trình KH&CN trong phạm
vi chính quyền Liên bang trở nên phổ biến vào đầu những năm 80, khoảng 5 năm
sau khi đánh giá được thực hiện một cách nề nếp. Chính sách đánh giá địi hỏi việc
đánh giá phải cung cấp thông tin về ba vấn đề cơ bản liên quan đến các chương
trình, trong đó bao gồm cả chương trình R&D :
• Sự phù hợp của chương trình (liệu chương trình có phù hợp với các ưu tiên
của tổ chức và chính phủ khơng, có đáp ứng được nhu cầu hiện hành
khơng?)
• Thành cơng của chương trình (liệu các sáng kiến có đáp ứng được mục tiêu
và đạt kết quả như mong đợi khơng?)
• Hiệu quả chi phí (liệu chương trình có tập hợp được các thiết kế và cách
thức thực hiện hiệu quả nhất không?)
Ở các tổ chức như Hội đồng Nghiên cứu Khoa học tự nhiên và kỹ thuật, Hội
đồng Tài nguyên và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Canada, phần lớn các nguồn
lực là dành để thực hiện các chương trình R&D, do đó năng lực đánh giá KH&CN
chuyên nghiệp đã được phát triển. Đánh giá của chuyên gia cùng ngành (peer
review) là phương pháp được sử dụng phổ biến khi đánh giá chất lượng R&D
trong các tổ chức này từ những năm 60. Các phương pháp đánh giá bổ sung, ví dụ
như các khảo sát về khách hàng, khách hàng tiềm năng và đội ngũ nhân viên bắt
đầu được áp dụng cùng với những nghiên cứu tình huống và phân tích chi phí-lợi
ích.

11


Với vai trò là cơ quan điều phối trung ương, Ban Thư ký của Uỷ ban Ngân
sách cung cấp sự hỗ trợ và các hướng dẫn đánh giá KH&CN cho các Bộ, ngành,
nâng cao nhận thức của Bộ, ngành về sự cần thiết phải kết nối các vấn đề đánh giá
với chính sách KH&CN của Chính phủ cũng như các mối quan tâm của riêng họ.
Ví dụ, tài liệu thảo luận năm 1986 đã đưa ra phương pháp đánh giá R&D chung

trong phạm vi của Chính phủ. Tài liệu này mô tả về nghiên cứu cơ bản và nghiên
cứu ứng dụng định hướng theo nhiệm vụ và phi nhiệm vụ, đề cập hàng loạt chủ đề
về đánh giá, các tiêu chuẩn đánh giá về tính xác đáng, quản lý chương trình, kết
quả và sự lựa chọn.
Kể từ khi hoạt động đánh giá được đưa vào thực hiện trong các cơ quan ở
Canada, có nhiều nghiên cứu tập trung vào việc nâng cao hoạt động chương trình,
giảm chi phí hoặc làm cho các chương trình hiệu quả hơn. Thơng tin thu được từ
khảo sát khách hàng cho phép nhà quản lý nắm bắt được sâu hơn các mối quan tâm
và ý kiến khách hàng để có thể trợ giúp việc thiết kế lại chương trình phù hợp hơn
với nhu cầu của khách hàng. Các nghiên cứu cũng xác định những khó khăn của
Ban quản lý và đội ngũ cán bộ trong phạm vi bộ máy chính phủ nhằm tạo ra mơi
trường tích cực và những ưu đãi thích hợp cho tiến bộ khoa học và chuyển giao
cơng nghệ.
Đánh giá đóng vai trị quan trọng trong q trình quản lý của Chính phủ, ở
Canada khơng một ai có thể nói đến kết quả mà khơng nói đến đánh giá.
1.3 Hàn Quốc
Năm 1982, Hàn Quốc xây dựng chương trình R&D đầu tiên của đất nước.
Trước đó nghiên cứu R&D chỉ ở mức độ các dự án và do Bộ KH&CN quản lý.
Đầu những năm 90, ngồi Bộ KH&CN thì Hàn Quốc bắt đầu phát triển
nhiều chương trình nghiên cứu R&D ở các Bộ ngành khác nhau và đến giữa những

12


năm 90 việc đánh giá các chương trình R&D mới được bắt đầu, các Bộ ngành tự tổ
chức điều phối thực hiện chương trình R&D do mình quản lý.
Trong vịng 15 năm qua, ngân sách quốc gia của Hàn Quốc dành cho R&D
tăng gấp 10 lần. Với số tiền 8,9% ngân sách chi cho R&D lên đến 8,9 tỷ đôla Mỹ
(năm 2006) và số lượng các chương trình cũng như số các đơn vị tham gia thực
hiện nghiên cứu càng tăng thì u cầu bảo đảm tính hiệu quả và minh bạch trong

việc phân bổ và sử dụng ngân sách R&D của chính phủ được chú trọng đặc biệt.
Yêu cầu đặt ra là phải tiến hành đánh giá quá trình thực hiện các chương trình
R&D. Đánh giá chương trình R&D ở Hàn Quốc được thực hiện hàng năm để kết
luận về tính hợp lý và kết quả thực hiện chương trình trong năm qua, qua đó sẽ có
định hướng tiếp tục đầu tư cho chương trình như thế nào trong năm tới, đưa ra
những kiến nghị để cải tiến phương pháp thực hiện chương trình. Ví dụ một
chương trình mà 2 năm liền bị đánh giá là kém thì Hội đồng Khoa học và Công
nghệ Quốc gia - NSTC (cơ quan quyền lực cao nhất về khoa học và công nghệ của
Hàn Quốc) sẽ quyết định dừng chương trình, từ đó Bộ Kế hoạch và Ngân sách
khơng cấp tiền tiếp.
Tháng 5 năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành “Luật về cải cách
Khoa học và Công nghệ” và bắt đầu thực hiện cơng tác “điều tra, phân tích và đánh
giá” các chương trình R&D quốc gia theo tinh thần của Bộ luật trên. Năm 1999,
thành lập Hội đồng Khoa học và Công nghệ Quốc gia - NSTC để chỉ đạo về khoa
học & công nghệ, đặc biệt trong vai trò giám sát điều hành các hoạt động liên quan
đến đánh giá và điều chỉnh trước đối với các chương trình R&D quốc gia có nguồn
vốn từ ngân sách của nhà nước.
Trong các quốc gia thuộc OECD, Hàn Quốc được coi là nước đang tiến
vững chắc trên con đường đến giám sát đánh giá, có mơ hình triển khai hoạt động
đánh giá các chương trình R&D đồng bộ và nhất quán. Hệ thống đánh giá chương
13


trình R&D ở Hàn Quốc là duy nhất, khơng giống với hệ thống đánh giá của nước
nào, khơng có nước nào trên thế giới tập trung tất cả chương trình R&D để Hội
đồng cấp quốc gia đánh giá như ở Hàn Quốc. Viện Đánh giá và Lập kế hoạch
khoa học và công nghệ Hàn Quốc (KISTEP) được thành lập năm 1998, có chức
năng lập kế hoạch và tổ chức điều tra, phân tích đánh giá các chương trình R&D
quốc gia.
Các chương trình KH&CN ở Hàn Quốc được phân loại theo đặc tính kinh tế

xã hội (chứ khơng phân loại theo chun ngành cơng nghệ) và được chia thành
nhóm như sau :
Nhóm lớn

Nhóm nhỏ

Những chương trình hướng vào cơng - Chương trình định hướng vào cơng
nghệ nền tảng, cơng nghệ cơng và bảo nghệ nền tảng
vệ sức khỏe

- Công nghệ công
- Cơng nghệ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe

Những chương trình phục vụ công - Công nghệ công nghiệp ngắn hạn
nghiệp

- Cơng nghệ cơng nghiệp trung hạn và dài
hạn

Những chương trình xây dựng hạ tầng - Hợp tác quốc tế
- Phát triển nguồn nhân lực
- Cơ sở vật chất
Những chương trình hỗ trợ cho các - Các phịng thí nghiệm quốc gia
viện nghiên cứu

- Các viện nghiên cứu cơ bản
- Các viện nghiên cứu công nghệ công
nghiệp
- Các viện nghiên cứu cơng nghệ phục vụ
cơng ích


14


Hội đồng KH&CN quốc gia (NSTC) không đánh giá các chương trình:
• Khoa học xã hội & nhân văn, nghiên cứu chính sách
• Chương trình quốc phịng được xếp loại là bí mật
Các chương trình này do các cơ quan khác thực hiện đánh giá.
Để tiết kiệm thời gian và đầu tư vào đánh giá chương trình, Hàn Quốc chỉ
đánh giá những chương trình R&D đáp ứng 2 điều kiện sau:
• Kinh phí trên 10 triệu US$
• Có tầm quan trọng đặc biệt với chiến lược phát triển KHCN quốc gia
Cơng tác đánh giá hàng năm các chương trình R&D ở Hàn Quốc được chia
ra làm 3 giai đoạn: a) lập kế hoạch và chuẩn bị; b) đánh giá; c) điều chỉnh và tổng
hợp kết quả đánh giá.
a) Giai đoạn chuẩn bị : (3 tháng)
• Tháng 12: Lập kế hoạch đánh giá cho năm sau
NSTC với sự trợ giúp của KISTEP và một cơ quan chuyên trách thuộc Bộ
KH&CN lập kế hoạch tổng thể cho công tác đánh giá các chương trình R&D trong
năm tới.
• Cuối tháng 1: Thơng báo kế hoạch đánh giá đến các Bộ ngành liên quan
• Giữa tháng 2: Thành lập các hội đồng đánh giá
KISTEP thành lập các hội đồng đánh giá dựa vào cơ sở dữ liệu các nhà
khoa học (do KISTEP xây dựng, quản lý) và thành phần các hội đồng
đánh giá của năm trước.
• Cuối tháng 2: Hội đồng đánh giá Tổng hợp họp 1 ngày
Phổ biến các hướng dẫn về đánh giá cho 10 hội đồng đánh giá
b) Giai đoạn thực hiện đánh giá : (1 tháng)

15



• Đánh giá sơ bộ (3 ngày)
Trong 3 ngày làm việc chính thức đầu tiên, tất cả 10 hội đồng đánh giá
chương trình tiến hành đọc/xem xét hồ sơ/tài liệu chương trình một cách kỹ lưỡng,
sau đó đưa ra các câu hỏi và các yêu cầu bổ sung tài liệu nếu thấy cần thiết để các
chủ nhiệm chương trình chuẩn bị.
Đồng thời 8 Hội đồng tư vấn theo chuyên ngành cơng nghệ cũng xem xét
tồn bộ các hồ sơ chương trình (2 ngày) để giám sát chéo (cross-checking) quá
trình đánh giá, nắm tình hình thực hiện ở các chương trình trong từng lĩnh vực
công nghệ để làm cơ sở điều chỉnh ngân sách và định hướng ưu tiên sau này.
• Thuyết trình và hỏi đáp (3 ngày)
Trong 3 ngày làm việc tiếp theo, mỗi chủ nhiệm chương trình có khoảng 20
phút để trình bày trước hội đồng về nội dung, phương pháp tiến hành, kết quả hoạt
động của chương trình trong năm qua và kế hoạch sơ bộ của chương trình trong
năm tới. Sau đó dành 30 phút để hỏi và trả lời đối với mỗi chương trình . Các chủ
nhiệm chương trình bổ sung các tài liệu được yêu cầu, trả lời các câu hỏi mà hội
đồng đã nêu ra từ khoảng 10 ngày trước đó.
• Đánh giá chính thức (3 ngày)
Mỗi hội đồng đánh giá sẽ đánh giá và chấm điểm các chương trình thuộc
lĩnh vực mình theo các tiêu chí cơ bản sau :
1- Hiệu lực của chương trình
2- Hiệu quả quản lý chương trình
3-Kết quả và hiệu quả của chương trình (đầu ra và hiệu quả output &
outcome).
Căn cứ vào bản chất và đặc tính của từng chương trình, các hội đồng sẽ xây
dựng các câu hỏi cụ thể cho từng tiêu chí trên. Ví dụ, câu hỏi đối với tiêu chí "hiệu
quả quản lý chương trình" là :

16



- Kế hoạch triển khai thực hiện các hoạt động cụ thể của chương trình có
được xây dựng một cách hệ thống và có chiến lược khơng?
- Quy trình thực hiện có nhất quán với kế hoạch thực hiện chương trình
khơng?
- Chương trình có phối hợp với các bên có liên quan khơng?
- Kinh phí của chương trình có được phân bổ và sử dụng hiệu quả không?
- Những tồn tại nêu trong kết quả đánh giá và điều chỉnh kinh phí trước đây
có được khắc phục/sửa chữa khơng?
Về xếp hạng chương trình : Hội đồng đánh giá sử dụng phương pháp
"đánh giá tương đối", căn cứ vào phần trăm để chấm điểm và xếp hạng chương
trình. Việc xếp hạng được phân thành 3 hoặc 5 mức, cụ thể :
- 5 mức : A (cao nhất, số điểm > 90%); B (từ 70 - 90%), C (từ 30-70%), D
(từ 10-30%) và E (dưới 10%).
- 3 mức : Xuất sắc (> 70%); Trung bình (30 - 70%); Kém (< 30%).
Ở bước này, mỗi hội đồng sẽ thảo luận về các chương trình do hội đồng
mình đảm nhận đánh giá, điền các ý kiến đánh giá vào phiếu (trả lời các câu hỏi
trong từng tiêu chí đánh giá), thống nhất xếp hạng chương trình theo 3/5 mức.
• Tổng hợp kết quả đánh giá của 10 hội đồng
Hội đồng đánh giá tổng hợp họp để xem xét và thông qua kết quả đánh giá
của 10 hội đồng đánh giá trực tiếp. Sau khi thống nhất thơng qua kết quả cuối cùng
thì kết quả đánh giá và xếp loại chương trình sẽ được thơng báo ngay cho các Bộ
ngành chủ quản của các chương trình R&D tương ứng. Trong vịng một tuần các
Bộ ngành chủ quản và chủ nhiệm chương trình có thể kiến nghị xem xét lại kết quả
đánh giá nếu có thắc mắc về kết luận của hội đồng.
• Lập hội đồng xem xét lại kết quả nếu có ý kiến khơng thống nhất từ
các Bộ ngành

17



Khi có thắc mắc về kết quả đánh giá và xếp hạng từ các Bộ ngành thì một
Hội đồng xem xét lại kết quả (Deliberation Committee) được thành lập gồm
khoảng 10 thành viên, lựa chọn từ Hội đồng tổng hợp (2~5 người) và các Hội đồng
đánh giá trực tiếp. Hội đồng này sẽ xem xét lại hồ sơ chương trình cùng với các
thắc mắc để cân nhắc và đưa ra kết luận.
c) Giai đoạn điều chỉnh và tổng hợp kết quả đánh giá
• Họp thơng qua kết quả đánh giá cùng đại diện các Bộ ngành
Sau khi các Hội đồng đánh giá chương trình đã đưa ra kết luận cuối cùng về
kết quả đánh giá, thì đại diện của các Bộ ngành được mời tới họp cùng các chuyên
gia đánh giá nhằm thu thập ý kiến của các Bộ ngành để bổ sung vào bản báo cáo
kết quả đánh giá chương trình trước khi chuyển lên NSTC.
• Tổng hợp các kết quả đánh giá khác
KISTEP tổng hợp các kết quả đánh giá khác (đánh giá các viện nghiên cứu,
đánh giá các chương trình phát triển vùng, đánh giá các chương trình quốc phịng)
cùng với kết quả đánh giá chương trình R&D thành một báo cáo tổng hợp kết quả
đánh giá của năm để Hội đồng đánh giá tổng hợp thông qua và trình lên Hội đồng
KHCN quốc gia.
Tóm lại, Hàn Quốc vẫn ln tìm cách cải tiến hệ thống đánh giá khoa học và
cơng nghệ của mình, học tập kinh nghiệm của các nước phát triển, tham gia hiệp
hội đánh giá nghiên cứu của thế giới (WREN=World Research Evaluation
Network)… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đánh giá nói chung và đánh giá
chương trình R&D nối riêng.
1.4 Trung Quốc
Năm 1994, Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã thành lập Trung tâm
Đánh giá khoa học và công nghệ Quốc gia (NCSTE). Trung tâm đóng vai trị quan
trọng trong việc cung cấp nội dung và đánh giá khách quan nhằm giúp các cơ quan
18



nhà nước, các công ty và các tổ chức đầu tư ra quyết định liên quan đến việc phát
triển khoa học và cơng nghệ. Một trong những nhiệm vụ chính của Trung tâm là
đánh giá các đề tài, chương trình khoa học và cơng nghệ do Chính phủ tài trợ, bao
gồm đánh giá thẩm định, đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc. Trung tâm Đánh
giá khoa học và công nghệ quốc gia Trung Quốc đã xây dựng bộ “Tiêu chuẩn để
đánh giá KH&CN”, bộ Tiêu chuẩn được ban hành năm 2001, theo 3 cấp độ. Cấp
độ đầu tiên là tiêu chuẩn cơ bản, bao gồm các nguyên tắc chính, quy tắc đạo đức và
các thuật ngữ về đánh giá KH&CN. Cấp độ thứ hai là các tiêu chuẩn kỹ thuật, bao
gồm các quy trình, nghĩa vụ và quyền hạn chính của các bên liên quan trong đánh
giá. Cấp độ thứ ba, bao gồm các cam kết đối với tiêu chuẩn, như làm thế nào để
duy trì tính độc lập, khách quan và cơng bằng. Tiêu chí đánh giá theo bộ Tiêu
chuẩn như sau :
• Tiêu chí về chính sách : Các hoạt động R&D có chú ý đến chính sách phát
triển của quốc gia khơng?
• Tiêu chí mục tiêu : Chương trình có phù hợp với mục tiêu R&D khơng?
• Tiêu chí kết quả : Các đầu ra/kết quả có theo đúng mục tiêu khơng?
• Tiêu chí hiệu suất : Các đầu ra có tối đa bởi đầu vào?
• Tiêu chí tác động : Tác động tích cực/tiêu cực dài hạn của R&D?
• Tiêu chí đổi mới : Loại hình/mức độ đổi mới cơng nghệ
• Tiêu chí hiệu quả : Hoạt động R&D có được hỗ trợ một cách hiệu quả
khơng?
• Tiêu chí cơng bằng : Hoạt động R&D có được phân bổ cơng bằng về
nguồn lực, lợi ích hoặc chi phí không?

19


NCSTE đã tiến hành đánh giá chương trình nghiên cứu phát triển công nghệ
cao – 863 sau 15 năm thực hiện theo các lĩnh vực : công nghệ sinh học, công nghệ

thông tin, năng lượng, vật liệu tiên tiến và hải dương. Xác định và khai thác thông
tin từ nhiều nguồn khác nhau là một nhân tố quan trọng trong việc đánh giá. Thông
tin thu thập được chia thành 3 loại :
Loại A : Thông tin nội bộ do các Văn phịng quản lý chương trình cung cấp
Loại B : Thơng tin do các nhóm đánh giá thu thập độc lập, gồm phiếu điều
tra, thảo luận tại các hội thảo, điều tra hiện trường, hội nghị bàn tròn của các bên
liên quan.
Loại C : Thông tin và dữ liệu phù hợp với quy trình đánh giá và nghiên cứu.
Việc đánh giá chương trình 863 được tiến hành theo phương thức Hội nghị
bàn trịn để thảo luận cơng khai trên cơ sở tìm kiếm để đi đến sự thống nhất, đồng
thuận từ các quan điểm khác nhau thông qua đối thoại và tìm ra những sự khác
nhau đó. Thành phần chính tham gia vào Hội nghị bàn tròn là những người có liên
quan, đó là những người chịu trách nhiệm quản lý chương trình hoặc những người
liên quan trực tiếp đến chương trình.
Ngun tắc của Hội nghị bàn trịn là : (1) đối thoại bình đẳng giữa các bên
tham gia, khơng phân biệt địa vị, chức danh; (2) Thảo luận những vấn đề đã được
chuẩn bị trước; (3) Khuyến khích mọi người trao đổi với các quan điểm khác nhau;
(4) Thảo luận kết quả, cả đồng thuận hoặc khác biệt, phải có Biên bản hội nghị.
Những nguyên tắc này phải được thông báo trước cho tất cả những người tham dự.
Kết quả đánh giá cho thấy, chương trình 863 đã huy động được thế mạnh
trong giới khoa học Trung Quốc, do đó hình thành nên được đội ngũ nghiên cứu
phát triển công nghệ cao ở tầm quốc gia, tuy nhiên mới chỉ có các viện trong khu
vực cơng và trường đại học tham gia là chủ yếu, khu vực doanh nghiệp tham gia

20


với mức độ rất thấp (chiếm 5%), lực lượng tham gia chủ yếu tập trung ở Bắc Kinh
và Thượng Hải. Chương trình 863 đã đào tạo được một số lượng lớn các nhà khoa
học cơng nghệ cao có năng lực, do đó đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cốt lõi cho

công tác nghiên cứu phát triển công nghệ cao của đất nước, đã thúc đẩy sự hợp tác
và trao đổi quốc tế về công nghệ cao của Trung Quốc.
Điểm đặc biệt khi đánh giá chương trình 863 là đã tổ chức cho các nhà
nghiên cứu sau tiến sĩ đưa ra các đề xuất cho việc đánh giá chương trình để nhằm
thấy được quan điểm và dự báo của họ là gì đối với sự phát triển cơng nghệ cao ở
Trung Quốc từ góc độ của các nhà khoa học trẻ. Các điều tra khảo sát cho thấy
chương trình 863 có ảnh hưởng khá đáng kể đối với nhóm sau tiến sĩ, họ thể hiện
mong muốn mạnh mẽ rằng chính phủ sẽ tạo điều kiện để những nhà khoa học trẻ
và trung niên có thể đóng vai trị lớn hơn trong các chương trình R&D, tức là họ
khơng chỉ đảm đương công tác nghiên cứu công nghệ cụ thể mà còn tham gia vào
việc lựa chọn dự án và nghiên cứu chiến lược.
Qua kết quả đánh giá, chính phủ cũng thấy cần phải cải tiến hơn nữa để mở
rộng sự tham gia của các doanh nghiệp trong các kế hoạch cơng nghệ cao của
chính phủ và tăng cường nhanh sự phát triển khoa học công nghệ tại các vùng
miền trung và miền tây của Trung Quốc.
Việc đánh giá tại Trung Quốc không những tác động nhiều đến việc lập kế
hoạch và triển khai thực hiện các chương trình tiếp theo của chính phủ mà cịn kích
thích đối thoại và trao đổi thơng tin giữa chính phủ với khối cơng nghiệp và khu
vực nghiên cứu.
Qua kinh nghiệm của một số nước, chúng ta có thể nhận thấy rằng, những
nước có kinh nghiệm đáng kể về đánh giá chương trình KH&CN đều có một số
điểm chung về mục đích, cách thức đánh giá; yêu cầu và nguồn kinh phí để tổ chức

21


và triển khai cơng tác đánh giá là từ chính phủ. Điểm khác nhau cơ bản ở các nước
này là về việc thực hiện và cơ quan chuyên trách đánh giá. Chủ yếu có 3 dạng sau:
- Cơ quan chuyên trách là một cơ quan trong (inside government) chính phủ.
Điểm mạnh của một cơ quan trong chính phủ là cơ quan đánh giá có thể sẽ nắm bắt

tốt hơn mục tiêu, mục đích, các yêu cầu của những nhà hoạch định chính sách và vì
thế việc đánh giá sẽ sát với yêu cầu hơn. Một điểm mạnh khác là những cơ quan
đánh giá có thể dùng quyền lực của chính phủ trong việc yêu cầu cung cấp thông
tin. Điểm yếu của loại hình này là các phản ánh sai lệch có thể xuất hiện khi chính
phủ can thiệp vào q trình đánh giá.
- Cơ quan chuyên trách là một Cơ quan tư vấn trung gian nằm ngồi (outside
government) chính phủ. Cơ quan nằm ngồi chính phủ có hai điểm mạnh. Trước
tiên, cơ quan tư vấn trung gian đóng vai trị bên thứ ba. Và như vậy họ sẽ công
bằng và khách quan hơn. Thứ hai, các cơ quan tư vấn trung gian có chun mơn
hóa cao hơn, được đào tạo chuyên nghiệp hơn và thường có kinh nghiệm hơn.
Điểm bất lợi của mơ hình này là có thể có khoảng cách giữa kết quả đánh giá và
yêu cầu của chính phủ.
- Hai hình thức trên có điểm mạnh và yếu của chúng. Nếu có thể phối hợp
lại thì chúng sẽ bổ xung cho nhau. Loại hình thứ ba là một tổ chức bao gồm cả
trong và ngồi chính phủ (the united group of inside and outside government)
chuyên trách. Loại hình này có nhiều ưu điểm nên ngày càng được nhiều quốc gia
lựa chọn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của việc đánh giá
trong hệ thống quản lý KH&CN, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt một số
nhiệm vụ nhằm nâng cao nhận thức, năng lực về đánh giá KH&CN và góp phần hỗ

22


trợ cho việc xây dựng chính sách KH&CN, nâng cao năng lực nghiên cứu. Ví dụ
các dự án sau:
2.1 Dự án VISION “Đánh giá hệ thống khoa học và công nghệ của Việt
Nam”do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách KH&CN phối hợp với các
chuyên gia Viện Nghiên cứu Hệ thống sản xuất và Công nghệ thiết kế Fraunhofer

(Fraunhofer Institute for Production Systems and Design Technology - IPK) thực
hiện năm 2004-2005. Mục tiêu của dự án là phân tích và đánh giá hệ thống
KH&CN với việc xem xét mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của hệ thống.
Dự án thực hiện ba nội dung chính : 1) Phân tích nhu cầu của khu vực cơng nghiệp
đối với khoa học và công nghệ; 2) Đánh giá kết quả hoạt động KH&CN hiện tại đánh giá kết quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu trong các trường đại học và
không thuộc đại học; 3) Đề xuất nguyên tắc thiết kế để cấu trúc lại hệ thống
KH&CN.
2.2 Nhiệm vụ KH&CN theo Nghị định thư “Xây dựng phương pháp, tiêu chí
đánh giá chương trình, đề tài khoa học và cơng nghệ tại Việt Nam” do Viện Ứng
dụng phối hợp với Viện Lập kế hoạch và đánh giá KH&CN Hàn Quốc – KISTEP
thực hiện từ năm 2004-2005. Kết quả của nhiệm vụ là phía đối tác Hàn Quốc đã
chuyển giao kinh nghiệm về quản lý và đánh giá R&D của Hàn Quốc và thực hiện
đánh giá thử nghiệm sử dụng mô hình của Hàn Quốc đối với một chương trình và
một số đề tài của Việt Nam. Kết quả cuối cùng của dự án là đã đề xuất các định
hướng chính sách cho công tác quản lý R&D của Việt Nam trong tương lai.
2.3 Nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo Nghị định thư: "Nghiên cứu kinh nghiệm
Trung Quốc trong công tác xây dựng hệ thống đánh giá KH&CN và đề xuất áp
dụng cho Việt Nam", do Trung tâm Hỗ trợ đánh giá khoa học và công nghệ phối
hợp với Trung tâm Đánh giá KH&CN Quốc gia Trung Quốc, Viện Chính sách và
Quản lý (IPM) thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS) thực hiện từ năm 200823


2010. Kết quả của nhiệm vụ là : 1) Xây dựng mơ hình triển khai cơng tác đánh giá
KH&CN của Việt Nam; 2) Xây dựng khung chính sách danh mục và nội dung cơ
bản của các văn bản quy phạm pháp luật về công tác đánh giá KH&CN của Việt
Nam; 3) Xây dựng năng lực đánh giá cho Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập
quốc tế.
Kết quả của các nhiệm vụ trên đã đóng góp nhiều trong việc nâng cao nhận
thức của cộng đồng khoa học về vai trò và ý nghĩa thiết thực của đánh giá
KH&CN; đào tạo kiến thức ban đầu cho các cán bộ làm công tác hỗ trợ q trình

xây dựng chính sách KH&CN. Tuy nhiên các kết quả hầu hết mới chỉ dừng ở mức
học tập kinh nghiệm thực hành cụ thể của một số nước như : Hàn Quốc, Trung
Quốc, CHLB Đức, chưa đi sâu vào nghiên cứu phương pháp luận nền tảng để xây
dựng hướng dẫn cụ thể về phương pháp luận đánh giá chương trình KH&CN (bao
gồm : phương pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá) áp dụng cho Việt Nam.
3. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho đánh giá chương trình KH&CN
của Việt Nam
Qua nghiên cứu hoạt động đánh giá chương trình KH&CN của một số nước
và thực tiễn về đánh giá chương trình KH&CN của Việt Nam, có thể rút ra một số
bài học áp dụng cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay như sau :
- Với quy mơ đầu tư cho các chương trình KH&CN, trình độ quản lý
KH&CN của nước ta như hiện nay, bước đầu nên tập trung vào đánh giá thử một
số chương trình KH&CN có ý nghĩa quan trong đối với sự phát triển KH&CN và
kinh tế-xã hội (chương trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu
phát triển các ngành công nghiệp chủ chốt, nghiên cứu cơ bản...);
- Mục đích của việc đánh giá nên hướng vào việc hỗ trợ quá trình ra quyết
định và quản lý nhằm rút bài học kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả cho các

24


chương trình KH&CN trong thời gian tới, chưa nên thực hiện đánh giá hiệu quả và
tác động của các chương trình;
- Vì năng lực và kinh nghiệm đánh giá cịn hạn chế, hệ thống quản lý thơng
tin KH&CN cịn chưa phát triển đồng bộ và chưa minh bạch, đề nghị thực hiện
đánh giá theo phương pháp, tiêu chí phù hợp, dễ áp dụng (chẳng hạn áp dụng theo
cách thực hiện của Trung Quốc và Hàn Quốc) và mời chuyên gia nước ngoài,
chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài tham gia thực hiện để học hỏi và nâng cao năng
lực trong quá trình thực hành;
- Tổng kết kinh nghiệm và bài học sau khi thực hiện đánh giá thử, xây dựng

mô hình đánh giá chương trình KH&CN áp dụng thống nhất trong cả nước.
II. NHỮNG NỘI DUNG ĐÃ THỰC HIỆN

Xây dựng “Hướng dẫn đánh giá chương trình khoa học và cơng nghệ” bao
gồm những nội dung sau : (Xem phụ lục đính kèm báo cáo)
1. Giải thích từ ngữ
2. Mục đích đánh giá
3. Tiêu chuẩn đánh giá
4. Phương pháp, tiêu chí và quy trình đánh giá cho 4 giai đoạn: Đánh giá
thẩm định (đầu kỳ); Đánh giá giữa kỳ; Đánh giá cuối kỳ và Đánh giá tác động.
C. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Hướng dẫn đánh giá chương KH&CN được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu,
tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm, bài học của một số nước có chọn lọc (những
nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta : Hàn Quốc, Trung Quốc và những
nước có truyền thống đánh giá lâu đời và trình độ đánh giá tiên tiến : Mỹ, Canada,
Ủy ban Châu Âu). Trong quá trình nghiên cứu xây dựng hướng dẫn, nhóm thực

25


×