BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ
VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ
ĐẾN NĂM 2020
Cơ quản chủ trì đề tài: TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG
Tầng 5, 70 Trần Hưng Đạo – Hà Nội
Chủ nhiệm đề tài: Thạc sĩ TRẦN ANH TUẤN
9137
HÀ NỘI, 11/2011
1
Nhóm nghiên cứu ĐỀ TÀI
Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển thị trường công nghệ
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2020
Chủ nhiệm đề tài:
Thạc sĩ Trần Anh Tuấn
Các thành viên tham gia:
Kỹ sư Nguyễn Văn Bản - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng
Thạc sĩ Nguyễn Tùng Cương – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng
Cử nhân Vũ Văn Đàm – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng
Cử nhân Ngô Xuân Khoa - Học viện Chính sách phát triển
Cử nhân Lại Hà Phương – Quận Đồn Hà Đơng
Thạc sĩ Nguyễn Trọng Thanh – Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội
Kỹ sư Trương Văn Thịnh - Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM TRONG, NGOÀI
NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ.
1.1. Khái niệm hàng hóa khoa học và cơng nghệ.
1.2. Khái niệm thị trường cơng nghệ.
1.3. Nhu cầu hàng hóa khoa học và cơng nghệ.
1.4. Cung cấp hàng hóa khoa học và cơng nghệ.
1.5. Các trở ngại trong mua bán hàng hóa khoa học và cơng nghệ.
1.6. Mơ hình phát triển thị trường cơng nghệ thời kỳ cơng nghiệp hóa.
2
3
4
5
7
9
II. GIỚI THIỆU KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ TRONG VÀ NGỒI NƯỚC.
2.1. Kinh nghiệm ngồi nước.
2.2. Kinh nghiệm trong nước.
14
20
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI..
1.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm điều kiện phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
1.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
2.1. Nhận xét về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.
2.2. Nhận xét về mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ.
2.3. Nhận xét về cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ khoa học và công nghệ.
2.4. Nhận xét về đầu tư tài chính cho khoa học và cơng nghệ.
2.5. Nhận xét về nguồn thông tin khoa học và công nghệ.
2.6. Nhận xét chung về tiềm lực khoa học và công nghệ.
2.7. Tiềm năng phát triển thị trường công nghệ ở vùng KTTĐ Bắc bộ.
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MUA, BÁN VÀ TẠO RA HÀNG HĨA CƠNG NGHỆ.
3.1. Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khoa học và cơng nghệ.
3.2. Các loại hàng hóa cơng nghệ được mua và bán.
3.3. Các nguồn vốn và hoạt động khoa học và cơng nghệ được chú trọng đầu tư.
3.4. Tình hình thực hiện đề tài, dự án và áp dụng các kết quả nghiên cứu phát triển.
IV. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC TRUNG GIAN, MƠI GIỚI.
4.1. Các loại hình tổ chức trung gian mơi giới.
4.2. Hình thức tổ chức dịch vụ trung gian, mơi giới.
V. THỰC TRẠNG MƠI TRƯỜNG THỂ CHẾ.
5.1. Tình hình vận dụng văn bản khi mua bán hàng hóa cơng nghệ.
5.2. Khó khăn do cơ chế, chính sách khi mua bán hàng hóa cơng nghệ.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG.
27
29
34
35
35
36
38
39
40
41
45
51
51
53
54
60
61
62
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ TẠI VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ ĐẾN NĂM 2020
I. DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ.
65
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
2.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Định hướng phát triển khoa học và công nghệ.
70
71
3
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ.
3.1. Quan điểm phát triển.
3.2. Mục tiêu phát triển..
74
76
IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÀNG HĨA CƠNG NGHỆ.
4.1. Dự báo phát triển các loại hàng hóa cơng nghệ.
4.2. Mục tiêu phát triển các loại hàng hóa cơng nghệ.
77
78
V. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC TRUNG GIAN MÔI GIỚI.
5.1. Dự báo phát triển tổ chức trung gian môi giới.
5.2. Mục tiêu phát triển tổ chức trung gian môi giới.
5.3. Định hướng phát triển tổ chức trung gian môi giới.
79
79
80
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH GĨP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CÔNG NGHỆ TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ
I. GIẢI PHÁP VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ.
II. GIẢI PHÁP VỀ TÀI CHÍNH VÀ ĐẦU TƯ.
III. GIẢI PHÁP VỀ NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
IV. GIẢI PHÁP VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ LIÊN VÙNG.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
82
87
92
98
95
PHỤ LỤC
4
CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
APCTT
APEC
ASEAN
BCHTW
CGCN
CIEM
CNC
CNCNC
CNH-HĐH
CSDL
DNNN
DNTN
FDI
GTSX
KH&CN
KT-XH
KTTĐ
NC&PT
NGO
ODA
SHTT
SXKD
SNKH
UNCTAD
UNIDO
XHCN
XDCB
WTO
Trung tâm chuyển giao cơng nghệ châu Á - Thái bình dương
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình dương
Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á
Ban chấp hành Trung ương
Chuyển giao công nghệ
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Công nghệ cao
Công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Cơ sở dữ liệu
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giá trị sản xuất
Khoa học và công nghệ
Kinh tế xã hội
Kinh tế trọng điểm
Nghiên cứu phát triển
Tổ chức phi chính phủ
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
Sở hữu trí tuệ
Sản xuất kinh doanh
Sự nghiệp khoa học
Liên hiệp quốc tế về thương mại và phát triển
Tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc
Xã hội chủ nghĩa
Xây dựng cơ bản
Tổ chức thương mại thế giới
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1.] “Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam” Viện Chiến
lược và Chính sách khoa học và cơng nghệ xuất bản năm 2003.
[2.] Dự thảo Đề án "Chương trình Quốc gia phát triển thị trường công
nghệ", Bộ Khoa học và Công nghệ - năm 2010.
[3.] "Nghiên cứu cơ chế và chính sách phát triển thị trường công nghệ ở Việt
Nam", Thạc sĩ Nguyễn Võ Hưng - Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và
công nghệ - năm 2003.
[4.] “Nghiên cứu cơ sở lý luận về trung tâm giao dịch khoa học và công
nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam”, Thạc sĩ Lê Thị Khánh Vân – Trung tâm
thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia - năm 2008.
[5.] “Nghiên cứu luận cứ khoa học cho các chính sách và giải pháp xây
dựng, phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tiến sĩ Hồ Đức Việt - Ủy ban Khoa học,
công nghệ và môi trường Quốc hội - năm 2007.
[6.] Đề tài "Nghiên cứu phát triển hoạt động tư vấn, môi giới chuyển giao
công nghệ ở Việt Nam", Tiến sĩ Hoàng Xuân Long Viện Chiến lược và Chính sách
khoa học và cơng nghệ - năm 2008.
[7.] "Nghiên cứu phân tích hiện trạng hoạt động và đề xuất giải pháp phát
triển mạng lưới tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ", Kỹ sư Tạ Việt Dũng Cục Ứng dụng công nghệ - năm 2009.
[8.] “Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam”, Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương xuất bản năm 2005.
[9.] Đề án "Quy hoạch tổng thể phát triển vùng KTTĐ Bắc bộ đến năm
2020", Bộ Kế hoạch và Đầu tư - năm 2009.
[10.] "Nghiên cứu xây dựng quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ 3
vùng KTTĐ đến năm 2020", Văn phòng phối hợp phát triển môi trường KH&CN năm 2008.
[11.] “Thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam thực trạng và giải
pháp”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hường – Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh - năm 2006.
[12.] Luật Khoa học và Công nghệ, năm 2000.
[13.] Luật Sở hữu trí tuệ, năm 2005.
[14.] Luật Chuyển giao cơng nghệ, năm2006.
6
MỞ ĐẦU
7
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Khoa học và cơng nghệ ngày càng có vai trị quan trọng đối với mọi lĩnh vực
kinh tế - xã hội xét trên phạm vi toàn cầu, đối với từng quốc gia và mỗi vùng lãnh
thổ. Nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là nhân tố nặng cân nhất xác lập
vị trí cạnh tranh ở mọi cấp độ và là nguồn lực quan trọng hàng đầu tạo nên tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ở nước ta đóng góp của khoa học và công nghệ đối với
phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua còn rất hạn chế. Nguyên nhân chủ
yếu là do sự gắn kết giữa khoa học và cơng nghệ với hoạt động thực tiễn cịn hết
sức lỏng lẻo. Để khắc phục tình trạng này, một trong những giải pháp có hiệu quả
nhất là phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Tại Đại hội lần thứ X - Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “…Khẩn trương
tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy
mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ…,…phát triển thị
trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn
sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây
dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa…”.
Hiện nay, thị trường cơng nghệ ở Việt Nam vẫn cịn rất sơ khai, với lượng
giao dịch còn nhỏ. Tuy nhiên, một số điều kiện tiền đề cho thị trường công nghệ
vận hành đã được hình thành. Các quy định pháp lý cho hoạt động chuyển giao
công nghệ, nhất là chuyển giao từ nước ngoài đã được thiết lập. Các quy định về
bảo hộ quyền sở hữu cũng được điều chỉnh tương đối phù hợp với những quy định
của luật pháp quốc tế. Hình thức hợp đồng về trao đổi sản phẩm và dịch vụ khoa
học và công nghệ giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học với các tổ chức khác và
với doanh nghiệp đã trở nên phổ biến, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã hình thành ở
Việt Nam.
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ bao gồm 7 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải
Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh) có vị trí địa
chính trị - kinh tế và tiềm năng mở rộng giao lưu thương mại, văn hóa, ngoại giao
với các nước trong vùng và trên thế giới. Trong những năm qua hoạt động khoa
học và công nghệ đã tạo điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng có hiệu quả nhiều
cơng nghệ tiên tiến được chuyển giao vào sản xuất ở một số ngành quan trọng:
giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp, chế biến lương thực,…đã góp phần quan
trọng vào quá phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Song, những yếu tố để tạo nên một thị trường công nghệ sôi động vẫn chưa
hình thành đầy đủ, cịn thiếu các cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa và tạo mơi
trường pháp lý cho sự hình thành và phát triển của thị trường cơng nghệ,…Do đó
chưa “tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ; đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp” và cũng chưa “tạo
động lực phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, giải phóng sức sáng tạo, nâng cao
8
chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ” như Hội nghị vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ đã kết luận.
Để góp phần giải quyết những bất cập nêu trên, đồng thời tạo thêm cơ sở
giúp các nhà hoạch định chính sách của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ sớm đề ra
định hướng, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển thị trường công nghệ
của vùng. Xuất phát từ địi hỏi thực tiễn đó, đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp
phát triển thị trường công nghệ vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2020”
được thực hiện theo Quyết định số 41/QĐ-BKHCN ngày 14 tháng 01năm 2009
của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Cơng nghệ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước thời điểm thực hiện đề tài này, các nghiên cứu về thị trường công
nghệ đã được tiến hành ở Việt Nam một cách có hệ thống, bới những nhóm tác giả
uyên bác và giàu kinh nghiệm:
* Nghiên cứu của nhóm tác giả Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và
cơng nghệ được tổng kết trong cuốn sách “Công nghệ và phát triển thị trường công
nghệ ở Việt Nam” xuất bản năm 2003.
* Nghiên cứu của nhóm tác giả Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ươngđược tổng kết trong cuốn sách “Phát triển thị trường khoa học và công nghệ
ở Việt Nam”, xuất bản năm 2005.
* Nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Hường – Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh trong khn khổ đề tài “Thị trường khoa học và công
nghệ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp”, tổng kết năm 2006.
* Nghiên cứu của Tiến sĩ Hồ Đức Việt - Ủy ban Khoa học, công nghệ và
môi trường Quốc hội trong khuôn khổ đề tài độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu
luận cứ khoa học cho các chính sách và giải pháp xây dựng, phát triển thị trường
khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”, tổng kết tháng 7 năm 2007.
* Nghiên cứu của Thạc sĩ Lê Thị Khánh Vân – Trung tâm thông tin khoa
học và công nghệ Quốc gia trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận về
trung tâm giao dịch khoa học và công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam”, tổng
kết tháng 3 năm 2008.
Nhìn chung, các cơng trình đã cơng bố đã nghiên cứu một cách có hệ thống
từ cơ sở lý luận, thực trạng đến đề xuất các giải pháp phát triển thị trường công
nghệ ở Việt Nam
Đề tài đã kế thừa một cách triệt để, có chọn lọc các tinh hoa của các nghiên
cứu này, đồng thời bổ sung những nội dung mới nhằm cụ thể hóa các vấn đề để
kiến nghị những giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ ở vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ.
9
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề xuất được các giải pháp nhằm góp phần phát triển thị trường cơng nghệ
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
3. Phương pháp nghiên cứu và tổ chức thực hiện:
Do khối lượng công việc trong mỗi nội dung khơng ít; đặc điểm và tính chất
cũng khá riêng biệt, nên đề tài tổ chức thực hiện thành các chuyên đề khác nhau.
Các chuyên đề đã lựa chọn phương pháp thích hợp để tiếp cận và giải quyết vấn đề
cho phù hợp với thực tiễn. Cách giải quyết của mỗi chuyên đề có khác nhau, nhưng
phương pháp nghiên cứu đều theo định hướng của đề tài là:
- Thu thập, tổng hợp thông tin, kết quả các đề tài nghiên cứu trong và người
nước từ các nguồn hiện có (lưu trữ và Internet,…), phân tích, đánh giá, rút ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
- Nghiên cứu, thẩm định, phân tích số liệu đã thu thập khi khảo sát thực tiễn; so
sánh giữa thực tiễn và văn bản hiện hành, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
- Hội thảo lấy ý kiến chuyên gia để hoàn thiện đề xuất giải pháp.
4. Kết cấu của Báo cáo tổng kết đề tài:
Báo cáo tổng kết đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề cơ sở lý luận và kinh nghiệm trong, ngoài nước về
thị trường công nghệ.
Chương 2. Đánh giá thực trạng thị trường công nghệ vùng kinh tế trọng
điểm Bắc bộ.
Chương 3. Đề xuất một số giải pháp chính góp phần phát triển thị trường
công nghệ tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
Các khuyến nghị
Hy vọng nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu,
hoạch định chính sách và những ai quan tâm đến phát triển thị trường công nghệ ở
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Đây là một chủ đề rất mới mẻ và phức tạp, nhóm
nghiên cứu nhận thấy rằng sau nhiều nỗ lực chúng tôi vẫn không thể vượt qua những
hạn chế, những thiếu sót trong kết quả nghiên cứu này. Chúng tơi mong nhận được
nhiều ý kiến phê bình, góp ý từ phía độc giả với sự trân trọng và biết ơn.
Nhóm nghiên cứu
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG
10
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KINH NGHIỆM TRONG, NGỒI NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG CƠNG NGHỆ
11
I – MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG
CƠNG NGHỆ
Hình thành và phát triển thị trường công nghệ là một trong những nhiệm vụ
đã được Đảng và Nhà nước ta đề cập trong các văn kiện quan trọng gần đây như:
Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa VIII trình Đại hội IX của Đảng, Báo cáo
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn 2001 – 2010 tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001); Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2000);
Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng khóa IX (năm 2002). Tuy nhiên
cho tới nay, khái niệm và những vấn đề lý luận chung về loại thị trường này vẫn
chưa được làm rõ, do vậy dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình triển khai trong
thực tiễn. Vì vậy dưới đây nhóm nghiên cứu xin đề cập tới một số vấn đề lý luận
cơ bản về thị trường công nghệ trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu trong
và ngoài nước về chủ đề này.
1.1. Khái niệm hàng hóa KH&CN
Hoạt động KH&CN sản sinh ra nhiều loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau.
Sản phẩm của hoạt động KH&CN là kết quả của hoạt động này, chẳng hạn như:
phầm mềm tin học, mẫu máy làm kem tự động, sáng chế về thuốc ho từ thảo dược,
bí quyết dệt lụa. Dịch vụ của hoạt động KH&CN là việc thực hiện những hoạt
động KH&CN theo đặt hàng, chẳng hạn làm nghiên cứu và phát triển, thiết kế
cơng nghiệp, bảo trì máy móc thiết bị, cung cấp thơng tin KH&CN,…Từ đấy có
thể thấy rằng, hàng hóa KH&CN bao gồm các sản phẩm và dịch vụ của hoạt động
KH&CN, cụ thể như sau:
1. Bản quyền sở hữu, quyền sử dụng những đối tượng sở hữu cơng nghiệp
có nội dung cơng nghệ như: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp,
giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp, được phép chuyển giao và đang
trong trong thời hạn được pháp luật Việt Nam bảo hộ.
2. Bản quyền các tác phẩm KH&CN, bản quyền phần mềm đang trong thời
hạn pháp luật Việt Nam bảo hộ.
3. Bí quyết cơng nghệ, kiến thức dưới dạng phương án công nghệ, các giải
pháp kỹ thuật, quy trình cơng nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật, công
thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, phầm mềm máy tính là một bộ
phận hợp thành của quy trình cơng nghệ, các giải pháp hợp lý hóa sản xuất.
4. Nguyên mẫu (proptotype) sản phẩm, máy móc chứa đựng thiết kế, các
thơng số kỹ thuật, công nghệ cho phép chế tạo hàng loạt sản phẩm, máy móc đó.
5. Dịch vụ kỹ thuật, bao gồm: tư vấn kỹ thuật; tư vấn thiết kế nhà máy; tư
vấn lựa chọn, mua sắm công nghệ; tư vấn quản lý công nghệ; tư vấn thiết kế sản
phẩm, thiết kế quy trình cơng nghệ; hướng dẫn lắp đặt, vận hành thử dây chuyền
12
thiết bị, hướng dẫn thực hiện các quy trình cơng nghệ tiêu chuẩn; thử nghiệm, kiểm
nghiệm các thông số kỹ thuật hoặc công năng của mẫu sản phẩm; đào tạo, huấn
luyện, nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân, cán bộ
kỹ thuật và cán bộ quản lý.
6. Dịch vụ nghiên cứu và phát triển theo đặt hàng.
1.2. Khái niệm về thị trường công nghệ
Trong nghiên cứu này thị trường công nghệ được hiểu bao gồm những hoạt
động mua bán các hàng hóa KH&CN, những thể chế (quy tắc, cơ chế vận hành) và
các tổ chức đảm bảo cho việc mua - bán được thực hiện thuận lợi trên cơ sở lợi ích
của các bên tham gia thị trường. Phát triển thị trường công nghệ tức là thúc đẩy
hoạt động mua – bán, phát triển nhu cầu, mở rộng nguồn và chất lượng cung cấp
và xây dựng những thể chế hỗ trợ, những tổ chức xúc tiến, nhằm làm tăng số
lượng, chất lượng và sự đa dạng của hoạt động mua bán.
Giống như các loại thị trường khác, thị trường công nghệ bao gồm các
thành tố cơ bản như:
1. Hàng hóa mua bán (tài sản trí tuệ);
2. Chủ thể tham gia thị trường, bao gồm: người bán (bên cung), người mua
(bên cầu), mạng lưới dịch vụ môi giới, hỗ trợ mua bán công nghệ và các tổ chức
xúc tiến thị trường;
3. Cơ chế, luật lệ, quy tắc vận hành và các tổ chức xúc tiến thị trường.
Thế mạnh của thị trường nói chung, thị trường hàng hóa KH&CN nói riêng,
chỉ có thể phát huy khi thị trường vận hành bình thường, tức là khi thể chế của nó
đảm bảo: cung, cầu phát triển bình thường; quyền sở hữu đối với hàng hóa mua
bán được xác định rõ ràng; chi phí giao dịch thấp; thị trường có tính cạnh tranh; số
lượng giao dịch đủ lớn; khơng gây ra những tác động xã hội tiêu cực.
Khác với những hàng hóa thơng thường, đa số hàng hóa KH&CN mang tính
tri thức, việc người này sử dụng khơng làm mất đi khả năng sử dụng của người khác
và chính điều này khiến hàng hóa KH&CN mang tính chất điển hình của một loại
hàng hóa cơng (một hàng hóa có thể bán, chuyển giao được nhiều lần). Do vậy việc,
việc mua bán chính thức cần đến những thể chế đặc biệt như pháp luật về sở hữu trí
tuệ. Ngồi ra, hàng hóa KH&CN cịn chứa đựng nhiều yếu tố vơ hình, việc mua bán
thường phát sinh nhiều ràng buộc về quyền sở hữu, quyền khai thác giữa các bên
liên quan, luôn có bất bình đẳng thơng tin giữa người mua và người bán về chất
lượng và giá trị cơng nghệ. Nói tóm lại, chi phí giao dịch trong các thương vụ về
hàng hóa KH&CN thường cao, khiến thị trường có thể bị thu hẹp hoặc đóng băng.
13
1.3. Nhu cầu hàng hóa KH&CN
Hàng hóa KH&CN được dùng như một đầu vào cần thiết của một hoạt động
khác như sản xuất - kinh doanh, dịch vụ y tế, ngân hàng, quản lý nhà nước,…Nhu
cầu đối với từng loại hàng hóa KH&CN rất khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát
triển. Nhu cầu đối với hàng hóa KH&CN có thể nhằm phục vụ những mục đích
cơng ích hoặc tư lợi. Với mục tiêu can thiệp chính sách, nghiên cứu này sẽ phân tích
nhu cầu hàng hóa KH&CN theo loại hình tổ chức trong nền kinh tế. Có rất nhiều
loại hình tổ chức khác nhau, tuy nhiên có thể tập trung vào một số loại cơ bản, đó là:
các thực thể hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận, gọi chung là doanh nghiệp; các cơ
cơ quan Nhà nước hoạt động nhằm mục tiêu cơng ích; các tổ chức phi chính phủ
hoạt động khơng vì lợi nhuận.
- Nhu cầu từ phía doanh nghiệp: Nhu cầu hàng hóa KH&CN của doanh
nghiệp rất đa dạng, bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chiến
lược kinh doanh, năng lực cơng nghệ, tiềm lực tài chính và đặc thù của ngành sản
xuất. Trong giai đoạn phát triển hiện nay ở nước ta, khi tăng trưởng chủ yếu dựa trên
sự mở rộng về vốn và lao động để cung cấp những sản phẩm đã phổ biến (ít ra là
trên thế giới) thì nhu cầu đối với hàng hóa KH&CN của doanh nghiệp trong các
ngành công nghiệp chủ yếu được gắn với mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền
cơng nghệ sản xuất. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, đã xuất hiện những doanh
nghiệp đi xa hơn năng lực sản xuất, bắt đầu xây dựng năng lực thiết kế. Nhu cầu
thực sự đối với hàng hóa KH&CN cũng phát triển.
- Nhu cầu từ phía Nhà nước: Nhà nước cần hàng hóa KH&CN để: (1) vận
hành bộ máy nhà nước được hiệu quả; (2) cung cấp ưu đãi hoặc miễn phí cho các
đối tượng thụ hưởng ngân sách hoặc cho toàn bộ cộng đồng; (3) giải quyết những
vấn đề cơng ích phát sinh từ đời sống, có ý nghĩa chiến lược, xã hội quan trọng.
Cũng như doanh nghiệp, để đáp ứng nhu cầu đối với hàng hóa KH&CN như
trên, Nhà nước có thể chọn giải pháp thị trường, tức là mua sản phẩm KH&CN có
sẵn hoặc thuê dịch vụ KH&CN để có kết quả như mong muốn. Mặc khác Nhà nước
có thể chọn giải pháp phi thị trường như tự tổ chức để cung cấp hàng hóa KH&CN
mong muốn. Cho tới nay tư duy tự làm vẫn là chủ yếu nhưng xu thế chuyển sang thị
trường cũng đã bắt đầu xuất hiện và đây cũng là yếu tố quan trọng đẻ phát triển thị
trường hàng hóa KH&CN.
- Nhu cầu từ phía cá nhân: Trong đời sống phong phú và đa dạng, nhu cầu cá
nhân đối với tri thức KH&CN cũng rất lớn. Cá nhân có thể thỏa mãn nhu cầu này
thơng qua việc đọc và xem các ấn phẩm KH&CN dưới nhiều hình thức khác nhau.
Cá nhân cũng có thể tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức hoặc tìm kiếm tư vấn từ
các tổ chức, cá nhân thích hợp. Có thể nói thị trường hàng hóa KH&CN phục vụ
14
nhu cầu cá nhân là rất lớn và ngày càng phát triển. Khác với doanh nghiệp và nhà
nước, việc đáp ứng nhu cầu tri thức KH&CN của cá nhân thông qua đọc hoặc xem
các ấn phẩm KH&CN thường phải thông qua trung gian là các nhà xuất bản. Ở đây
vấn đề bản quyền tác giả là then chốt để thị trường có thể hoạt động bình thường.
1.4. Cung cấp hàng hóa KH&CN
Thị trường hàng hóa KH&CN sẽ khơng tồn tại nếu khơng có những nhà cung
cấp. Nhà cung cấp hàng hóa KH&CN có thể là doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN,
Nhà nước và các nhà sáng chế độc lập. Có nhà cung cấp phát triển hàng hóa
KH&CN trước hết phục vụ cho chính họ, việc bán ra thị trường chỉ là "dẫn xuất"
của việc bán sản phẩm. Có những tổ chức sản xuất hàng hóa KH&CN chủ yếu là để
bán (như các tổ chức KH&CN hay các nhà sáng chế độc lập), việc tự tiêu dùng (như
tự tổ chức sản xuất dựa trên công nghệ được phát triển) chỉ là giải pháp bất đắc dĩ.
Hàng hóa KH&CN có thể được cung cấp bởi các tổ chức trong nước (bao
gồm cả các tổ chức có vốn nước ngồi nhưng là pháp nhân của nước đó như các
cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi), cũng có thể bởi các nhà cung cấp nước ngồi.
Việc cung cấp hàng hóa KH&CN có thể dựa trên nguyên tắc thị trường, cũng có thể
là phi thị trường, tùy từng trường hợp cụ thể.
- Cung cấp hàng hóa KH&CN từ nhà nước: Với tính chất hàng hóa cơng, đầu
tư nhân để tạo ra hàng hóa KH&CN sẽ luôn ở dưới mức tối ưu xã hội. Ngay cả khi
hệ thống luật pháp về sở hữu trí tuệ phát huy đầy đủ hiệu lực thì đầu tư của khu vực
tư nhân cho việc tạo ra hàng hóa KH&CN cũng không đạt được mức tối ưu xã hội.
Hơn nữa, bản thân hệ thống này cũng chứa đựng những hạn chế nội tại, gây lãng phí
một phần lợi ích xã hội.
Do vậy, can thiệp của Nhà nước được coi là cần thiết. Về lý thuyết, Nhà nước có
nhiều cách can thiệp khác nhau và thực tế các cách can thiệp này đều đã được sử dụng.
Mỗi cách dựa trên những nguyên lý khác nhau, có những ưu nhược điểm khác nhau.
Loại can thiệp thứa nhất được sử dụng phổ biến ở nước ta cho đến nay là
nhà nước trực tiếp đóng vai trị sản xuất hàng hóa KH&CN để cung cấp ưu đãi
hoặc miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng. Nhà nước làm việc này thông qua hoạt
động của những tổ chức KH&CN do Nhà nước thành lập, giao nhiệm vụ cấp kinh
phí và trực tiếp quản lý như các phịng thí nghiệm, viện nghiên cứu, trường đại
học, thậm chí là doanh nghiệp nhà nước.
Loại can thiệp thứ hai là nhà nước gián tiếp tạo ra hàng hóa KH&CN bằng
các đặt hàng các tổ chức KH&CN độc lập thực hiện theo yêu cầu của Nhà nước.
Loại can thiệp thứ ba là nhà nước mua lại hàng hóa KH&CN đã được các tổ
chức KH&CN độc lập tạo ra, sau đó cung cấp cho các đối tượng thụ hưởng.
15
Loại can thiệp thứ tư là nhà nước hỗ trợ về tài chính, chẳng hạn như cấp
kinh phí cho các tổ chức KH&CN độc lập để họ có thêm điều kiện thực hiện
những dự án tạo ra hàng hóa KH&CN của họ. Ở đây Nhà nước không đặt hàng và
thường khơng sở hữu hàng hóa KH&CN được tạo ra. Bản thân việc hàng hóa
KH&CN này được tạo ra đã đáng được khuyến khích, cách này này thường được
làm thơng qua các quỹ.
- Cung cấp hàng hóa KH&CN từ tổ chức KH&CN: Các tổ chức KH&CN
thường được được coi là bên cung hàng hóa KH&CN, mặc dù đơi khi họ cũng là
người mua. Sản phẩm chủ yếu của các tổ chức KH&CN, đặc biệt là các tổ chức
NC&PT là những công nghệ ở dạng chưa hồn chỉnh, cơng nghệ ở quy mơ phịng thí
nghiệm, là những ý tưởng mới, giải pháp mới, có thể đã được cấp văn bằng bảo hộ
sáng chế (pa-tăng), có thể chưa nhưng vẫn có giá trị thương mại tiềm tàng. Các nhà
sáng chế độc lập cũng có thể coi là một dạng đặc biệt của tổ chức KH&CN và sản
phẩm lao động sáng tạo của họ cũng thường là những ý tưởng mới, giải pháp mới.
Trong trường hợp thị trường cơng nghệ chưa phát triển, thì cơng nghệ ở
dạng chưa hồn chỉnh của các tổ chức NC&PT rất khó bán. Nếu khơng được nhà
nước bao cấp hay nhận được hợp đồng thực hiện NC&PT (của nhà nước hay của
doanh nghiệp), các tổ chức này sẽ phải chạy theo việc "ăn xổi" hơn như nghiên cứu
chế tạo phụ tùng, thiết bị thay thế nhập khẩu, cung ứng dịch vụ thử nghiệm (do có
sẵn các thiết bị thí nghiệm) hay các dịch vụ kỹ thuật thông thường khác. Thậm chí
họ có thể tổ chức sản xuất ở quy mơ nhất định một số sản phẩm thị trường có nhu
cầu. Việc sản xuất này có thể dựa trên cơng nghệ do họ phát triển nhưng cũng có
thể dựa trên cơng nghệ du nhập từ bên ngồi.
- Cung cấp hàng hóa KH&CN từ doanh nghiệp: Doanh nghiệp vừa thuộc bêm
cầu, vừa thuộc bên cung hàng hóa KH&CN (chủ yếu là cơng nghệ). Do chi phí giao
dịch cao, nhiều doanh nghiệp tự phát triển công nghệ để đáp ứng nhu cầu của họ và
việc chào bán công nghệ chỉ đơn thuần là bán sản phẩm. Thay vì mở rộng quy mơ sản
xuất để tiêu thụ sản phẩm tại thị trường mới, họ có thể bán cơng nghệ cho các doanh
nghiệp khác để những người này sản xuất và khai thác thị trường.
Phát triển công nghệ ở doanh nghiệp được thực hiện ở những quy mơ khác
nhau. Các tập đồn lớn, các tổng cơng ty thường có các trung tâm hoặc viện NC%PT
riêng, được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, có nguồn kinh phí hoạt động và thu hút
được nhiều nhà khoa học giỏi. Hoạt động KH&CN tại doanh nghiệp thường tập trung
vào nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm, nhằm mục tiêu phát triển những
công nghệ duy trì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do là một bộ
phận của doanh nghiệp nên các cơ sở NC&PT này được thừa hưởng nhiều tri thức và
kinh nghiệm mà doanh nghiệp tích lũy được trong nhiều năm kinh doanh. Hoạt động
16
NC&PT ở những doanh nghiệp này có thể tạo ra những ý tưởng mới, giải pháp mới,
công nghệ mới, một số có thể đăng ký pa-tăng,…Những kết quả này có thể được
doanh nghiệp sử dụng cho các mục đích khác nhau. Chúng có thể được bán ra bên
ngồi hoặc được phát triển tiếp thành đổi mới.
Những doanh nghiệp có tiềm lực như mơ tả trên đây thường có nhiều loại hàng
hóa KH&CN để bán. Đó có thể là cơng nghệ chưa hoàn chỉnh (sáng chế chưa được
phát triển thành đổi mới) nhưng quan trọng hơn là ở dạng hoàn chỉnh, đã được khẳng
định về kỹ thuật và thương mại. Công nghệ hồn chỉnh cho phép người mua cơng
nghệ tiến hành sản xuất sản phẩm đã được công nhận rộng rãi trên thị trường. Bên bán
cơng nghệ thậm chí có thể bao tiêu một phần sản phẩm, hay giúp bên mua tiếp cận
các nguồn cung cấp nguyên vật liệu cần thiết. Đây là khác biệt của công nghệ doanh
nghiệp so với công nghệ của các tổ chức KH&CN chuyên nghiệp.
1.5. Các trở ngại trong mua bán hàng hóa KH&CN
- Quyền sở hữu đối với hàng hóa KH&CN: Điểm cơ bản trong quan hệ mua
bán là vấn đề sở hữu. Quyền đối với tài sản của người bán trước và sau khi giao
dịch mua bán xảy ra, cũng như quyền đối với tài sản của người mua sau khi giao
dịch xảy ra, phải được quy định rõ ràng và được pháp luật hoặc một thể chế tương
đương bảo vệ.
Bản chất tri thức của hàng hóa KH&CN khiến vấn đề quyền tài sản đối với
hàng hóa KH&CN trở nên phức tạp. Ngồi ra tính chất của một hàng hóa cơng đặt ra
vấn đề cân đối lợi ích giữa sở hữu tư nhân đối với hàng hóa KH&CN và việc xã hội
được hưởng lợi tối đa nhờ được sử dụng hàng hóa này. Hệ thống pháp luật về sở hữu
trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ và pháp luật khác đã được liên tục phát triển và mở
rộng để giải quyết phần nào những quan hệ tài sản phức tạp trên đây, không chủ trong
phạm vi quốc gia, vùng lãnh thổ mà còn trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia.
- Bất bình đẳng về thơng tin: Khác với những hàng hóa thơng thường, với
nhiều nội dung mang bản chất thông tin, phi hiện vật, cơ hội cho người mua và bán
công nghệ gặp được nhau (chưa nói đến chuyện thực hiện được giao dịch) khơng hề
dễ dàng. Bất bình đẳng về thơng tin giữa người mua và người bán có thể khiến thị
trường hàng hóa KH&CN bị đình trệ, mặc dù người bán muốn bán và người mua
muốn mua. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, tình trạng này có thể được giải quyết phần
nào nhờ các tổ chức trung gian có uy tín đứng ra bảo lãnh hay cung cấp dịch vụ thẩm
định. Dịch vụ thẩm định phải được đặt chủ yếu trên cơ sở uy tín của cơ quan cung cấp
dịch vụ, chứ không phải tư cách pháp nhân của cơ quan này.
- Chi phí giao dịch trong mua bán cơng nghệ q cao thì giao dịch có thể khơng
thực hiện được. Việc bên nào phải gánh chi phí giao dịch cịn tùy thuộc vào đối tượng
hay loại công nghệ được mua bán, cũng như những điều kiện khác. Mua bán công
17
nghệ hay chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp cũng thường bị tác động bởi
chi phí giao dịch cao. Trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, đặc với những cơng
nghệ mới, có tính cạnh tranh cao, để đảm bảo lợi ích của mình, bên bán thường đưa ra
hợp đồng với những điều khoản ràng buộc bên mua, như quy định không được bộc lộ
công nghệ cho bên thứ ba. Quy định là vậy nhưng nếu việc thực thi hợp đồng khơng
nằm trong tầm kiểm sốt của bên bán do vậy có thể gây thiệt hại hoặc nếu muốn kiểm
sốt thì rất tốn kém, cũng là một loại thiệt hại thì bên có cơng nghệ chưa chắc đã
muốn bán và giao dịch có thể khơng xảy ra. Đây là một cản trở cho việc mua công
nghệ tiên tiến của các nước phát triển.
- Tổ chức trung gian môi giới: là các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ đổi mới, chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm KH&CN. Tùy theo
từng loại hình, chức năng, quy mơ và chun mơn hóa khác nhau, các tổ chức này
thực hiện cung cấp các loại hình dịch vụ thơng tin và mơi giới, dịch vụ sở hữu trí tuệ,
dịch vụ thương thảo, đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ, dịch vụ đánh giá,
định giá công nghệ,…Thực tế, cũng có nhiều tổ chức vừa cung cấp một số dịch vụ
chuyên sâu, đồng thời thực hiện chức năng tích hợp hệ thống các loại hình dịch vụ
khác với mục tiêu đáp ứng nhu cầu về dịch vụ trọn gói cho khách hàng.
Các tổ chức trung gian môi giới được thành lập và hoạt động dưới nhiều hình
thức khác nhau. Các tổ chức này bao gồm các cơ quan chức năng của nhà nước, hiệp
hội, doanh nghiệp tư vấn độc lập, NGOs,…
Giao dịch mua bán chỉ có thể xảy ra khi người mua và người bán có tiếp xúc,
trực tiếp (không qua môi giới) hay gián tiếp (qua môi giới), vật lý (giao dịch trực tiếp)
hay ảo (qua phương tiện truyền thông). Chợ là một trong những thể chế như vậy, chợ
cung cấp hạ tầng, dịch vụ kèm theo để người mua, người bán gặp nhau, thỏa thuận và
thực hiện các giao dịch. Từ chỗ chỉ là chợ vật lý, có giới hạn về khơng gian và thời
gian, hiện nay cịn thêm loại hình chợ ảo cho phép mở rộng giới hạn về không gian và
thời gian của chợ.
Cùng với chợ là hoạt động môi giới, với nhiều loại hoạt động mơi giới và cấp
độ khác nhau nhưng có cùng chức năng là xúc tiến tiếp xúc giữa người bán và người
mua. Sự khác biệt giữa hoạt động môi giới và chợ là hoạt động môi giới chỉ dựa vào
những thơng tin mà người mơi giới có được. Ngồi ra cơ quan mơi giới có thể đi xa
hơn việc giúp người mua, người bán gặp nhau, để cung cấp những dịch vụ khác như:
dàn xếp giá cả, bảo lãnh về tính chân thực của cơng nghệ chào bán hoặc bảo lãnh tín
dụng cần thiết đẻ giao dịch có thể thực hiện được.
18
1.6. Mơ hình phát triển thị trường cơng nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa
- Đặc tính hàng hóa KH&CN của từng giai đoạn cơng nghiệp hóa
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy khoảng 10% các đề tài nghiên cứu khoa
học tạo ra được công nghệ mới và thông thường phải mất thời gian 15 năm từ khi
bắt tay nghiên cứu khoa học cho đến khi tạo ra được sản phẩm mới ứng dụng vào
sản xuất (công nghệ đẩy). Đầu tư cho KH&CN như vậy là đầu tư có nhiều rủi ro,
song đây là con đường duy nhất để một nước có được cơng nghệ mới. Các nước
dẫn đầu về công nghệ phải chấp nhận đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo cách
này để tạo ra công nghệ mới. Đây là cách cơng nghiệp hóa của các nước phát triển
Âu, Mỹ đã đi qua.
Các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và thậm
chí Nhật Bản tiến hành cơng nghiệp hóa theo cách khác, đó là tiến hành nghiên cứu
cải tiến các công nghệ nhập từ nước ngồi và như vậy họ có thể phát triển được
năng lực công nghệ rất nhanh và tự phát triển cơng nghệ của tiêng mình bằng cách
kết hợp cơng nghệ do mình sáng tạo với một phần cơng nghệ của nước ngoài.
Điểm ưu việt của cách làm này là tiết kiệm thời gian và tạo ra công nghệ đáp ứng
nhanh yêu cầu trong nước. Điều này cũng giúp tạo ra sự tự chủ về cơng nghệ và
tích lũy được kinh nghiệm về các bí quyết kỹ thuật. Hệ quả là họ có được cả năng
lực biết cách chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành công nghệ.
UNIDO đã tổng kết quá trình cơng nghiệp hóa của mơt nước và thấy rằng
q trình này phải trải qua 5 giai đoạn và cũng nhận thấy rằng phát triển năng lực
công nghệ (tạo ra hàng hóa KH&CN có hàm lượng chất xám cao) gắn liền với q
trình cơng nghiệp hóa. Như vậy, năng lực KH&CN của bất kỳ quốc gia nào cũng
phải phát triển có hệ thống theo 5 giai đoạn phát triển cơng nghiệp hóa như sau:
1. Giai đoạn truyền thống: tại giai đoạn này, khoa học hoặc công nghệ hiện
đại đều chưa được áp dụng. Trình độ cơng nghệ đạt mức cơng nghệ được tạo ra từ
kinh nghiệm có trước đó. Đây là trình độ của các nước cơng nghiệp kém phát triển.
2. Giai đoạn cơng nghệ phụ thuộc nước ngồi: ở giai đoạn này, công việc
phát triển đơn giản là sử dụng công nghệ nhập để phát triển sản xuất hoặc phổ
biến, nhân rộng cơng nghệ nhập chưa có cải tiến ra ở trong nước. Trình động cơng
nghệ này thường tìm thấy ở các nước cơng nghệ đang cơng nghiệp hóa, có hiểu
biết về kỹ thuật sản xuất, kỹ thuật cơng nghiệp và kỹ thuật cơ bản để có thể tự lựa
chọn, vận hành được cơng nghệ thích hợp cho mình.
3. Giai đoạn bắt chước cơng nghệ nước ngồi: giai đoạn này bắt đầu bằng
việc kết hợp năng lực công nghệ trong nước với công nghệ nhập để đuổi theo các
nước dẫn đầu về công nghệ. Các nước ở giai đoạn này có thể gọi là nước bán cơng
nghiệp với một năng lực nhất định về cải tiến công nghệ. Năng lực của các kỹ sư
19
vào thời điểm này là có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm và công nghệ sản
xuất, dịch vụ tư vấn và tìm các giải pháp cơng nghệ. Các kỹ sư nắm bắt tốt các
nguồn thông tin, vấn đề bản quyền và sáng chế. Hoạt động nghiên cứu và triển
khai được tiến hành chủ yếu cho việc hỗ trợ bắt chước công nghệ.
4. Gian đoạn củng cố, mở rộng phát triển cơng nghệ: ở trình độ này là các
nước đã cơng nghiệp hóa cũ và mới. Để đạt trình độ này ở các nước phải có năng
lực nghiên cứu và triển khai tốt và có năng lực khơng những nhân rộng cơng nghệ
đang hiện có mà cả tạo ra cơng nghệ mới bằng cách kết hợp giữa công nghệ nhập
ngoại với cơng nghệ của mình hoặc nâng cấp cơng nghệ, nâng cao hoạt động của
công nghệ.
5. Giai đoạn dẫn đầu về công nghệ: đây là giai đoạn phát triển cao nhất với
năng lực đổi mới cơng nghệ được hồn thiện. Đó là các nước cơng nghiệp dẫn đầu có
đầy đủ năng lực từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng đến các nghiên cứu tiên
tiến và có cả năng lực sáng tạo ra công nghệ mới và áp dụng hiệu quả vào sản xuất.
- Năng lực công nghệ của doanh nghiệp và tổ chức KH&CN trong q trình
cơng nghiệp hóa
Theo kinh nghiệm của các nước đang cơng nghiệp hóa, sự phát triển năng
lực công nghệ của doanh nghiệp sẽ quyết định đến tính chất hoạt động của tổ chức
nghiên cứu phát triển độc lập và các trường đại học, tức là quyết định đến loại
hàng hóa sản phẩm KH&CN nào được ưu chuộng trên thị trường vào từng giai
đoạn cơng nghiệp hóa
• Các loại hàng hóa KH&CN của doanh nghiệp trong tiến trình cơng nghiệp hóa
Việc chuyển giao cơng nghệ từ tổ chức nghiên cứu phát triển sang sản xuất
phải qua nhiều bước như: thiết kế, thiết lập kỹ thuật sản xuất hoặc quy trình cơng
nghệ và cả những hoạt động tiếp thị (marketing) cho sản phẩm mới. Các hoạt động
này cùng với hoạt động nghiên cứu phát triển có liên quan chặt chẽ với hệ thống
sản xuất và thị trường của doanh nghiệp. Từ thực tế khách quan như vậy, phần lớn
q trình chuyển giao cơng nghệ nêu trên cần diễn ra ở trong doanh nghiệp thì
cơng nghệ được tạo ra mới áp dụng ngay được cho doanh nghiệp đó. Để triển khai
khâu này, doanh nghiệp có thể bố trí một tổ chức thực hiện q trình chuyển giao
cơng nghệ. Điều này có tác dụng làm rõ điểm dừng của các hoạt động nghiên cứu
phát triển của các tổ chức nghiên cứu phát triển (ngoài doanh nghiệp) và điểm bắt
đầu công việc nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp. Các tổ chức nghiên cứu
phát triển độc lập sẽ làm nghiên cứu phát triển như được hiểu và sẽ dừng q trình
này trước khi cơng đoạn chuyển giao bắt đầu hoặc ở giai đoạn sớm hơn. Và bắt
đầu từ đó địi hỏi các doanh nghiệp phải tự tiến hành một số cơng đoạn hồn thiện
cơng nghệ đến trước khi có thể thực sự ứng dụng cơng nghệ vào sản xuất. Nhưng
20
thường ở các nước đang cơng nghiệp hóa, doanh nghiệp cơng nghiệp chỉ tiến hành
hoạt động sản xuất và có ít các hoạt động có thể gọi là làm phát triển hoặc nghiên
cứu, hơn nữa các doanh nghiệp cũng không có hạ tầng cơ sở dành cho cơng tác
hồn thiện cơng nghệ. Điều này có thể tồn tại ở giai đoạn đầu của cơng nghiệp hóa
nhưng từ giai đoạn 3 trở đi doanh nghiệp cần phải có lực lượng thực hiện nghiên
cứu phát triển để tạo ra có nhu cầu đầu vào cho các nghiên cứu phát triển từ phía
bên ngoài. Nếu các tổ chức nghiên cứu phát triển chỉ thực hiện các nghiên cứu
thuần túy và doanh nghiệp chỉ tiến hành hoạt động sản xuất thuần túy thì việc
chuyển giao giữa chúng trở nên rất thấp và hàng hóa cung cầu không trao đổi được
với nhau. Tầm quan trọng của vấn đề này được ghi nhận theo hai cách tại các nước
đã trải qua cơng nghiệp hóa:
- Một mặt, hiệu quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu phát triển sẽ bị
hạn chế rất nhiều như năng lực cơng nghệ để hồn thiện kết quả nghiên cứu phát
triển ở trong các ngành cơng nghiệp khơng có. Nói cách khác cần phải có sự phát
triển tương thích về năng lực công nghệ ở cả bên cung công nghệ và bên cầu cơng
nghệ, chỉ có như thế bên cầu cơng nghệ mới tiếp thu được công nghệ do bên cung
tạo ra.
- Mặt khác, nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bổ sung
cho nhau giữa các hoạt động đổi mới bên trong các doanh nghiệp và việc sử dụng
các tổ chức nghiên cứu phát triển bên ngoài doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
khơng có tổ chức nghiên cứu phát triển ở bên trong thì khơng bao giờ trở thành
khách hang của các tổ chức nghiên cứu phát triển và việc giao cho các tổ chức
nghiên cứu phát triển nằm ngoài doanh nghiệp làm thay hoạt động nghiên phát
triển của doanh nghiệp thì sẽ khơng bao giờ có được kết quả như mong muốn.
Chính việc kém triển khai các hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp sẽ hạn chế
phát triển các liên kết với các tổ chức nghiên cứu công lập bên ngồi vì rằng vai trị
của nghiên cứu bên ngoài chỉ là bổ sung cho nghiên cứu phát triển của doanh
nghiệp, tức là khơng đóng vai trị thay thế cho nghiên cứu phát triển trong doanh
nghiệp. Từ đây cũng cho thấy chính sự thiếu hụt cán bộ nghiên cứu trình độ cao
trong doanh nghiệp sẽ khơng tạo được sự giao tiếp với các viện nghiên cứu và do
vậy sẽ tồn tại khoảng cách giữa bên doanh nghiệp và bên các tổ chức nghiên cứu.
• Phát triển hành hóa KH&CN của doanh nghiệp trong tiến trình cơng nghiệp hóa
Việc thay đổi căn bản hoạt động nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp và
tổ chức nghiên cứu phát triển có thể triển khai được rất nhanh chóng. Trên thực tế
Hàn Quốc đã chuyển đổi hoạt động này chỉ trong một thập niên cuối những năm
1980. Xuất phát từ một cấu trúc 80% nghiên cứu phát triển được thực hiện bởi các
tổ chức bên ngồi doanh nghiệp, chỉ có 20% được thực hiện trong doanh nghiệp,
21
chỉ sau 10 năm tình hình đã ngược lại 80% nghiên cứu phát triển được trong doanh
nghiệp, chỉ có 20% được thực hiện bởi các tổ chức bên ngoài doanh nghiệp.
Thực hiện cách làm này cần phải tiến hành phối hợp cả hai bên cung và bên
cầu. Đối với bên cầu có thể thấy việc nâng cao áp lực cạnh tranh mà doanh nghiệp
đang gặp phải sẽ thúc ép doanh nghiệp tăng cường các đổi mới kỹ thuật và do vậy
phải đầu tư vào năng lực cần thiết để tạo ra các thay đổi đó. Mặc dù vậy, doanh
nghiệp cũng gặp phải một loạt các vấn đề về chi phí, mạo hiểm khi tiến hành các
đầu tư như vậy. Một loạt các biện pháp tập trung vào bên cung của q trình tích
lũy cơng nghệ có thể giúp cho việc giảm thiểu các khó khăn này. Một số các giải
pháp đã thường được sử dụng như khuyến khích tài chính, hành chính. Nhưng tác
động của cơng cụ tài chính và sự khả thi về quản lý hành chính cịn là một câu hỏi.
Một cách tích cực hơn có thể là triển khai nhiều thể loại chương trình để "bẻ ghi"
các nguồn lực cơng ích dành cho nghiên cứu phát triển và hoạt động liên quan về
cho các doanh nghiệp hơn là về cho các tổ chức nghiên cứu phát triển cơng lập.
Cách tiếp cận này có thể áp dụng cho việc đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực
KH&CN, theo đó, các hoạt động đào tạo về cơng nghệ được tài trợ từ nhà nước sẽ
được giao cho các doanh nghiệp tự thực hiện.
Một cách tiếp cận khác đó là chuyển tổ chức nghiên cứu phát triển về doanh
nghiệp, đó là việc làm cho các tổ chức nghiên cứu phát triển gắn trực tiếp hơn với
doanh nghiệp. Đây là một chính sách đã được thực hiện ở Trung Quốc vào cuối
những năm 1981. Cách tiếp cận này tỏ ra thành công hơn vào những năm 1970 khi
Viện Công nghệ điện tử Hàn Quốc đã được bán cho một Cheabol rất lớn có nhu
cầu phát triển năng lực nghiên cứu cho riêng mình.
• Phát triển hàng hóa KH&CN của tổ chức nghiên cứu phát triển trong tiến
trình cơng nghiệp hóa
Nhiều tổ chức nghiên cứu phát triển có vai trị rất khiêm tốn trong việc đóng
góp cho đổi mới cơng nghệ của doanh nghiệp ở giai đoạn 2 và 3, nguyên nhân là
năng lực của các tổ chức nghiên cứu phát triển này không phù hợp với các yêu cầu
về công nghệ của doanh nghiệp ở giai đoạn này. Có thể chia thành hai loại công
việc mà các tổ chức nghiên cứu phát triển có thể giúp cho các doanh nghiệp ở giai
đoạn cơng nghiệp hóa 2 và 3 như sau:
- Tìm và phổ biến các công nghệ hiện hữu trong nước nhưng đối với doanh
nghiệp khác ở trong nước vẫn là mới.
- Phổ biến các công nghệ tốt nhất trong thực tế đang có ở trong nước và hỗ
trợ việc ứng dụng, sử dụng chúng.
Với hai cơng việc trên thì một loạt các dịch vụ có thể được cung cấp từ các
tổ chức nghiên cứu phát triển như: tư vấn kỹ thuật, đào tạo, cung cấp thông tin.
22
So với liên kết về phát triển công nghệ mới và đổi mới cơng nghệ thì hiệu
quả hoạt động của việc cung cấp dịch vụ phụ thuộc rất ít vào những gì doanh
nghiệp đã tích lũy được về nghiên cứu phát triển và các năng lực cơng nghệ khác.
Có hai vấn đề đặt ra khi phát triển dịch vụ này:
- Thứ nhất, đối với các tổ chức nghiên cứu phát triển mới thành lập, trong
nhiều trường hợp, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu doanh nghiệp được xem xét là điều
kiện tiên quyết cho hoạt động của các tổ chức KH&CN mới này. Do vậy trong q
trình cơng nghiệp hóa, tổ chức KH&CN phải điều chỉnh năng lực cung cấp các
hàng hoá sản phẩm KH&CN cho phù hợp với các loại hàng hóa và sản phẩm
KH&CN mà doanh nghiệp yêu cầu.
- Thứ hai, các tổ chức KH&CN hiện tại đang có các năng lực công nghệ
không phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp thì phải thay đổi quan điểm và phải
xác định vị trí của dịch vụ phải là mục tiêu tiên quyết của tổ chức KH&CN, đặc
biệt là nguồn lực có kỹ năng, tri thức.
• Ươm tạo cơng nghệ và thành lập doanh nghiệp mới
Đáng lẽ tìm cách chuyển giao kết quả nghiên cứu phát triển vào các doanh
nghiệp hoặc cung cấp cho doanh nghiệp những dịch vụ liên quan đến công nghệ,
các tổ chức nghiên cứu phát triển có thể tiến hành chuyển giao kết quả nghiên cứu
là các công nghệ mới mà tổ chức nghiên cứu phát triển tạo ra. Có hai loại hình tổ
chức doanh nghiệp mới được thành lập:
- Thứ nhất, là doanh nghiệp “spin-off” (các doanh nghiệp được thành lập
dựa trên kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu phát triển và tách thành doanh
nghiệp độc lập). “Spin-off” là việc chuyển một số người cùng với công nghệ mới
tạo ra rời khỏi tổ chức nghiên cứu phát triển sang môi trường sản xuất, thị trường.
Trong bối cảnh này, q trình chuyển hóa cơng nghệ được tiếp tục, đó là việc bổ
sung them các nguồn lực, kỹ năng kinh doanh và yêu cầu của mơi trường sản xuất
và thị trường.
- Thứ hai, đó là việc bổ sung các bộ phận sản xuất (gọi là spin-out) cho tổ
chức nghiên cứu phát triển và chuyển thành doanh nghiệp. Theo đó, tổ chức nghiên
cứu phát triển sẽ tìm kiếm, bổ sung các nguồn lực cho hoạt động kỹ thuật, sản xuất,
thị trường, quản lý. Cùng với việc bổ sung chức năng sản xuất, tổ chức nghiên cứu
phát triển vẫn giữ chức năng nghiên cứu phát triển và trở thành đơn vị nghiên cứu
phát triển của doanh nghiệp.
23
II – GIỚI THIỆU KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CƠNG NGHỆ
TRONG VÀ NGỒI NƯỚC
2.1. Kinh nghiệm ngồi nước
2.1.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ của Trung Quốc.
- Quan niệm thị trường công nghệ của Trung Quốc: Trước đây, Trung Quốc
quan niệm tri thức khoa học là sản phẩm của chung trong xã hội, là một thức sản
phẩm cơng ích. Nhưng qua một thời gian phát triển cơ chế thị trường, tri thức
KH&CN đã trở thành hàng hóa và thị trường công nghệ được xem như là một thể
chế mới của quản lý KH&CN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sản
phẩm NC&PT giữa người tạo sản phẩm (tổ chức nghiên cứu và phát triển) và
người sử dụng sản phẩm (doanh nghiệp). Hoạt động trao đổi sản phẩm KH&CN
gồm các hình thức: Phát triển cơng nghệ theo hợp đồng, chuyển giao công nghệ,
tư vấn công nghệ và dịch vụ công nghệ (thiết kế, chế tạo…)
- Một số kinh nghiệm phát triển thị trường KH&CN
+ Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động các tổ chức NC&PT: Từ năm 1996
đến nay, Trung Quốc đã tiến hành chuyển các viện nghiên cứu ứng dụng thành các
doanh nghiệp KH&CN. Các tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc cung cấp dịch vụ
cơng cộng phi lợi nhuận vẫn có sự hỗ trợ của Nhà nước, vẫn là đơn vị sự nghiệp
hoặc nghiên cứu phi lợi nhuận.
Quá trình chuyển cơ chế đối với các viện NC&PT của Trung Quốc đã có tác
động tích cực trong việc gắn nghiên cứu với sản xuất, huy động nhiều nguồn kinh
phí, đặc biệt từ sản xuất để phát triển KH&CN, tạo ra nhiều sản phẩm cho thị
trường KH&CN. Thực hiện cơ chế mới, hầu hết các viện đã xây dựng bộ phận thị
trường, các nhà khoa học đã tìm đến các doanh nghiệp tìm hiểu nhu cầu đổi mới
công nghệ và xúc tiến hợp đồng. Các viện đều có các đơn vị phát triển công nghệ
để phục vụ giải quyết các yêu cầu của sản xuất.
+ Khuyến khích phát triển các tổ chức trung gian, môi giới: Trung Quốc rất
quan tâm việc phát triển hệ thống các tổ chức trung gian, môi giới nhằm tạo quan
hệ kết nối cung-cầu. Hệ thống các cơ quan trung gian này bao gồm các đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, các đơn vị thuộc các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội, các
tổ chức cá nhân.
Các tổ chức tư nhân hoặc trực thuộc các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội hoạt
động theo phương thức tự hạch toán, được Nhà nước tạo điều kiện hoạt động, ưu
đãi về thuế.
Các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước trong lĩnh vực trung gian, môi giới
chuyển giao công nghệ bao gồm các trung tâm thông tin, tư vấn, đào tạo, môi giới
24
chuyển giao công nghệ, các sàn giao dịch công nghệ, các trung tâm phát triển sức
sản xuất…Các cơ quan này có những mơ hình tổ chức với mức độ thâm nhập thị
trường khác nhau, hoạt động theo phương thức sự nghiệp có thu, hạch tốn một
phần, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên và các hoạt động Nhà
nước yêu cầu hoặc đạt hàng theo kế hoạch được duyệt hàng năm. Phần thu từ các
dịch vụ được chi cho đầu tư phát triển, chi trả thêm lương cán bộ…Các đơn vị này
được Nhà nước đầu tư rất lớn về cơ sở hạ tầng. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng
60.000 trung tâm thông tin, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ với khoảng
trên 1,2 triệu cán bộ, thực hiện nhiệm vụ gắn kết giữa các tổ chức KH&CN với
các doanh nghiệp. Cán bộ làm công tác trung gian, môi giới được Nhà nước Trung
Quốc chú ý đào tạo.
+ Một số chính sách hỗ trợ phát triển KH&CN: Trung Quốc đã thành lập Quỹ
phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ có hai nguồn vốn
chính: từ Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, quỹ chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp ở
giai đoạn sản xuất thử nghiệm. Trung Quốc khuyến khích thành lập các Quỹ đầu tư
mạo hiểm (chủ yếu của các nhà đầu tư nước ngồi) để đầu tư vào các dự án cơng
nghệ có triển vọng. Trung Quốc đã thành lập quỹ phát triển sáng chế để đầu tư
nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế.
Trung Quốc xác định chủ thể của sáng tạo, đổi mới cơng nghệ là các doanh
nghiệp. Do vậy đã có rấ nhiều giải pháp khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu,
phát triển và đổi mới công nghệ. Doanh nghiệp nào nếu dành lợi nhuận trước thuế
để mua công nghệ sẽ được Nhà nước miễn thuế thu nhập cho phần kinh phí đó.
Hàng năm, doanh nghiệp được trích 5% doanh thu (khơng tính thuế) để nghiên cứu
khoa học và phát triển cơng nghệ. Trung Quốc rất chú ý đào tạo cán bộ làm cơng
tác trung gian, mơi giới.
+ Một số mơ hình thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ
1. Trung tâm dịch vụ KH&CN thuộc Hiệp hội thị trường công nghệ: Trung
tâm làm dịch vụ môi giới, tư vấn chuyển giao cơng nghệ, hoạt động trên ngun
tắc tự hạch tốn. Một số hoạt động chủ yếu của Trung tâm là: xây dựng hệ thống
thông tin về các viện NC&PT; kết nối cung cầu, lựa chọn công nghệ, ký kết hợp
đồng công nghệ; tổ chức các hội thảo, tọa đàm, triển lãm cơng nghệ. Đây là mơ
hình một trung tâm nhỏ, giống như các trung tâm thông tin KH&CN, trung tâm
dịch vụ tư vấn KH&CN ở Việt Nam.
2. Sàn giao dịch công nghệ Thượng Hải: Sàn giao dịch được Bộ KH&CN
Trung Quốc và UBND thành phố Thượng Hải thành lập năm 1993. Đây là đơn vị
cơng ích, phi lợi nhuận của Nhà nước, hoạt động theo mơ hình tương tự như một
đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam. Tơn chỉ hoạt động là: thúc đẩy trao đổi công
25