Tải bản đầy đủ (.pdf) (263 trang)

Nghiên cứu kinh nghiệm hoa kỳ , ứng dụng vào việc xây dựng chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 263 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
o0o



BÁO CÁO TỔNG HỢP

NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ HỢP TÁC VỚI HOA KỲ
Nghiên cứu kinh nghiệm Hoa Kỳ về xây dựng phương pháp luận
phân tích hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới, ứng dụng vào việc
xây dựng chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập



Chủ nhiệm Nhiệm vụ: TS. Trần Ngọc Ca
Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ




8916


Hà nội, năm 2011


2


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ



NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ HỢP TÁC VỚI HOA KỲ
“Nghiên cứu kinh nghiệm Hoa Kỳ về xây dựng phương pháp luận
phân tích hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới, ứng dụng vào việc
xây dựng chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”


Danh sách Nhóm nghiên cứu chính:
1.TS. Trần Ngọc Ca, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN - Chủ nhiệm
(sắp xếp theo vần abc… của tên gọi)
2. TS. Chu Ngọc Anh, Bộ Khoa học và Công nghệ
3. ThS. Cao Thu Anh, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
4. TS. Lê Thanh Bình, Vụ Hợp tác quốc tế Bộ KH&CN
5. ThS. Đặng Thu Giang, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
6. ThS. Chu Thu Hà, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
7. ThS. Nguyễn Việt Hòa, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
8. ThS. Nguyễn Mạnh Quân, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
9. TS. Đặng Kim Sơn, Viện Chính sách và Chiến lược NN&PTNT
10. ThS. Nguyễn Thanh Tùng, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN



3


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 6
Chương Một: Những yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động đổi mới công nghệ của doanh
nghiệp vừa và nhỏ sau khi gia nhập WTO 9
I.1. Cơ hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO 9
I.2. Tác động tích cực của việc gia nhập WTO đối với doanh nghiệp VVN Việt Nam 10
I.3. Thách thức của doanh nghiệp VVN sau khi Việt Nam gia nhập WTO và những vấn đề
đặt ra cho hoạt động
đổi mới công nghệ 10
Chương Hai: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐỔI
MỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ, VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH
HIỆN TRẠNG ĐỔI MỚI 13
II.1. Kinh nghiệm thúc đẩy đổi mới cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hoa Kỳ 13
II.2. Kinh nghiệm của một số nước khác 25
II.2.1. Kinh nghiệm thúc đẩy đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp VVN của Thái Lan 25
II.2.2. Kinh nghiệm quốc tế thúc đẩy đổi mớ
i cho doanh nghiệp VVN của Trung quốc 38
II.3. Một số phương pháp xác định chỉ số đổi mới: kinh nghiệm thế giới 49
II.3.1. Cách tiếp cận về chỉ số đổi mới 49
II.3.2. Các công cụ đánh giá đổi mới nói chung 51
II.3.3. Một số kinh nghiệm quốc tế về hệ thống chỉ số đổi mới 52
II.3.4. Một số kinh nghiệm khác 59
Chương Ba: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG ĐỔI MỚI VÀ CHÍNH
SÁCH HỖ
TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA DNVVN Ở VIỆT NAM 63
III.1. Cách tiếp cận chung 63
III.1.1. Một số khái niệm cơ bản về đổi mới (innovation) 63
III.1.2. Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) 73
III.1.3. Hệ thống đổi mới vùng (RIS) 87

III.1.4 . Hệ thống đổi mới ngành 95
III.2. Phương pháp phân tích hiện trạng đổi mới 101
III.2.1. Hiện trạng các chỉ số liên quan đến đổi mới tại Việt Nam và khả năng áp d
ụng kinh
nghiệm quốc tế 101
III.2.2 Một số chỉ số được dùng thử trong điều tra ở Việt Nam 103
III.3. Phương pháp phân tích chính sách đổi mới 108
III.3.1. Phương pháp luận chung phân tích chính sách đổi mới: kinh nghiệm quốc tế 108
III.3.2. Kinh nghiệm quốc tế về phương pháp phân tích chính sách từ góc độ kinh tế của
đổi mới 115
III.3.3. Kinh nghiệm quốc tế về phương pháp phân tích chính sách từ góc độ phi kinh tế
của đổi mới 116

4
III.3.4. Nghiên cứu trường hợp: thử áp dụng phân tích chính sách hỗ trợ cho hoạt động
R&D của doanh nghiệp theo Nghị định 119 117
Chương Bốn: Hiện trạng đổi mới công nghệ trong DNVVN ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập 124
IV.1. Đánh giá tổng quan hiện trạng đổi mới công nghệ 124
IV.2. Một số nghiên cứu trường hợp về đổi mới công nghệ trong DNV&N 128
IV.3. Phân tích môi trường chính sách đổi mới công nghệ 149
IV.4. Phân tích môi trường chính sách và thể chế cho đổi mới trong lĩnh vực CN 149
IV.5. Phân tích môi trường chính sách và thể chế cho đổi mới trong lĩnh vực NN 156
IV.6. Phân tích môi trường chính sách và thể chế cho đổi mới trong lĩnh vực dịch vụ 166
IV.7. Năng lực quản lý đổi mới tại Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ 181
Chương Năm: ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ 184
V.1. Kiến nghị về những thay đổi chính sách hỗ trợ
đổi mới cho các DNVVN trong bối
cảnh sau gia nhập WTO 185
V.2. Thông qua các kênh tài trợ mới hoặc mang tính chính sách cho DNVVN 186

V.3. Sử dụng chính sách dịch vụ xã hội hoá thúc đẩy phát triển DNVVN 187
V.4. Về phương pháp phân tích hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới 190
TÀI LIỆU THAM KHẢO 191


5
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CGCN Chuyển giao công nghệ
CNTT Công nghệ thông tin
DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐMCN Đổi mới công nghệ
EIU Bộ Phân tích thông tin kinh tế
KH&CN Khoa học và công nghệ
KT-XH Kinh tế - xã hội
NRC Hội đồng nghiên cứu quốc gia
R&D Nghiên cứu và triển khai
SHTT Sở hữu trí tuệ
WTO Tổ chức thương mại thế giới




6

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo Nghị định thư hợp tác với Hoa Kỳ
“Nghiên cứu kinh nghiệm Hoa Kỳ về xây dựng phương pháp luận
phân tích hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới, ứng dụng vào
việc xây dựng chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”



LỜI NÓI ĐẦU

Đổi mới (Innovation) là chìa khóa cho thành công trong kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung và là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội nói
chung của các quốc gia. Thúc đẩy đổi mới và đổi mới công nghệ là một trong
những hoạt động mà các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ cần
thực hiện. Mặc dù đổi mới là một khái niệm không hoàn toàn mới ở nước ta, hoạt
động này chưa thực sự được nhìn nhậ
n một cách thấu đáo và đi vào cuộc sống một
cách mạnh mẽ.
Do nguồn lực hạn chế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn cần nhận được sự
hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chương trình hỗ trợ và chính sách khuyến khích
đổi mới công nghệ khác nhau. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đều cho
thấy điều này. Kể cả ở những nền kinh tế thị tr
ường mạnh, vai trò của Nhà nước
cũng vẫn rất rõ nét trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Hoa Kỳ, nền
kinh tế thị trường lớn nhất thế giới cũng có những chính sách và chương trình hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ khá hiệu quả. Việc học hỏi những kinh
nghiệm này là một nhu cầu cho việc xây dựng và thực thi các chính sách phù hợp
cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc có được một hệ phương pháp luận phù hợp để đánh giá và
phân tích hiện trạng đổi mới của doanh nghiệp là một nhu cầu cần thiết, giúp cho
các nhà phân tích, hoạch định chính sách, nhà quản lý và bản thân doanh nghiệp
nhận thức được chính xác hơn hiện trạng hoạt động đổi mới của mình, ở các cấp độ
khác nhau. Nhận diện rõ hiện trạng đổi mới sẽ giúp cho việc ho
ạch định và thực thi
chính sách hỗ trợ có cơ sở thực tế hơn. Đồng thời, việc phân tích hiện trạng chính
sách cho đổi mới là một việc không đơn giản và cũng đòi hỏi phải có những phương

pháp thích hợp. Phân tích chính sách và xây dựng, thiết kế, hoạch định chính sách là
một lĩnh vực chuyên môn tổng hợp của nhiều ngành khoa học, đòi hỏi phải có
phương pháp luận đúng. Trong bối c
ảnh của Việt Nam, những công cụ phân tích
này luôn là một điểm khó khăn và việc tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài là
một nhu cầu quan trọng. Những kinh nghiệm nước ngoài của Hoa Kỳ, Thái lan, một

7
số tổ chức quốc tế như OECD, EU, v.v sẽ là nền tảng quan trọng cho việc lựa
chọn phương pháp phân tích.
Mục tiêu của đề tài
Với định hướng như vậy, đề tài đã đặt ra mục tiêu nghiên cứu kinh nghiệm
Hoa Kỳ và một số kinh nghiệm quốc tế khác về xây dựng phương pháp luận phân
tích hiện trạng đổi mới của doanh nghiệp, và phương pháp luận phân tích chính
sách hỗ tr
ợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp ứng dụng các phương pháp này trong hoạt động của một số tổ
chức thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Đồng thời đề xuất một số chính sách hỗ trợ
hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Đề tài cũng nhằm hỗ trợ cho ho
ạt động của một số tổ chức thuộc Bộ Khoa
học và Công nghệ như Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ, Viện Chiến lược và
Chính sách Khoa học và Công nghệ, và cho các chương trình, đề án về đổi mới
công nghệ của Bộ như Chương trình Đổi mới công nghệ Quốc gia, Chương trình
Phát triển công nghệ cao Quốc gia, Chương trình Phát triển thị trường công nghệ,
v.v…; đóng góp vào quá trình xây dựng Chiến l
ược phát triển khoa học và công
nghệ Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Một số mục tiêu chuyên sâu của đề tài được đặt ra là:
- Tìm hiểu tổng quát phương pháp phân tích hiện trạng hệ thống đổi mới của

doanh nghiệp, đặc biệt là hiện trạng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp vừa và
nhỏ;
- Tìm hiểu phương pháp phân tích chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho
doanh nghiệp;
- Góp phần nâng cao năng lự
c một số cơ quan, tổ chức chuyên sâu về đổi
mới của Bộ Khoa học và Công nghệ (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và
Công nghệ, Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ) qua các đề xuất về phương
pháp luận, kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, thông qua các hoạt động
đào tạo, cùng tổ chức nghiên cứu, khảo sát và tập huấn về đổi mới;
- Đề xuất được một s
ố giải pháp chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới
công nghệ.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài đã chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: khảo sát nghiên cứu trường
hợp và phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp, tổ chức liên quan đến hoạt động đổi
mới như Viện, trường, cơ quan quản lý, tổ chức tài chính tại Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh và một số
địa bàn khác như Bắc Ninh, Cần thơ, v.v… tổ chức toạ đàm,
hội thảo bàn tròn, trao đổi và lấy ý kiến chuyên gia, nghiên cứu tư liệu.
Đề tài đã tổ chức một số hoạt động nâng cao năng lực như lớp đào tạo về
phương pháp luận cho các tổ chức có liên quan như Viện Chiến lược và Chính sách
Khoa học và Công nghệ, Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ, v.v đi khảo sát
tại một số địa bàn trong nước về hiện trạng của đổi mới công nghệ. Chuyên gia Hoa

8
Kỳ đã cùng với nhóm chuyên gia Việt Nam tổ chức khảo sát sơ bộ về hiện trạng đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp tại một số địa phương, và ngành. Do quy mô nhỏ,
khảo sát được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp doanh nghiệp và các tổ chức
liên quan, quan sát thực địa kết hợp với nghiên cứu số liệu thứ cấp.

Đề tài đã đưa ra được b
ức tranh tổng thể về hệ thống đổi mới ở Việt Nam
trên các cấp độ khác nhau, phân tích hiện trạng đổi mới và hiện trạng chính sách đổi
mới. Qua đó phát hiện những xu thế sử dụng phương pháp chỉ số phân tích đổi mới
và phương pháp phân tích chính sách ở Việt Nam. Trên cơ sở những kinh nghiệm
quốc tế (chủ yếu là của Hoa Kỳ), đề tài đã có những kết luậ
n và kiến nghị tương
ứng trong cả việc đưa ra những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đổi mới ở
nước ta cũng như phương pháp phân tích đổi mới.
Đề tài cũng đã có những đóng góp thông qua một số xuất bản phẩm như bài
báo đăng tạp chí hoặc các chương trong một số sách xuất bản, có liên quan đến hoạt
động đổi mới. Những tư liệu, tài li
ệu của đề tài được sử dụng trong một số chương
trình đào tạo của một số trường ở cấp đại học và sau đại học. Tuy nhiên, một điểm
hạn chế lớn của đề tài là do nguồn lực có hạn, không thể có được một cái nhìn và
đánh giá toàn diện hơn về hiện trạng đổi mới và chính sách đổi mới ở Việt Nam. Do
gặp khó khăn v
ề nguồn kinh phí từ phía đối tác nước ngoài, đề tài đã phải giành một
khoản kinh phí lớn cho việc mời chuyên gia nước ngoài. Nhìn chung, mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng kết quả nghiên cứu của đề tài chắc chắn còn những thiếu sót
cần được sự đóng góp quí báu của người đọc và thành viên các Hội đồng đánh giá.

Thay mặt Nhóm thực hiện Nhiệm vụ
Chủ nhiệm: Trầ
n Ngọc Ca


9
Chương Một:
Những yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động đổi mới công nghệ

của doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi gia nhập WTO

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7/11/2006, nền kinh tế Việt Nam
đã có những chuyển biến quan trọng. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
(FDI) tăng mạn, đã tạo nhiều cơ hội về đầu tư, mở rộng thị trường, quản lý, đổi mới
công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, cùng với các cơ hội đó các
doanh nghiệp trong nước cũng đang phả
i đối mặt với nhiều thách thức lớn. Tuy
nhiên, theo những nghiên cứu gần đây, mặc dù có sự phát triển ấn tượng, nhưng
DNV&N vẫn còn bộc lộ những điểm yếu về nhiều mặt, như: chiến lược kinh doanh
hạn chế, thiếu sự liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, năng lực cạnh
tranh yếu, ít đổi mới, đội ngũ cán bộ không ổn định, và ch
ưa sẵn sàng cho việc hội
nhập.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 5 năm 2010, có
thêm 33.982 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, nâng tổng số doanh nghiệp hiện
nay lên 496.101; vốn đăng ký gần 2.313.857 tỷ VND (khoảng 121 tỷ USD).
DNV&N chiếm 96% trên doanh nghiệp của cả nước, trên 50,1% lao động trong
doanh nghiệp, ước tính đóng góp khoảng trên 40% GDP.
I.1. Cơ hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi Việt Nam gia
nhậ
p WTO
- Vì WTO yêu cầu thực hiện đối xử quốc gia, điều này sẽ làm DNV&N được
hưởng đối xử bình đẳng với doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài trong việc tiếp cận công nghiệp. WTO yêu cầu cho phép doanh
nghiệp có vốn đầu tư trong nước được hưởng đối xử quốc gia công bằng.
- Vì WTO yêu cầu mở cửa thị trường vốn Việt Nam, cho phép ngân hàng
nước ngoài tham gia, đi
ều này có nghĩa là DNV&N có nhiều kênh và phương thức
hơn trong việc nhận được cơ hội tài trợ gián tiếp và tài trợ trực tiếp.

- WTO yêu cầu mở cửa thị trường vốn cho phép ngân hàng nước ngoài tham
gia và tiến hành nghiệp vụ tài chính, sẽ tăng cường cạnh tranh của ngành tài chính
Việt Nam, đặc biệt là cạnh tranh giữa các ngân hàng. Điều này sẽ có thể có tác động
tích cực sẽ là thúc đẩy ngân hàng trong nước thông qua tăng cường quản lý, nâng
cao chất lượng dịch vụ để nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho
các DNN&V tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Vì WTO thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu công nghiệp toàn cầu hoá, tạo thêm
nhiều cơ hội cho DNV&N tham gia vào chuỗi giá trị, trên cơ sở hợp tác với các tập
đoàn lớn trong nước và quốc tế. Toàn cầu hoá và phân công sản xuất cũng sẽ làm
nhi
ều DNV&N hơn trở thành đối tác chiến lược không thể thiếu của các công ty đa
quốc gia.

10
I.2. Tác động tích cực của việc gia nhập WTO đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam
a) Cải thiện môi trường thương mại quốc tế
Cải thiện môi trường thương mại quốc tế đã tạo điều kiện cho DNV&N Việt
Nam hướng ra thị trường quốc tế. Trong tình hình xu thế chủ nghĩa bảo hộ thương
mại và tập đoàn hoá khu vực hiện nay ngày càng tă
ng, gia nhập WTO đã giúp
DNV&N giành được sự đãi ngộ thương mại công bằng, các rào cản thương mại của
một số quốc gia thiết lập đối với Việt Nam sẽ có thể tự động bị huỷ bỏ. Do đó vấn
đề môi trường thương mại bị cản trở do một số yếu tố phi kinh tế gây ra sẽ được
giải quyết cho phép sản phẩm củ
a DNV&N định hướng xuất khẩu thâm nhập vào
thị trường quốc tế.
b) Thực hiện chế độ đại diện xuất khẩu
Chế độ đại diện thương mại quốc tế là một trong những hình thức phổ biến
trong thương mại quốc tế, trong đó doanh nghiệp thương mại quốc tế cung cấp các

dịch vụ, đại diện cho doanh nghiệp sản xuấ
t và bộ phận đặt hàng xử lý nghiệp vụ
xuất nhập khẩu, doanh nghiệp thương mại quốc tế thu phí nhất định, lỗ lãi do doanh
nghiệp sản xuất xuất khẩu và khách hàng nhập khẩu tự chịu trách nhiệm.
Thực hiện chế độ đại diện có lợi cho nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
xuất khẩu của DNV&N trên thị trường quốc tế, DNV&N sẽ trực ti
ếp tham gia cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Thực hiện chế độ đại diện sẽ cung cấp một kênh thông
suốt cho xuất khẩu sản phẩm của DNV&N Việt Nam.
c) Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giảm thuế xuất khẩu
Giảm thuế xuất khẩu là hoàn trả thuế đã nộp của sản phẩm xuất khẩu trong
khâu sản xuất và lưu thông trong nước cho doanh nghiệp xu
ất khẩu. Sau khi gia
nhập WTO, với việc đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện phê duyệt quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu của DNV&N, là thời điểm thích hợp để Nhà nước thực hiện
hoàn thiện chính sách miễn, giảm, hoàn trả thuế xuất khẩu cho các DNV&N.
I.3. Thách thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO
và những vấn đề đặt ra cho hoạt động đổi mới công ngh

a) Chất lượng và thương hiệu sản phẩm còn thấp
Sản phẩm của DNV&N Việt Nam chủ yếu sử dụng nhiều sức lao động và
công nghiệp lắp ráp đơn giản, tỉ lệ sản phẩm có quyền sở hữu trí tuệ độc lập tương
đối ít, giá trị gia tăng thấp. Đối với một số loại sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhi
ều
vốn và công nghệ, thì đẳng cấp, chất lượng, thương hiệu và giá cả của nó còn ở mức
độ cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu
khả năng cạnh tranh của các DNV&N. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các
nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines, thì các sản phẩm sản xuất


11
của các doanh nghiệp Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù
giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực.
Nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là các DNV&N chưa có chiến lược
xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do
đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có gần 10%
s
ố doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này
chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có hoạt
động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài
không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài.
b) Trình độ công nghệ và hiệu suất lao động của các DNV&N kém
Theo kết quả kh
ảo sát của Cục Phát triển DNV&N (Bộ Kế hoạch và Đầu tư),
về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số DNV&N đạt trình độ công
nghệ tiên tiến (phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI). Còn
về doanh nghiệp trong nước, hầu hết đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu. Đặc biệt,
khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệ
p phía Bắc là rất thấp. Chỉ
tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng
máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng
nội bộ – LAN, số doanh nghiệp có website là rất thấp (chỉ 2,16%).
Hơn 90% DNV&N đang sử dụng công nghệ từ cấp trung bình đến lạc hậu,
khả năng đầu tư nâng cấp công nghệ thấp, tiêu hao nhiều tài nguyên, bao g
ồm vật
liệu, nhiên liệu, năng lượng và thường có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.
Vấn đề chuyển giao công nghệ tại các DNV&N hiện tại đang gặp nhiều trở
ngại, chưa có thói quen cũng như đánh giá đầy đủ được vai trò của việc đầu tư phát
triển công nghệ trong việc phát triển bền vững, lâu dài. Thực tế hiện nay chi phí đầu

tư của doanh nghiệp trong n
ước cho nghiên cứu khoa học, đầu tư phát triển công
nghệ là rất thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp mức đầu tư bằng không.
c) Năng lực quản lý chưa cao, thiếu tính chuyên nghiệp
Đội ngũ quản lý, giám đốc điều hành trong khu vực DNV&N còn nhiều hạn
chế về kiến thức và kỹ năng quản trị kinh doanh và quản lý công nghệ. Số lượng
DNV&N có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và nă
ng lực
quản lý tốt chưa nhiều. Nhiều giám đốc doanh nghiệp chưa được đào tạo bài bản về
kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh
doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Do đó, khuynh hướng phổ
biến là các doanh nghiệp hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến
lược, thiếu kiến thứ
c trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh,
phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin.
d) Năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém
Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn
vốn) của nhiều DNV&N còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.

12
Theo số liệu khảo sát của Cục Phát triển DNV&N, gần 50% số doanh nghiệp có
mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% có mức vốn
dưới 5 tỷ đồng.
Với quy mô vốn rất hạn chế như vậy, việc huy động tài chính cho nghiên cứu
khoa học và đổi mới công nghệ là rất khó khăn.
e) Nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế

Một số khá lớn DNV&N còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất
lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các DNV&N bị các cơ quan

chức năng phàn nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến.
Nguyên nhân của tình trạng này là do việc nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về
luật pháp còn nhi
ều hạn chế.
f) Nhận thức và kiến thức về hội nhập quốc tế nói chung và WTO nói riêng còn
hạn chế
Còn khá nhiều cơ chế, chính sách chậm đổi mới cho phù hợp với yêu cầu
khách quan của hội nhập. Sự tham gia của các ngành, các cấp và doanh nghiệp chưa
đồng bộ, chưa tạo ra được sức mạnh tổng hợp cần thiết đảm bảo cho hội nhập kinh
tế quốc t
ế đạt hiệu quả cao. Nhiều doanh nghiệp còn ít hiểu biết về thị trường, luật
pháp và các thông lệ quốc tế nên gặp rất nhiều rủi ro trong kinh doanh và sức cạnh
tranh rất thấp trên thị trường quốc tế.
Một trong những điểm yếu khác của các DNV&N là mối liên kết trong và
ngoài nước rất hạn chế. Điều này thể hiện cả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
l
ẫn năng lực tạo dựng một tiếng nói chung có thể mang lại lợi ích chung cho cộng
đồng. Ngoài ra, khả năng quản lý, nhận biết về kinh doanh, văn hóa kinh doanh,
trình độ xúc tiến và quảng bá thương mại cũng như lao động hoạt động trong và
ngoài nước cũng rất hạn chế.

13
Chương Hai:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH
THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ, VÀ
PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG ĐỔI MỚI

II.1. Kinh nghiệm thúc đẩy đổi mới cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Hoa Kỳ
Theo quan điểm chung của nhiều người, vì Hoa Kỳ là một nền kinh tế lớn,

và nổi tiếng bởi các tập đoàn đa quốc gia có truyền thống lâu đời, nên DNV&N sẽ
không có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và không được Chính phủ quan tâm gì
nhiều đến hỗ trợ phát triển. Đây là một quan điểm không chính xác. Trong thực tế,
chính phủ
Hoa Kỳ đã có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ DNV&N, tạo ra năng lực
cạnh tranh cho một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Một biện pháp chính sách
quan trọng nhằm hỗ trợ DNV&N thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, đổi mới công
nghệ là Chương trình nghiên cứu và đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ của
chính phủ. Việc tìm hiểu hoạt động của chương trình này sẽ giúp hiểu rõ h
ơn tác
động của các biện pháp chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho DNV&N.
Sơ lược lịch sử hình thành chương trình nghiên cứu và đổi mới công nghệ
giành cho các doanh nghiệp nhỏ (Small Business Innovation and Research, SBIR
program)
Hình thành
Từ những năm 80, việc thương mại hóa các công nghệ mới tiến triển chậm
chạp, đặc biệt là so với sự thành công trong tiếp thị cũng như sản xuất của các
doanh nghiệp sản xuất ô tô, thép và chất bán d
ẫn của Nhật. Việc này đã khiến Mỹ
rất lo ngại về khả năng cạnh tranh của nước mình. Khả năng cạnh tranh của công
nghiệp Mỹ những năm 80 thường được coi là sự thất bại trong nền công nghiệp Mỹ
để “biến năng lực nghiên cứu thành lợi thế thương mại.” Sự bi quan càng tăng lên
trước những bằng chứng của sự phát triển ch
ậm chạp của các phòng thí nghiệm
nghiên cứu hợp tác, lãnh đạo đổi mới Mỹ trong thời kỳ hậu chiến và sự thành công
của hình thức hợp tác xã mà điển hình là tại Nhật.
Nhưng thậm chí khi các doanh nghiệp lớn đang thu nhỏ quy mô để cạnh
tranh tốt hơn, thì từ những năm 70 và rõ ràng hơn ở những năm 80, các doanh
nghiệp nhỏ đã có một vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình đổi mới và tạo
việ

c làm. David Birch và những người đồng nghiệp đã đề xuất rằng các chính sách
của nhà nước cần đẩy mạnh và dựa vào khả năng cạnh tranh cao của các doanh
nghiệp nhỏ.
Trong khi đó, từ đầu những năm 60, hội đồng liên bang đã đề xuất hướng đi
của các quỹ nghiên cứu và phát triển (R&D) nên tập trung vào các doanh nghiệp
nhỏ. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị những người mang suy nghĩ truyền thố
ng của quỹ

14
R&D chính phủ phản đối. Mặc dù từ cuối những năm 70, các doanh nghiệp nhỏ đã
được nhận định là một nguồn lực có tiềm năng trong việc đổi mới, một số người
trong chính phủ vẫn cảnh giác trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp nhỏ đầu tư
vào công nghệ có tính mạo hiểm cao và có triển vọng thương mại.
Khái niệm hỗ trợ tài chính bước đầu cho những công nghệ có tính mạ
o hiểm
cao và có triển vọng thương mại được đưa ra đầu tiên bởi Rland Tibbetts, làm việc
tại Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF). Đầu năm 1976, ông Tibbettes cho rằng NSF nên
đầu tư một phần ngân quỹ vào các doanh nghiệp nhỏ. Khi NSF thực hiện sáng kiến
này, các doanh nghiệp nhỏ đã rất tán thành và tiến hành vận động các cơ quan khác
làm theo sự chỉ đạo của NSF. Khi những nỗ lực của họ không được đáp lại, các
doanh nghiệ
p nhỏ đã đưa trường hợp của mình lên Quốc hội và những cấp quản lý
cao hơn.
Để đáp lại, một cuộc Hội nghị Nhà trắng về doanh nghiệp nhỏ đã được tổ
chức vào tháng 1, năm 1980. Hội nghị đã đề xuất bắt đầu một chương trình cho
nghiên cứu và đổi mới doanh nghiệp nhỏ dựa trên bằng chứng về việc cắt giả
m
phần trăm đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ của quỹ nghiên cứu và phát triển của
liên bang, các doanh nghiệp nhỏ ngày càng khó khăn trong việc huy động vốn, vai
trò quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ đối với thu hút nhiều lao động. .

Bên cạnh những cơ sở chính sách này, một số còn đưa ra lợi ích về mặt chính
trị khi thấy kinh phí R&D “trải rộng hơn trước đây”. Quốc hội đã thông qua đạo
luật Phát tri
ển nghiên cứu và đổi mới cho doanh nghiệp nhỏ năm 1982 và hình
thành chương trình SBIR.
Đạo luật phát triển SBIR năm 1982
Chương trình SBIR đầu tiên yêu cầu các cơ quan có ngân sách R&D trên 100
triệu đôla phải dành 0.2% quỹ để đầu tư cho SBIR. Vào năm hoạt động đầu tiên của
chương trình, tổng lượng tiền thu được là 45 triệu đôla năm 1983. Trong sáu năm
tiếp theo, khoản tiền này đã tăng thêm 1.25%.
Luật pháp đã quy định hai mục tiêu lớn nhấ
t của SBIR:
- Đáp ứng hiệu quả hơn những nhu cầu về R&D trong quá trình sử dụng của
các doanh nghiệp nhỏ (nguồn công nghệ dồi dào)
- Thu hút vốn tư nhân để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của liên
bang.
Cơ cấu và vai trò của SBIR
Theo như đạo luật năm 1982, quá trình tài trợ cho SBIR bao gồm ba giai
đoạn:
- Giai đoạn 1 thực chất là nghiên cứu tính khả thi trong đó những người
thành công
đảm nhận một khoản đầu tư giới hạn cho việc thực hiện ý tưởng khoa
học và triển vọng thương mại. Hiện nay, ước tính chi phí cho giai đoạn 1 khoảng
100.000 đôla.

15
- Chi phí cho giai đoạn hai lớn hơn, thường là khoảng 750.000 đôla, và hỗ
trợ R&D trên phạm vi rộng hơn để phát triển hơn nữa chất lượng khoa học kỹ thuật
và tính khả thi của các ý tưởng nghiên cứu.
- Giai đoạn 3. Giai đoạn này thường không bao gồm quỹ SBIR, mà là giai

đoạn mà những bên được nhận tài trợ sẽ nhận được tài trợ từ chương trình thu mua
của cơ quan quản lý, các nhà đầu t
ư tư nhân hoặc từ thị trường vốn. Mục tiêu của
giai đoạn này là chuyển công nghệ sang giai đoạn nguyên mẫu và đưa vào thị
trường.
Giai đoạn 3 thường là giai đoạn có nhiều khó khăn đối với những doanh
nghiệp mới. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã triển khai những cách tiếp cận
khác nhau, không có cái nào là từ SBIR, để tạo điều kiện thuận lợ
i cho việc chuyển
đổi sang thương mại. Một số doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm về chương trình
này thì thuận lợi hơn trong việc thu hút những nguồn tài trợ khác. Nghiên cứu NRC
trước đây cho thấy những doanh nghiệp khác nhau có những mực tiêu khác nhau
khi áp dụng chương trình. Một số nhằm vào việc chứng minh tiềm năng của nghiên
cứu. Một số khác nhằm vào việc đáp ứng những yêu cầu của cơ quan nghiên c
ứu về
cơ sở chi phí hiệu quả. Số còn lại nhằm vào chất lượng (và những đầu tư thu được
từ chứng nhận này) khi họ đưa những sản phẩm khoa học ra thị trường.
Những yếu tố khiến những khoản tài trợ SBIR thu hút được sự quan tâm của
các doanh nghiệp bao gồm việc tài trợ này không làm giảm quyền sở hữu và không
yêu cầu hoàn trả. Quan trọng là những doanh nghi
ệp được nhận hỗ trợ vẫn giữ được
quyền sở hữu trí tuệ phát triển từ nguồn tài trợ SBIR, và nhà nước không phải trả
tiền bản quyền và được sử dụng bản quyền này trong một thời gian. Việc lựa chọn
nhận tài trợ từ SBIR cũng mang lại hiệu quả cụ thể, một dấu hiệu cho những nhà
đầu tư kỹ thuật và th
ương mại tư nhân tin tưởng vào sự phát triển công nghệ.
Về phía chính phủ, chương trình SBIR hỗ trợ để thực hiện được nhiệm vụ
cũng như khuyến khích phát triển kinh tế dựa trên tri thức. Bằng việc tạo nên một
cầu nối giữa các doanh nghiệp nhỏ và các cơ quan liên bang, đặc biệt là trong quá
trình mua bán, SBIR đóng vai trò như một chất xúc tác để phát triển những ý tưởng

mới và công nghệ mới nh
ằm thực hiện được các nhiệm vụ của liên bang như sức
khỏe, giao thông, môi trường và quốc phòng. Chương trình cũng là cầu nối giữa đại
học và thị trường, từ đó khuyến khích sự phát triển của khu vực. Cuối cùng, bằng
việc chỉ ra những khoảng trống trong việc đầu tư cho phát triển công nghệ, chương
trình này đã giúp nhà nước tận dụng những khoản đầu tư
quan trọng của mình trong
nghiên cứu và phát triển. Trong khi hoạt động và những kết quả của SBIR còn gây
tranh cãi, những hoạt động thực tế của chương trình này đã được thực hiện tại nhiều
cơ quan với những mục tiêu và lợi ích cụ thể. Vì thế có rất nhiều loại mục tiêu và cơ
cấu.
SBIR - đưa ra những vấn đề cần quan tâm của các doanh nghiệp nhỏ
Được nêu bật trong chú ý củ
a bài phát biểu của Kenneth Flamm, bên cạnh
những mục tiêu mang tính pháp lý, SBIR cũng hỗ trợ để xác định ba vấn đề cần
quan tâm của các doanh nghiệp nhỏ.

16
Thứ nhất, chương trình đã chỉ ra sự không hoàn chỉnh trong thị trường vốn.
Về mặt cấu trúc, các doanh nghiệp nhỏ có thể có những khó khăn trong việc tiếp
cận thị trường vốn, và điều này có thể gây cản trở cho việc thương mại hóa những
phát minh của mình. Giáo sư Flamm đã trích dẫn một trường hợp của một học viện
quốc gia để chỉ ra rằng ch
ương trình SBIR có thể đóng một vai trò quan trọng trong
việc cân bằng lại một số yếu tố không hoàn chỉnh của thị trường vốn.
Thứ hai, SBIR chỉ ra sự không tương xứng về chi phí cho hợp đồng. Những
công ty nhỏ thường phải học cách để làm việc với hệ thống hợp đồng rắc rối và đôi
khi mang tính “bí quyết” cùng với rất nhiều điều luật, điề
u lệ khi làm việc với các
cơ quan như Bộ Quốc phòng. SBIR có thể hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ thiếu

nguồn tài chính để đầu tư vào xây dựng hợp đồng. Chương trình có thể tài trợ hiệu
quả những chi phí để tiếp cận với hệ thống mua bán của chính phủ.
Thứ ba, SBIR giúp các doanh nghiệp nhỏ vượt qua được những khó khăn khi
tiếp cận với quy trình mua bán. Đặc biệt, nhữ
ng nhà thầu quốc phòng chính đều có
những vận động tích cực tại Capitoll Hill (trụ sở Quốc hội) và Pentagon (trụ sở Bộ
Quốc phòng). Những nhà thầu ít kinh nghiệm hơn và không có kinh phí để duy trì
văn phòng ở Washington và những liên kết thích hợp với Pentagon sẽ gặp rất nhiều
bất lợi khi tham gia vào hệ thống hợp đồng. Những doanh nghiệp nhỏ không thể đủ
kinh phí cho vận động hành lang, SBIR có thể tạo ra con đường ti
ếp cận trực tiếp
với hệ thống mua bán cho những doanh nghiệp nhỏ.
Sửa đổi SBIR
Chương trình SBIR tiếp cập quá trình sửa đổi vào giữa năm 1992 và tiếp tục
lo ngại về khả năng thương mại hóa những sáng chế của kinh tế Mỹ. Nhận thấy
trong việc tạo ra công nghệ mới, Mỹ còn gặp ít khó khăn hơn là thương mại hóa và
áp dụng công nghệ, Viện Hàn lâm khoa họ
c Quốc gia vào thời điểm đó đã đề xuất
tăng quỹ SBIR như một cách để cải thiện khả năng áp dụng và thương mại hóa
những công nghệ mới.
Dựa theo bản báo cáo này, bộ luật Thúc đẩy Phát triển và Nghiên cứu cho
Doanh nghiệp nhỏ (P.L. 102-564), sửa đổi chương trình cho đến 30/9/2000, đã tăng
gấp đôi tỉ lệ dự trữ lên thành 2.5%. Việc tăng tỉ lệ
quỹ R&D cho chương trình là
một điểm quan trọng trong việc khuyến khích quá trình thương mại hóa công nghệ
được trợ cấp bởi SBIR. Ngôn ngữ lập pháp đã nhấn mạnh tiềm năng thương mại là
một tiêu chuẩn để được hưởng trợ cấp SBIR. Đối với Giai đoạn 1, Quốc hội yêu cầu
những người quản lý chương trình đánh giá tiềm năng thương mại của dự
án và
những yếu tố về khoa học và công nghệ khi đánh giá để áp dụng SBIR.

Về Giai đoạn 2, việc đánh giá tiềm năng thương mại của dự án được xem xét
lại cùng với tình hình trợ cấp từ phía tư nhân và những nguồn ngoài SBIR. Giai
đoạn 3, các cam kết tài trợ cùng với những dấu hiệu khác của tiềm năng thương mại
đều được xem xét. Hơn nữa, theo bản sửa đổ
i năm 1992, thành tích thương mại hóa
của một doanh nghiệp nhỏ sẽ được tính để xem xét áp dụng Giai đoạn 2.
Luật sửa đổi về Doanh nghiệp nhỏ năm 2000 một lần nữa mở rộng SBIR cho
đến 30/9/2008. Hội đồng nghiên cứu Quốc gia (NRC) cũng được kêu gọi đánh giá

17
những tác động của chương trình trên tình hình việc làm, sức khỏe, an ninh quốc gia
và khả năng cạnh tranh của quốc gia.
Đánh giá của Hội đồng nghiên cứu quốc gia (National Research Council,
NRC)
Đánh giá của NRC là một cơ hội quan trọng để hiểu được rõ hơn một trong
những chương trình tài chính lớn nhất của quốc gia trong thời kỳ đầu. Mặc dù có
một quy mô lớn và 20 năm hoạt động, chương trình SBIR chưa bao giờ
được đánh
giá toàn diện. Đã có những nghiên cứu tập trung vào những khía cạnh hoặc yếu tố
khoa học của chương trình, đặc biệt là Văn phòng Kế toán Tổng hợp và Quản lý
Doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời cũng có rất ít những đánh giá nội bộ đối với chương
trình của các cơ quan. Tài liệu học thuật của SBIR cũng khá giới hạn. Trong bài viết
năm 1990 đánh giá về ch
ương trình, Joshua Lerner đã chỉ ra rằng “những doanh
nghiệp được tài trợ bởi SBIR phát triển nhanh hơn so với đối thủ một giai đoạn
tương ứng 10 năm”. Nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng tại địa phương và
các hoạt động có tổ chức, Lerner còn chỉ ra rằng “những tác động tích cực của SBIR
đã bị hạn chế đối với những doanh nghi
ệp trên khu vực có hoạt động vốn lớn.”
Những phát hiện này phù hợp với cả các tài liệu tài chính doanh nghiệp về vấn đề

khó khăn trong tài chính và tầm quan trọng ngày càng tăng của địa phương hóa.
Để giải quyết được các lỗ hổng đánh giá và tìm hiểu về chương trình lớn và
chưa được đánh giá này, Ủy ban đối tác Công nghiệp-Chính phủ cho Phát triển
Công nghệ mới của Viện Hàn lâm quốc gia đã đượ
c yêu cầu xem xét lại chương
trình SBIR, hoạt động và những thách thức hiện có. Dưới sự chỉ đạo của chủ tịch,
ông Gordon Moore, Ủy ban đã triệu tập những người lập pháp, các nhà nghiên cứu,
và đại diện của các doanh nghiệp nhỏ để thảo luận một cách toàn diện về lịch sử và
tính chất của chương trình SBIR, xem xét lại những nghiên cứu hiện tại và xác định
những khu vực cho việ
c phát triển nghiên cứu và cải tiến chương trình trong tương
lai.
Ủy ban đã báo cáo lại như sau:
- SBIR đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều thành phần trong chính phủ và trên
toàn quốc.
- Đồng thời, quy mô và tầm quan trọng của SBIR đã nhấn mạnh việc cần
thiết phải có nhiều nghiên cứu hơn về kết quả làm việc và đánh giá hoạt động của
chương trình như thế nào.
- Yêu cầu cần có những nhận định rõ ràng về tầm quan trọng của thương mại
hóa nhờ SBIR, và về cách định nghĩa thương mại hóa.
- Cần nhận định rõ cách đánh giá SBIR như một chương trình độc lập và
được các doanh nghiệp áp dụng theo nhiều cách khác nhau.
Tiếp theo, theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng, Hội đồng này được yêu cầu
xem xét lại hoạt động của SBIR tại Bộ Quốc phòng, và vai trò đặc biệt c
ủa Sáng
kiến Hỗ trợ nhanh. Kết quả là những xem xét hết sức kỹ lưỡng về chương trình
SBIR cho đến hiện nay. Quá trình xem xét này bao gồm các nghiên cứu trên những

18
lĩnh vực quan trọng, với 55 trường hợp nghiên cứu và rất nhiều bản khảo sát. Tỉ lệ

phản hồi rất cao, ước tính khoảng 72%. Chương trình SBIR đang đóng góp vào
những thành tựu của Bộ Quốc phòng, các dự án đổi mới, và một số phần quan trọng
của những dự án này không thể thực hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của SBIR. Đánh
giá của H
ội đồng này cũng chỉ ra rằng chương trình Hỗ trợ nhanh cũng đã làm tăng
tính hiệu quả của chương trình SBIR đối với Bộ Quốc phòng bằng cách khuyến
khích thương mại hóa công nghệ và những doanh nghiệp mới tham gia chương
trình.
Nhìn chung, Ủy ban và ông Moore đã tìm ra rằng SBIR đã tạo điều kiện cho
sự phát triển và sử dụng nguồn vốn con người và những hiểu biết công nghệ. Những
trường hợp được nghiên cứu cho thấy những hiểu biết và nguồn vốn con người
được hình thành bởi chương trình SBIR đều có giá trị kinh tế và có thể áp dụng tại
nhiều công ty khác nhau. Nghiên cứu này cũng cho thấy SBIR cũng khuyến khích
khối tư nhân đầu tư vào công nghệ của doanh nghiệp.
Dựa vào nghiên cứu này và những đánh giá của các hội đồng khác, bản báo
cáo tổng hợp của ngài Moore và Ủy ban đối tác Công nghiệp-Chính phủ
đã đề xuất
rằng “những đánh giá nghiêm ngặt và theo tiêu chuẩn về chương trình cùng với
những phản hồi là rất quan trọng đối với những doanh nghiệp hiệu quả và nên được
coi là những tiêu chuẩn,” thêm nữa “những doanh nghiệp của Mỹ và nước ngoài cần
quan tâm hơn về chính sách và những nguồn lực cho việc đánh giá một cách có hệ
thống.”
Đánh giá hiện nay về chương trình SBIR của nhà nướ
c đang được yêu cầu
tập trung vào năm cơ quan nhà nước hiện chiếm 96% chi phí của chương trình, mặc
dù Hội đồng Nghiên cứu quốc gia lại đang tập trung tìm hiểu về nhận định và thực
hiện của các cơ quan khác cũng sử dụng chương trình này. Những cơ quan được chỉ
định, sắp xếp theo quy mô chương trình, bao gồm Bộ quốc phòng, Viện Sức khỏe
Quốc gia, NASA, Bộ Năng l
ượng và Tổ chức Khoa học Quốc gia.

SBIR trong hệ thống đổi mới của Mỹ
Hệ thống đổi mới là một mạng lưới các viện nghiên cứu nhà nước và tư nhân
có những hoạt động và những tác động tiên phong, nhằm phát triển, thay đổi và
thương mại hóa các công nghệ mới. Hơn nữa, chính phủ trên nhiều nước đều coi sự
phát triển và chuyển đổi của hệ thống này là một cách quan tr
ọng để tăng cường khả
năng cạnh tranh của công nghiệp nội địa và dịch vụ. Họ đưa ra nhiều chính sách và
chương trình để làm hệ thống đổi mới của họ lớn mạnh, đôi khi dựa theo những
kinh nghiệm của Mỹ, nhưng phần lớn là được phát triển sao cho phù hợp với nhu
cầu và kinh nghiệm của từng quốc gia. Tuy nhiên, thấy được những đóng góp củ
a
SBIR trong việc hình thành doanh nghiệp và đưa các nghiên cứu tại trường đại học
ra thị trường, nhiều nhà lập pháp trên thế giới rất quan tâm đến chương trình này.
Dưới đây là vai trò của SBIR trong hệ thống đổi mới của Mỹ.



19
Chính sách mở rộng và môi trường thuận lợi
Tại Mỹ, môi trường cho đổi mới thường được quyết định bởi chính sách, tập
trung chủ yếu vào các vấn đề như thuế suất, thị trường vốn, sở hữu trí tuệ, và bởi
những người lập nội quy, đặc biệt là ở các doanh nghiệp mới, tập trung chủ yếu vào
việc gia nhập thị trường, tiêu chuẩn lao động và phá s
ản. Những chính sách và quy
định này xác định tỉ lệ được mất cho các chủ doanh nghiệp, từ đó các chủ doanh
nghiệp sẽ lựa chọn xem có nên mạo hiểm mở công ty mới. Các quy định và chính
sách cũng tác động đến các nhà đầu tư trong việc hỗ trợ các chủ doanh nghiệp khi
họ chuyển hướng từ phòng thí nghiệm ra thị trường. Khả năng hỗ trợ của các chính
sách này (dựa vào xã hội và văn hóa) là một trong nhữ
ng yếu tố xác định hệ thống

đổi mới của Mỹ.
Các nỗ lực phân tích phát triển thường tập trung vào tính sẵn có của tài chính
giai đoạn đầu và những tác động của nó tới các thành phần khác trong quá trình đổi
mới của Mỹ. Chương trình SBIR đang phát triển để trở thành nỗ lực lớn của chính
phủ trong việc tiến đến khả năng phát minh của các doanh nghiệp nhỏ công nghệ
cao. Sự
phát triển này càng nhấn mạnh sự cần thiết của việc tìm hiểu yếu tố này
trong hệ thống đổi mới của quốc gia.
Những điểm không chắc chắn trong việc tài trợ cho giai đoạn đầu
Tại Mỹ hiện nay, những tác động có lợi của các đổi mới dựa trên khoa học
đang xuất hiện trên hầu hết các lĩnh vực, từ chăm sóc sức khỏ
e và thông tin đến việc
áp dụng quốc phòng và giải trí. Căn cứ vào việc những thành công này là kết quả
của nghiên cứu và mua bán được tài trợ từ chính phủ, các chính sách liên bang cần
tạo điều kiện cho quá trình thương mại hóa.
Vai trò liên bang này rất quan trọng, đặc biệt là nó có tác động đến việc các
nhà đầu tư chấp nhận mạo hiểu và luôn nghĩ rằng thương mại hóa các đổi mới dựa
trên khoa học vốn đã là m
ột nỗ lực đầy mạo hiểm. Một trong những rủi ro là việc
thiếu những thông tin công cộng về các công nghệ do các doanh nghiệp nhỏ phát
triển cho các nhà đầu tư tiềm năng. Các nhà đầu tư tiềm năng thường cố gắng tìm
hiểm về khả năng phát triển của các doanh nghiệp nhỏ, nhưng trong nhiều trường
hợp, so với các nhà đầu tư tiềm năng thì các chủ doanh nghiệp,
đặc biệt là ở các
doanh nghiệp công nghệ cao, thường hiểu tốt hơn về công nghệ và nhìn thấy trước
những tiềm năng của công nghệ.
Một khó khăn nữa là việc chảy máu chất xám, nằm ngoài ranh giới của
doanh nghiệp và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Những người tạo ra các kiến thức mới đôi
khi có thể hoàn toàn giữ lại giá trị kinh tế của hiểu biết
đó cho bản thân hoặc doanh

nghiệp của mình. Sự rò rỉ này có thể hạn chế việc đầu tư vào những công nghệ mới
của các doanh nghiệp lớn và nhỏ, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ tập trung vào
các sản phẩm hoặc quy trình mới.
Việc thiếu thông tin cho các nhà đầu tư và rò rỉ đầu tư đã tạo nên những khó
khăn lớn cho những doanh nghiệp mới đang tìm kiếm nguồn v
ốn. Sự khó khăn
trong việc thu hút các nhà đầu tư hỗ trợ cho những phát minh chưa được phát triển
và không hiểu rõ ràng rất dễ gây nản lòng. Thực vậy, cụm từ “Thung lũng chết”

20
(Valley of death) đã được dùng để chỉ giai đoạn chuyển đổi của một công nghệ mới,
dường như rất hứa hẹn nhưng lại quá mới để xác định tiềm năng thương mại và thu
hút nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển.
Vai trò hỗ trợ của chính phủ trong phát triển công nghệ giai đoạn đầu
Mặc dù có những khó khăn trên, một số doanh nghiệp vẫn tìm
được hướng đi
cho mình, thu hút được nguồn tài chính từ những nhà đầu tư tư nhân hoặc từ các
doanh nghiệp công nghệ. Nhận thấy tầm quan trọng của các nhà đầu tư tư nhân và
các doanh nghiệp công nghệ, các nhà nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu mới về
tác động này. Một trong những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy trong khi tỉ lệ hỗ
trợ chi phi từ các doanh nghiệp công nghệ cho quá trình R&D chỉ chiếm 3% trong
năm vừa quá, nguồn vốn này đã chiếm 15% của các sáng chế công nghiệp.
Như những số liệu cho thấy, trong thập kỷ vừa qua, con số doanh nghiệp
công nghệ đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ đã tăng gấp ba lần, và tổng đầu tư của các
doanh nghiệp này đã tăng tám lần. Đồng thời ta cũng thấy, trong hai năm vừa qua,
thị trường vốn công nghệ đã giảm m
ạnh, đặc biệt là cho những doanh nghiệp mới
do đánh giá thấp và hoạt động IPO tập trung vào các đầu tư hiện tại cũng giảm.
Mặc dù các nhà đầu tư tư nhân và các doanh nghiệp công nghệ, chính phủ và
các trường đại học đã hỗ trợ tài chính cho phát triển công nghệ giai đoạn đầu, vai

trò của liên bang cũng rất lớn. Theo nghiên cứu của Branscomb và Auerswald,
chính phủ liên bang đã hỗ trợ khoảng 20 đến 25% chi phí cho phát triể
n công nghệ
giai đoạn đầu. Sự đóng góp này càng có ý nghĩa khi chính phủ tài trợ cho những
hoạt động mà các nhà đầu tư tư nhân cảm thấy quá mạo hiểm. Do các doanh nghiệp
dựa trên công nghệ là một nguồn quan trọng trong đổi mới và khả năng cạnh tranh
của đất nước, vì thế rất cần phải hiểu được cách thức các chính sách hỗ trợ phát
triển của các doanh nghiệp nhỏ.
Vai trò của các c
ơ quan nhà nước
Các công ty chủ yếu là hợp tác giữa chính phủ, doanh nghiệp, các phòng thí
nghiệm, trường đại học, nhằm mục đích thúc đẩy đổi mới và thương mại hóa. Mục
tiêu dài hạn của các cơ quan hợp tác tư nhân và nhà nước là phát triển quy trình
công nghiệp, sản xuất và dịch vụ, và từ đó áp dụng những công nghệ mới vào các
nhiệm vụ của nhà nước như phát triển sức khỏe, bảo v
ệ môi trường và an ninh quốc
gia.
Khắc phục các giới hạn trong đầu tư
Mục đích chính của các cơ quan hợp tác tư nhân và nhà nước là để giúp các
doanh nghiệp vượt qua các khó khăn về tài chính và khó khăn khác họ phải đối mặt
khi đưa công nghệ mới ra thị trường. Trong trường hợp nghiên cứu, chính phủ có
thể tạo điều kiện hợp tác giữa các doanh nghiệp để phát triển công nghệ mới bằ
ng
cách như hỗ trợ kinh phí và không bắt buộc phải áp dụng luật chống độc quyền.
Các giải thưởng cho đổi mới, một loại hỗ trợ quan trọng của nhà nước,
khuyến khích phát triển những công nghệ mới mà bị coi là quá mạo hiểm về mặt tài
chính để đầu tư. Như đã nói ở trên, thậm chí những doanh nghiệp lớn nhất cũng có

21
thể không có khả năng thu hồi được những khoản đầu tư trong các lĩnh vực công

nghệ mà rất dễ bị rò rỉ cho các người sử dụng khác. Những đánh giá gần đây về
chương trình hỗ trợ đổi mới cho thấy chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp vượt
qua những khó khăn để đầu tư vào những công nghệ mới và dễ bị rò rỉ.
Ủy ban đối tác Công nghiệp-Chính ph
ủ đã tìm ra rằng những sự liên kết hợp
tác giữa tư nhân và nhà nước “có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc đẩy
mạnh sự phát triển của công nghệ mới từ một ý tưởng ra ngoài thị trường”. Ủy ban
cũng tìm hiểu một số điều kiện mang lại thành công cho các hình thức hợp tác:
Cũng như đối với SBIR, các điều kiện này bao gồm:
- Các sáng kiến khởi nghi
ệp công nghiệp: Những nhà nghiên cứu và doanh
nghiệp tự đưa ra những đề xuất khá rộng rãi cho những sáng chế của mình. Việc tự
đề cử là một nguồn sức mạnh của các chương trình hỗ trợ, tạo ra sự linh hoạt và đa
dạng.
- Cơ chế lựa chọn cạnh tranh: chương trình SBIR khá lớn những vẫn có tính
cạnh tranh cao. Bình thường, khoảng 15% các doanh nghiệp trong Giai đoạn 1
thành công.
- Cam kết chia sẻ
chi phí: Hỗ trợ SBIR có thể hỗ trợ đổi mới, tác động vào
đầu tư của công ty, thu hút những nguồn vốn khác và đảm bảo cam kết quản lý vì
những người được hỗ trợ vẫn giữ quyền kiểm soát đối với sở hữu trí tuệ.
- Đánh giá khách quan và liên tục: Những đánh giá cần thiết về các mối hợp tác
kể cả ở mức độ tác nghiệp cũng như
mức độ chính sách có thể đảm bảo các chương trình
như SBIR được áp dụng theo đúng nhu cầu của người sử dụng (bao gồm các cơ quan
nhà nước và doanh nghiệp) và cộng đồng chính sách vẫn nhận thức được tầm quan trọng
của chương trình này trong việc hỗ trợ các mục tiêu quốc gia.
Tận dụng đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu
Như một kết luận, một nghiên cứu củ
a Ủy ban Khoa học, Kỹ nghệ và chính

sách công của Viện Hàn lâm quốc gia đã chỉ ra rằng kết hợp các chính sách cần
thiết để tận dụng đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu khoa học là một công cụ quan
trọng. Nghiên cứu này đã quan sát thấy sự đóng góp của các mối quan hệ hợp tác
trong một quy trình mở rộng từ những nghiên cứu cơ bản, đến sử dụng lần đầu r
ồi
áp dụng sản xuất. Tính mở này được coi là một khả năng đặc biệt của hệ thống đổi
mới của Mỹ. Từ ví dụ sự phát triển của chất kháng thể và công nghệ chất bán dẫn
trong máy tính cá nhân và Internet, bản báo cáo đã đưa ra bốn điều kiện cần có để
thương mại hóa hiệu quả các kết quả nghiên cứu. Các điều kiện đó bao gồ
m:
- Cơ chế nghiên cứu và huy động vốn hỗ trợ cho sự kết hợp giữa khối đại
học, công nghiệp và nhà nước.
- Một danh mục đầu tư khoa học và công nghệ đa dạng của nhà nước.
- Một môi trường thuận lợi cho khuyến khích đổi mới và huy động các ý
tưởng và nguồn nhân lực.
- Một nguồn nhân lực có kinh nghiệm về khoa học và công nghệ.

22
Bản báo cáo cũng đưa ra hầu như tất cả các trường hợp thành công được
nghiên cứu đều dựa trên sự hợp tác giữa các nhà khoa học và kỹ sư. Họ có những
quan điểm, khung thời gian, tài năng khác nhau từ các công ty tư nhân, nhà nước và
các học viện giáo dục. Tập hợp này ngày càng trở nên phức tạp trong những năm
vừa qua, khi rất nhiều tổ chức đã vượt ra khỏi doanh nghiệp để tìm ngu
ồn nghiên
cứu từ các trường đại học, nhà cung cấp. Tương tự, những doanh nghiệp định
hướng công nghệ mới còn quá nhỏ để hỗ trợ những chương trình nghiên cứu cơ bản
thường dựa vào mối liên hệ chặt chẽ với các nhà nghiên cứu ở trường đại học. Bản
báo cáo kết luận rằng chính phủ, doanh nghiệp và các trường đại học nên tiếp tục
thử nghi
ệm với các liên hiệp và các cá thể, với mục đích là thực hiện các nghiên

cứu mang lại lợi ích cho cả hai bên, tăng cường giáo dục và tận dụng các nghiên
cứu cho lợi ích của xã hội. Trong suốt quá trình liên kết hợp tác, doanh nghiệp nên
chia sẻ chi phí và nhận dẫn đầu trong định hướng nghiên cứu.
Đối mặt với những thách thức quốc gia mới
Các đối tác hợp tác có thể là một công cụ linh hoạt để đạt đượ
c những mục tiêu
cụ thể của nhà nước. Ví dụ, các đối tác có thể đẩy nhanh sự phát triển của các công nghệ
cần thiết để giải quyết các nhiệm vụ của an ninh quốc gia. Theo như một bản báo cáo gần
đây của Viện Hàn lâm Quốc gia, để chính phủ và khu vực tư nhân làm việc cùng nhau
nhằm tăng cường an ninh quốc gia, cần có một liên kết hợp tác tư nhân và nhà nước hiệu
quả và các d
ự án hợp tác. Có rất nhiều hình thức liên kết giữa nhà nước và doanh nghiệp
như nghiên cứu hợp tác và thỏa thuận phát triển, chương trình công nghệ tiên tiến NIST
và chương trình nghiên cứu phát triển doanh nghiệp nhỏ. Các liên doanh tư nhân và nhà
nước ở cấp liên bang, bang và khu vực đã đóng góp rất nhiều cho các nhiệm vụ quốc gia
về sức khỏe, năng lượng, môi trường.
Một trong những thay đổi gần đây nhất trong phân tích chính sách đổi m
ới của
Hoa Kỳ là nhằm thích ứng tốt hơn với những khó khăn trong hệ thống tài chính toàn cầu
đang gặp khó khăn. Để phục hồi nước Mỹ trong giai đoạn khủng hoảng, một số đề xuất
đổi mới chính sách đã được đưa ra, có liên quan nhiều đến hoạt động đổi mới.
Quốc hội và Tổng thống Hoa Kỳ đã cân nhắc các ý tưởng để thúc đẩ
y nền kinh
tế, và một số giải pháp chính sách được các chuyên gia đề xuất để thực hiện ngay để có
thể kịp thời thông qua Quốc hội và Tổng thống ký duyệt. Các giải pháp chính sách đổi
mới sẽ là những tác nhân kích thích tạo vốn và nhân tài cho hệ thống đổi mới, cho phép
các công ty mới nổi phát triển mạnh và tạo công ăn việc làm trong khi cũng làm tăng thu
nhập quốc gia, nhằm giảm thâm hụt ngân sách.
Những giải pháp này
được các chuyên gia1 đưa ra như "Chương trình nghị sự về

đổi mới cho kỳ họp Quốc hội lần thứ 112." Những giải pháp đó tiếp tục được xem xét
thông qua quy trình lập pháp, và cần tiếp tục nhận được sự lưu tâm vì tiềm năng tạo ra
công ăn việc làm là rất lớn. Hành động kịp thời với những giải pháp này sẽ chứng minh
cho người dân Hoa kỳ rằng các nhà lãnh đạo quốc gia có th
ể tìm thấy những giải pháp
phù hợp để tạo ra một tác động đáng kể cho sự phục hồi kinh tế.


1
Tardibono, Phó Chủ tịch phụ trách chính sách công, CONNECT (2011)

23
Nhóm giải pháp thứ nhất: Tăng giới hạn tiền tệ cho cung cấp các dịch vụ công
trực tiếp bởi các công ty nhỏ, tạo cơ hội mới cho các công ty mới nổi tăng nguồn vốn.
Theo Luật Chứng khoán, điều khoản A quy định cung cấp cho các công ty nhỏ
một quá trình đơn giản hóa để huy động vốn thông qua chứng khoán trực tiếp. Tuy
nhiên, chi phí để thực hiện cùng với gánh nặng quy chế làm cho gi
ới hạn 5 triệu đô la
không được thực hiện và sử dụng đúng mức.
Trong bối cảnh đó, chính sách mới dự kiến sẽ tăng giới hạn từ 5 triệu đô la của
quy chế đã lỗi thời lên đến 50 triệu đô la nhằm tạo điều kiện cho các công ty mới nổi huy
động vốn mới thông qua các gói "cung cấp nhỏ" trong khi vẫn bảo vệ các nhà đầu tư.
Ủy
ban Dịch vụ Tài chính đã thông qua Luật H.R.1070 - Đạo luật hình thành Vốn Công ty
nhỏ - với sự hỗ trợ từ hai đảng. Thượng viện gần đây đã đề xuất một phiên bản tương tự,
S. 1544, được cả hai đảng đồng bảo trợ. Trong chương trình của Quốc hội về việc làm,
Tổng thống cũng bày tỏ sự ủng hộ cho ý tưởng cải tiến giớ
i hạn quy chế nói trên.
Nâng cao giới hạn lên 50 triệu đô la sẽ mở ra một con đường mới cho nhiều công
ty mới nổi muốn cung cấp các gói dịch vụ lớn hơn 5 triệu đô la nhưng chưa làm được do

tuổi đời còn ít. Tháo gỡ cho các công ty mới, bao gồm cả những công ty đang gặp khó
khăn trong giai đoạn sau nghiên cứu (còn được các nhà chuyên môn gọi là Valley of
Death - Thung lũng chết chóc), sẽ tạo ra sự tăng trưởng ngắ
n hạn và công ăn việc làm.
Nhóm giải pháp thứ hai: Khuyến khích việc đầu tư các thu nhập nước ngoài vào
hoạt động nghiên cứu và thương mại hóa công nghệ mới.
Không có gì bí mật khi các công ty Hoa Kỳ đang ngồi trên một tài sản nhiều tỷ đô
la từ thu nhập nước ngoài và đang phải chịu tới 35% tổng mức thuế suất nếu họ đưa số
thu nhập này về sử dụng ở
Hoa Kỳ. Mức thuế suất cao này chính là yếu tố ngăn chặn
nguồn vốn đó quay lại Hoa Kỳ, đồng thời khuyến khích các đối thủ toàn cầu của Hoa Kỳ
cung cấp nhiều ưu đãi tài chính để dùng được số tiền đó vào sản xuất, nghiên cứu và tạo
công ăn việc làm ở nước họ. Thay vì cho phép các đối thủ cạnh tranh toàn cầu sử dụng
doanh thu nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ, nh
ằm cải thiện sức cạnh tranh của họ và
thu hẹp khoảng cách về đổi mới so với Hoa Kỳ, Quốc hội và Tổng thống cần khuyến
khích việc đầu tư những khoản doanh thu ở nước ngoài quay trở lại Hoa Kỳ sao cho vốn
sẽ được đổ vào việc đổi mới ở giai đoạn đầu và các công nghệ mới nổi. Luật HR 1036 về
tạo công ăn việ
c làm và hoạt động đầu tư cho đổi mới năm 2011 thực hiện chính việc đó.
Luật HR 1036 cho phép vốn chuyển về đổi mới ở giai đoạn đầu bằng cách cắt
giảm mức thuế suất xuống 0% đối với doanh thu nước ngoài quay trở về Hoa Kỳ nhằm
tài trợ nghiên cứu và phát triển, bao gồm việc tài trợ, mua hoặc hợp tác NC&PT, tài trợ
cho các định hướng thử nghiệm ban
đầu, đầu tư mạo hiểm giai đoạn đầu, mở rộng cơ sở
vật chất, tạo ra hoặc mở rộng sản xuất ở Hoa Kì bao gồm sản xuất theo hợp đồng. Dự
luật này tạo được sự quay hồi doanh thu nước ngoài ở mức 5,25%. Đưa thu nhập quay
lại Hoa Kì để kích thích nhiều hơn cho sự đổi mới sẽ tạo ra công ăn việc làm trong khi

ng cường lợi thế của Hoa Kỳ trong sự đổi mới ở quy mô toàn cầu.

Nhóm giải pháp thứ ba: Khuyến khích thêm nhiều nhà đầu tư cá nhân (còn gọi
là Thiên thần kinh doanh) cho việc khởi nghiệp và các công ty mới nổi.

24
Đầu tư cá nhân đã chứng tỏ là một động lực quan trọng trong những nỗ lực tài
chính cho khởi nghiệp và các công ty mới nổi, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ. Các
cá nhân đầu tư, còn được gọi là nhà đầu tư được công nhận, thường xuyên tham gia với
những cá nhân khác để chung các nguồn lực nhằm tạo ra một tác động tài chính lớn hơn
cho các công ty tiếp nhận đầu tư.
Đạo luật tạo cơ
hội của Mĩ - khuyến khích những đóng góp của nhà đầu tư bằng
cách cung cấp tín dụng thuế thu nhập liên bang 25% khi đầu tư vào các doanh nghiệp
nhỏ khởi nghiệp. Tín dụng này sẽ làm khuyến khích các nhà đầu tư vốn hiện đang đầu tư
vào những công nghệ mới nổi, đồng thời cũng mở rộng số các nhà đầu tư cá nhân, kích
hoạt nguồn vốn mới để hỗ tr
ợ nhiều hơn cho các công ty khởi nghiệp đi vào hoạt động
ổn định.
Nhóm giải pháp thứ tư: Cho phép chương trình SBIR hoạt động trở lại.
Cộng đồng hoạt động trong lĩnh vực đổi mới biết rằng các chương trình nghiên
cứu đổi mới doanh nghiệp nhỏ (SBIR) và chương trình chuyển giao công nghệ doanh
nghiệp nhỏ (STTR) rất có lợi cho việc khởi nghiệp. Các chương trình SBIR / STTR đã
được chứng th
ực là hoạt động tốt và đã tạo ra những công nghệ cải thiện cuộc sống và
xây dựng các tập đoàn lớn. Những khoản tài trợ mang tính cạnh tranh này giúp các công
ty khởi nghiệp tiếp cận được vốn trong giai đoạn đầu nhằm phát triển công nghệ thường
mang mục đích quốc gia về sức khỏe cộng đồng, quốc phòng, an ninh nội địa.
Nhà Trắng và Thượng viện đang đ
àm phán một thỏa thuận về tái khởi động
SBIR/STTR nhằm mở rộng lĩnh vực mà các công ty khởi nghiệp có thể áp dụng và đã
cho thấy khả năng tồn tại bằng cách có được một số đầu tư tư nhân. Lãnh đạo ở cả hai

đảng sẽ cần khuyến khích các nhà đàm phán đưa ra một thỏa thuận trong thời gian ngắn
để chương trình có được sự chắc chắn và trọng tâm dài h
ạn nhằm khuyến khích tăng
trưởng khởi nghiệp.
Nhóm giải pháp thứ năm: Giữ lại được những tài năng hàng đầu từ các trường
đại học Hoa kỳ.
Khi cộng đồng giáo dục Hoa kỳ vẫn tiếp tục cải tiến hệ thống giáo dục của quốc
gia để đào tạo thêm các nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao hơn, chính sách về thị
thực của Hoa K
ỳ buộc những tài năng hàng đầu tốt nghiệp từ các trường đại học Hoa kỳ
trở về quê nhà, nơi họ sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh toàn cầu của Hoa kỳ.
Luật H.R. 399 năm 2011 – về sự giữ lại hoạt động trong nền kinh tế những tiến sĩ
được đào tạo tại Hoa kỳ (còn gọi là đạo luật STAPLE) - đảo ngược lại chính sách nhân
lực thi
ếu tính cạnh này bằng cách miễn trừ hạn ngạch thị thực cho những tiến sĩ sinh ra ở
nước ngoài nhưng có kỹ năng cao ở lại làm việc tại Hoa Kì. Giữ những tài năng được
đào tạo ở lại để giúp phát triển các công ty sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của Hoa Kì.
Nhóm giải pháp thứ sáu: Tạo điều kiện cho các doanh nhân nhập cư phát triển
các công ty mới khởi nghi
ệp của mình.
Một số công ty lớn nhất của Hoa kỳ được khởi đầu bởi các doanh nhân nhập cư.
Bối cảnh Hoa kỳ đầy dẫy những câu chuyện về người nhập cư đến Hoa Kỳ tìm vận may
để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính sách di trú của Hoa Kỳ tạo ra quá nhiều rào cản

25
cho doanh nhân nhập cư hiện nay xây dựng công ty thành công và tạo công ăn việc làm
ở Hoa Kỳ. Nguồn tài năng này, dù muốn cập bến bờ của Hoa kỳ một cách hợp pháp, vẫn
còn ở nước ngoài và tạo ra các đối thủ cạnh tranh mới cho các công ty Hoa kỳ.
Luật thị thực khởi nghiệp năm 2011 – số S.565/H.R.1114 – sẽ kéo dài thời hạn
của thị thực kinh doanh tạm thời cho các doanh nhân sinh ra ở nước ngoài nhưng có sự

bả
o trợ của các nhà đầu tư có đủ tiêu chuẩn của Hoa kỳ. Những người có thị thực H1-B
cũng như các doanh nhân đang có mặt tại thị trường Hoa kỳ có thể xin thị thực doanh
nhân.
Việc tạo điều kiện cho các doanh nhân nhập cư và làm ăn dễ dàng sẽ thu hút được
nguồn lực và sự sinh động mới cho nền kinh tế trong phát triển và đổi mới công nghệ.
Nhóm giải pháp thứ bả
y: Củng cố những quy định đã được thông qua hiện nay
của Luật về việc làm của doanh nghiệp nhỏ năm 2010 nhằm tạo ra sự chắc chắn lâu dài
cho các doanh nghiệp nhỏ và các nhà đầu tư của họ.
Luật về việc làm của doanh nghiệp nhỏ năm 2010 (số P.L. 111-240) bao gồm
một điều khoản đình chỉ tạm thời thuế tăng vốn cho các khoản đầ
u tư kéo dài năm năm
trong các doanh nghiệp nhỏ. Luật này cũng bao gồm một điều khoản cho phép các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các loại tín dụng kinh doanh khác nhau mà không phải chịu
hệ quả tiêu cực về thuế. Những quy định này được thông qua trên cơ sở tạm thời và sẽ
sớm hết hiệu lực.
Thay vì việc kéo dài tạm thời thêm điều khoản này (mà sẽ cần được gia h
ạn hàng
năm) và tạo thêm sự không chắc chắn như liệu các khoản tín dụng có thể được sử dụng
được hay không, Quốc hội và Tổng thống sẽ cần đưa hai quy định này thành tính vĩnh
viễn. Làm điều này sẽ đảm bảo các công ty khởi nghiệp có thể thu hút thêm các nguồn
đầu tư dài hạn và lên kế hoạch cho tương lai và sẽ dẫn đến việc tăng khả năng tồn tại khi
m
ới khởi nghiệp.

II.2. Kinh nghiệm của một số nước khác
II.2.1. Kinh nghiệm thúc đẩy đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
của Thái Lan
1. Cơ cấu công nghiệp, kinh tế của Thái Lan và vai trò của các DNV&N

Trong suốt 4 thập kỷ qua, cơ cấu kinh tế của Thái Lan đã chuyển từ nền kinh
tế dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế mà trong đó khu vực công nghiệp đã đạt
được vai trò quan trọng đặc bi
ệt. Tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP đã
giảm xuống đáng kể từ chỗ gần 40% trong những năm 1960 xuống còn khoảng 4%
trong cuối những năm 1990 (Bảng 2). Đặc biệt, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong
các ngành kinh tế chế tạo, chế biến dựa chủ yếu vào nguồn nguyên liệu và thâm
dụng lao động đã giảm xuống, trong khi đó cơ cấu xuất khẩu củ
a khu vực kinh tế
dựa vào nền tảng khoa học đang tăng lên đặc biệt trong những năm 1990 (Bảng 1).

×