Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quy luật lượng chất và sự vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.22 KB, 18 trang )

QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
LÊ HỒNG SƠN – MSV: 11225624
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I . Khái quát chung về mối quan hệ lượng chất....................................................2
1.1 Khái niệm về lượng và chất...........................................................................2
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng...............................................5
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................8
II . Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng vào công cuộc học
tập của sinh viên......................................................................................................9
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong q trình tích lũy
kiến thức của học sinh, sinh viên........................................................................9
2.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên
hiện nay...............................................................................................................10
2.2.1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
Lượng kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung
học phổ thơng..................................................................................................10
2.2.2. Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ...............11
2.2.3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm
túc, trung thực.................................................................................................12
2.2.4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh
nóng vội đốt cháy giai đoạn...........................................................................12


2.2.5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan. 13
2.2.6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên..............................................14
III . Sự vận dụng của bản thân.............................................................................15
3.1. Giới thiệu bản thân.....................................................................................15
3.2. Những thành công khi vận dụng quy luật lượng chất.............................15
3.3. Những thất bại khi vận dụng quy luật lượng chất...................................16


3.4. Nguyên nhân của những thành công và thất bại :...................................16
3.5. Đề xuất giải pháp.........................................................................................16
KẾT LUẬN............................................................................................................17
DANH MỤC THAM KHẢO................................................................................18


MỞ ĐẦU
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan bên trong của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ
của những thuộc tính tạo nên bản chất của sự vật chứ không phải bản chất của sự
vật. không phải bản chất của chúng. Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ
bản chất của sự vật về mặt số lượng, trình độ, mức độ, tốc độ vận động và phát
triển, tính chất của sự vật. Lượng và chất là hai mặt chủ yếu của mọi sự vật, hiện
tượng, trong bản thân hai mặt này luôn tác động qua lại ở một mức độ nào đó để sự
vật phát triển. Mức độ mà một sự thay đổi về lượng của sự vật chưa đủ để gây ra
sự thay đổi cơ bản về chất của sự vật gọi là độ. Chỉ khi sự thay đổi về lượng đạt
đến mức độ đủ để dẫn đến sự thay đổi về chất thì mức độ đó mới bị phá vỡ và sự
vật chuyển sang một giai đoạn mới khác về chất. Mọi thứ trong thế giới vật chất
đều vận động và tiến hóa khơng ngừng. Tích lũy về lượng cũng là một trong những
cách thức vận động của vạn vật. Vì vậy, dù nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì
lượng vật phẩm bạn tích lũy được cũng sẽ đạt đến giới hạn. nơi bản chất của sự vật
thay đổi triệt để. Điểm mà tại đó một sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi chất
của một vật gọi là điểm nút. Sự thay đổi về chất của một đối tượng do sự thay đổi
trước đó của nó gây ra gọi là bước nhảy.
NỘI DUNG
I . Khái quát chung về mối quan hệ lượng chất
1.1 Khái niệm về lượng và chất
a. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học

dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống


nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng
khác.
Ví dụ: Ngun tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083đvC, nhiệt độ sơi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất
riêng của đồng để phân biệt nó với các kim loại khác.
Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện tượng
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn
tồn tại ở bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan
của con người mà có thể áp đặt được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc tính
là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật
chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó
với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và khơng cơ
bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ
thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không cơ bản mới
được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì thuộc tính
cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng cơng cụ, có tư
duy cịn các thuộc tính khơng là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con
người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại trở
thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có q trình tồn tại và phát triển
qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự
vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất. Ví dụ:
những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm non ->
nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển
hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn



như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ
40-50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.
b. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng tốc
độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng
cịn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay
nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay
nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide (CO2). Lượng là số nguyên tử tạo
thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi (O)
Đặc điểm của lượng
- Lượng có tính khách quan vì lượng là biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí
nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định. Trong hiện
tượng có nhiều loại lượng khác nhau như: lượng là nhân tố quyết định bên trong,
mà lượng chỉ những yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; Mọi thứ càng phức
tạp thì số lượng của chúng càng phức tạp.
-Lượng có thể được định nghĩa dưới dạng đơn vị đo cụ thể hoặc có thể được nhận
thức dưới dạng trừu tượng hóa, khái quát hóa. Trên thực tế, số lượng của sự vật
thường được xác định bằng các đơn vị đo cụ thể như tốc độ ánh sáng hay phân tử
gồm những nguyên tử nào. Bên cạnh đó, có những đại lượng chỉ có thể biểu thị
bằng những thuật ngữ trừu tượng, chung chung như trình độ nhận thức của một
người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân.,..
- Lượng luôn biến đổi: Lượng khơng tự nói lên sự vật (số lượng ngun tử cấu tạo
nên một nguyên tố hóa học, số lượng các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hay



chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) mà là lượng thông số không ổn định
mà thường thay đổi theo sự biến đổi chuyển động của vật, đó là mặt không bền của
vật.
Như vậy, chất và lượng là hai mặt khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay
một quá trình nhất định trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai mặt đó tồn tại khách
quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng chỉ mang
tính chất tương đối. Có những phẩm chất xác định trong một mối quan hệ là định
tính, nhưng trong mối quan hệ khác, chúng là định lượng.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự
thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn
tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng
có một loại chất tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H
(cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20)
được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là:
khơng màu, khơng mùi, khơng vị, có thể hồ tan muối, axít,…“Chất” và “lượng”
ln thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách
biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong
một độ nhất định. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Chất và
lượng có trong mọi sự vật, hiện tượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và
lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Lượng và chất không biến đổi độc
lập với nhau mà có quan hệ mật thiết với nhau. Khi lượng tích lũy của sự vật, hiện
tượng vượt quá một giới hạn nhất định thì chất cũ sẽ mất đi và được thay thế bằng
chất mới. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn mà sự thay đổi về
lượng của một sự vật chưa làm thay đổi căn bản bản chất của nó. Ví dụ khi ta nung
một thỏi thép trong lò nung, nhiệt độ của lị có thể lên đến hàng nghìn độ nhưng


thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ không ở trạng thái lỏng. Khi lượng thay đổi đến

một giới hạn nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó là điểm
nút. Theo triết học Mác - Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm
giới hạn mà tại đó một sự thay đổi về lượng đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ta
có thể hiểu, điểm nút là điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi
chất của sự vật.
Sự vật tích luỹ đủ lượng ở nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và
chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên cái mới và nút mới của sự vật, quá
trình này diễn ra liên tục trong sự vật và vì vậy sự vật ln ln phát triển trong
suốt q trình tồn tại của nó. Sự vật tích tụ đủ lượng ở điểm nút sẽ tạo ra bước
nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy vọt là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự
biến đổi về chất của sự vật do sự biến đổi về lượng của sự vật trước đó gây ra. Giới
hạn về lượng khi đạt đến điểm nút, trong những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. Đây là bước nhảy của sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một thời kỳ vận động, phát triển và mở
đầu cho một thời kỳ mới. Có thể nói, trong q trình phát triển của sự vật, tính
khơng liên tục là tiền đề cho tính liên tục và tính liên tục là sự tiếp tục của một
chuỗi các sự kiện bị gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, hãy xem một ví
dụ: Xét “nước” tinh khiết, ở điều kiện atmotphe ở trạng thái lỏng (chất) được xác
định bởi lượng (lượng) nhiệt độ từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng biến đổi nhiệt
độ nằm ngoài giới hạn 0°C hoặc 100°C (điểm nút) đó thì q trình chuyển trạng
thái của nước từ lỏng sang rắn hoặc khí là tất yếu (nhảy). . Như vậy, sự phát triển
của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ tích lũy về lượng ở một mức độ nhất định
đến bước nhảy vọt về chất. Nhưng điểm nút của q trình đó khơng cố định mà có
thể thay đổi do tác động của các điều kiện khách quan và chủ quan.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:


+ Căn cứ vào thời gian nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhảy đột
ngột và bước nhảy từ từ:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong thời gian rất ngắn làm thay

đổi chất của toàn bộ cấu trúc cơ bản của sự vật. Ví dụ, nếu tăng khối lượng của
Uranium 235 (Ur 235) đến khối lượng tới hạn thì một vụ nổ nguyên tử sẽ xảy ra
trong giây lát. Bước nhảy dần là bước được thực hiện từ từ, từng bước tích luỹ dần
các phần tử của chất mới và các phần tử của chất cũ mất dần đi.
Chẳng hạn, quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp quá độ lạc
hậu lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, qua nhiều bước nhảy vọt. Bởi vì
đó là một q trình phức tạp, trong đó có cả tuần diễn ra các bước nhảy luân phiên
tự động trong từng phần của sự kiện đó.
+ Căn cứ vào quy mô để thực hiện bước nhảy của sự vật, có bước nhảy tồn cục và
bước nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn cục là bước nhảy làm thay đổi chất của tất cả
các mặt, các yếu tố cấu thành nên chân lý. . Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm
thay đổi về chất của từng mặt, các yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Chẳng hạn, trong thực tế, sự vật có tính chất đa dạng, phong phú nên muốn thực
hiện bước nhảy tồn bộ thì phải thơng qua bước nhảy cục bộ. Quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy vọt toàn cầu, tức là chúng ta đang
thực hiện những bước nhảy vọt từng phần trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã
hội và lĩnh vực tinh thần - xã hội để thực hiện bước nhảy vọt toàn diện - đi đến
thành công. xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó khơng tồn tại ở một cách thụ động mà có tác động trở lại
đối với lượng, được biểu hiện ở vị trí: chất mới sẽ tạo ra một chất mới phù hợp với
nó để có hệ thống mới nhất giữa chất và lượng. Tác động đó có thể xảy ra: chất
mới có thể làm thay đổi cấu trúc, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của sự kiện vận động
và sự phát triển của sự kiện, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học sinh vượt qua


điểm vượt trội là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện một bước nhảy để trở
thành học sinh. Trình độ văn hóa của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện
để họ thay đổi cấu trúc, quy mơ, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, khơng chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà

những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự
phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kể sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa
chất và lượng, sự thay đổi dần dần về giới hạn lượng quá mức sẽ dẫn đến sự thay
đổi cơ bản về cơ bản. chất của vật chất thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác
động trở lại với sự thay đổi của lượng.Q trình tác động đó diễn ra liên tục làm
cho sự việc không liên tục phát triển.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có mặt chất và mặt lượng tồn tại trong sự xác
định tách rời nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. chất lượng và khối lượng.
+ Những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những thay đổi về chất trong những điều
kiện nhất định và ngược lại, chính vì vậy phải coi trọng q trình tích lũy về lượng
để biến đổi chất của sự vật, đồng thời phát huy tác dụng của chất mới. để chấm dứt
sự thay đổi về lượng của sự vật.
+ Sự thay đổi về lượng chỉ thay đổi về chất khi tích lũy đến giới hạn nút, vì vậy
trong thực tiễn cần giải quyết bệnh nhiệt tả, hoãn thủ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng rất đa dạng, phong phú nên cần vận dụng linh
hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời
sống xã hội, q trình phát triển khơng chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan mà
còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của kẻ lừa đảo. Vì vậy, cần phải nâng cao tính
tích cực của các chủ thể để kết thúc q trình chuyển hóa từ lượng sang chất một
cách hiệu quả nhất.


II . Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng vào công cuộc học
tập của sinh viên
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong q trình tích lũy kiến
thức của học sinh, sinh viên
Q trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình lâu dài và khó khăn, địi hỏi sự
cố gắng không mệt mỏi và không ngừng của mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ
sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất như sau: mỗi học sinh tích lũy cho

mình lượng (kiến thức) bằng cách nghe thầy cô giảng bài, làm bài tập, đọc thêm
sách tham khảo. Khi đã tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết, học sinh chuyển sang
một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, q trình học tập, tích lũy kiến thức là cấp độ, các bài kiểm tra, bài thi là
điểm nút, học sinh nâng cao trình độ học tập chứ khơng phải nhảy cóc. Trong suốt
12 năm học, học sinh phải thực hiện rất nhiều động tác nhảy khác nhau. Trước hết,
đó là bước nhảy để chuyển từ học sinh cấp 3 lên học sinh cấp 3, và kỳ thi lên cấp 3
là điểm xuất phát, đồng thời cũng là điểm xuất phát mới trong việc tích lũy lượng
mới (kiến thức mới) để thực hiện. Một trong những bước quan trọng nhất trong
cuộc đời: vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học để trở thành sinh viên. Trong suốt 12
năm học phổ thơng, mỗi học sinh đều phải tích lũy một lượng kiến thức vừa đủ và
vượt qua những nút thắt khác nhau, nhưng nút thắt quan trọng nhất, đánh dấu bước
nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó chính là kỳ thi
đại học. Vượt qua kỳ thi tốt nghiệp phổ thông đã là một điểm quan trọng, nhưng
vượt qua kỳ thi đại học còn quan trọng hơn, vượt qua điểm nút này chứng tỏ học
sinh đã tích lũy đầy đủ. về lượng tạo bước nhảy vọt, mở ra thời kỳ phát triển mới
về lượng và chất, từ học sinh đến học sinh.
Sau khi thực hiện bước nhảy trên, một chất mới được hình thành trong mỗi người,
một lần nữa ảnh hưởng đến số lượng. Sự ảnh hưởng này thể hiện trong cách suy


nghĩ, hành vi của mỗi học sinh trưởng thành và chín chắn hơn so với học sinh cấp
2 hay cấp 3. Và ở đây, một q trình tích lũy lượng (tích lũy kiến thức) mới đã bắt
đầu, khác hồn tồn với q trình tích lũy lượng ở THCS hay THPT. Bởi không
đơn giản là đến lớp để tiếp thu bài giảng của thầy cô mà cao hơn là tự học, tìm tịi
và tích lũy kiến thức, ngồi kiến thức trong sách vở cịn có kiến thức xã hội từ việc
làm thêm hay sinh hoạt câu lạc bộ. Sau khi tích lũy đủ số tiền, sinh viên sẽ bước
sang một bước nhảy vọt mới, bước quan trọng nhất của cuộc đời là vượt qua kỳ thi
tốt nghiệp để lấy bằng cử nhân và tìm việc làm. Cứ như vậy, quá trình nhận thức
(tích lũy về lượng) liên tục diễn ra tạo nên sự vận động khơng ngừng trong q

trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến
trình độ cao hơn. , tạo động lực phát triển xã hội.
2.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên hiện
nay.
2.2.1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng
kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thơng.
Ví dụ đơn giản, nếu ở phổ thơng, một mơn học kéo dài cả năm thì ở đại học, một
môn học chỉ kéo dài từ 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, những kiến thức nâng cao đáng kể
sẽ gây khó khăn cho các tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức
mà ở bậc đại học và phổ thơng cũng có sự đa dạng về kiến thức. Không giống như
phong cách học tập thụ động ở trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào
nhiều nhóm tích cực, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay
đổi về kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi
với mơi trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trường trung
học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Lên lớp đối với cấp 3 chỉ là hoàn thành
mục tiêu thầy cô giao, nhưng với sinh viên đại học, điều các em đối mặt không chỉ
là những công việc đơn giản trên lớp mà còn phải thực hiện các bài tập thực hành.
thời kỳ, phải bắt đầu thiết lập mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên đại


học, tính tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không cần sổ liên lạc hay họp phụ
huynh như thời cấp 3, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Q trình chuyển
đổi từ phổ thơng lên đại học có thể được kéo dài giống như q trình chuyển đổi từ
số lượng sang chất lượng. Vì vậy, mỗi sinh viên cần phải thích nghi và thay đổi lối
sống mới cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao
trong q trình học tập và nghiên cứu của mình.
2.2.2. Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật ln diễn ra bằng cách
tích lũy dần về lượng đến một giới hạn nhất định, tạo bước nhảy vọt làm thay đổi
chất và lượng học tập của học sinh. Mà còn. Để lấy được bằng Cử nhân yêu cầu

mỗi sinh viên phải tích lũy đủ số tín chỉ của các mơn học. Có thể coi việc học là
q trình tích lũy về số lượng, điểm là thi, thi là bước nhảy. Vì vậy, trong hoạt
động nhận thức và học tập, học sinh phải biết tích luỹ từng bước về lượng (kiến
thức) để làm chuyển biến về chất (kết quả học tập). trường để học tập và tiếp thu
kiến thức mới. Qua q trình tích lũy kiến thức của sinh viên trong suốt 4 năm ngồi
trên ghế giảng đường, từ thầy cô hay thực tập (số lượng)…và tốt nghiệp ra trường
với kết quả cao, cầm trên tay tấm bằng Cử nhân, đảm bảo chuyên môn cho mỗi
sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đó đã biến đổi và biến đổi thành
chất mới.
2.2.3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc,
trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con
người cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng
cần cải thiện bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều
có sứ mệnh là sống và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi
người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức của mỗi sinh
viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về


chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai
thì đều khơng có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh viên có thể gian
lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi
về chất.
2.2.4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng
vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá, từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại có thể rút ra một số kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong
học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân,
sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ mơn học; để mơn học có kết quả tốt,
sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các mơn học. Thời gian học có thể được

coi là độ, các bài kiểm tra là một nút và điểm số cần thiết là một bước nhảy. Khi
kết quả thi (nhảy cầu) đạt kết quả tốt phản ánh kết thúc một giai đoạn tích cực nắm
vững kiến thức trong q trình học tập và rèn luyện của học sinh. Vì vậy, trong học
tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước giám sát chất lượng
kiến thức (số lượng) để thay đổi kết quả học tập (chất lượng) theo quy định của
pháp luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, học viên cần tránh tư tưởng san
bằng. Tức là sau khi học xong kiến thức cơ bản, tức là đã có sự thay đổi về chất,
học sinh có thể tiếp tục học những kiến thức khó hơn. Chẳng hạn, trước khi vào đại
học, học sinh phải thi tốt nghiệp THPT trước, nếu khơng sẽ xảy ra tình trạng mất
gốc. Hay trong quá trình học tập, nghiên cứu, sinh viên ln bị phân tâm bởi
những câu chuyện bên ngồi. Phải đến khi kỳ thi đến gần thì bạn mới bắt đầu học
lại từ đầu, đó là giai đoạn ơn thi chứ khơng phải giai đoạn học lại. Vì vậy, học sinh
dù có học hành chăm chỉ cũng khơng thể đảm bảo đủ kiến thức để vượt qua kỳ thi.
Tóm lại, để tiếp tục trau dồi thêm kiến thức và đạt kết quả cao trong các kỳ thi, học
sinh phải học từng ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự thay đổi về
lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi tích cực về chất


2.2.5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra xã hội khắc nghiệt, học sinh cần trang bị cho mình những điều
đơn giản nhất như kỹ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… để tìm thấy tri thức và đối tượng
lớn trong cuộc sống. về cuộc sống trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Trải qua
hơn 12 năm học là khoảng thời gian đệm để hành trình cịn ngun vẹn. Khơng
phải vậy, chúng ta vẫn phải có được những kỹ năng mềm cho cuộc sống tiếp theo.
Trong quá trình học tập khơng ngừng đó, sự chuyển từ sự thay đổi về lượng sang
sự thay đổi về chất và sự đảo ngược có thể xảy ra trong q trình học sinh phân
tích tri thức. Vận dụng quy luật về lượng, sinh viên khơng ngừng nỗ lực học tập,
tìm kiếm thơng tin, mang về những “lượng” tốt, có căn cứ và đầy đủ. Từ đó
chuyển hóa “chất” tốt hơn, tạo ra những thành quả, thành phẩm tương xứng với
cơng sức của mình. Ở trường Đại học, ngoài bài giảng trên lớp, sinh viên cịn tự

tìm tịi, nghiên cứu trên thư viện, thầy cơ làm đồ án, luận án, luận án, thầy cô, bạn
bè,… tích cực học hỏi và trau dồi những kỹ năng mềm cần thiết cho tương lai.
Được tự do sáng tạo và trau dồi “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt được
những thứ “chất” nhất: bằng cử nhân, học trò hiền lành… và tự tin bước ra trường.
Cứ như vậy, sự chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không ngừng trong sự
phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi học sinh, giúp các em tự tin vững
bước trong hành trang vào đời. Khi đó, nhiệm vụ của người thầy là phát huy hết
tiềm năng tri thức, kho tư liệu và ứng dụng thực tiễn, tiếp tục mở rộng con đường
khoa học - nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ, chủ quan nghĩ mình đã làm tốt
nhất có thể.
2.2.6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Thứ nhất, trong sự vận động và phát triển, phải biết rằng, tích lũy về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất; khơng được nóng vội cũng khơng bảo thủ. Q trình học tập
phải được tích lũy từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; kiến thức cơ bản
không nên bị xem nhẹ. Bỏ một bước trong tích lũy sẽ dẫn đến độ khơng hồn


thiện, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và chất mới sẽ khơng được
hình thành. Ví dụ, nếu bạn làm sai những kiến thức cơ bản ở cấp tiểu học, bạn sẽ
không thể nhảy lên cấp trung học. Nếu bạn cố thi hành bước nhảy có nghĩa là bạn
vượt qua điểm nút một cách cưỡng bức, chất mới được hình thành nhưng khơng áp
dụng theo quy luật lượng – chất. Những thay đổi về chất do thi hành bước nhảy
gây ra chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi thành điểm nút, độ được hồn thiện từ sự
tích lũy đầy đủ về chất. Vả lại, mặc dù sự phát triển, vận động của sự vật, hiện
tượng là những bước nhảy không ngừng, nhưng phải chú ý đến độ trong q trình
biến đổi về lượng, khơng được vội vàng mà bỏ qua các bước. Tư tưởng bảo thủ
khiến bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù
bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi nhưng khơng đủ tự tin để thực
hiện bước nhảy thì quá trình tích lũy chỉ được coi là tích lũy về lượng mà khơng có
sự thay đổi về chất. Bạn hải nhận thức được mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành

sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương pháp tích lũy phù hợp, đẩy nhanh tốc độ
tích lũy, cùng với chất lượng của độ. Vận dụng mối liên hệ đó sẽ giúp bạn hiểu rõ
bản chất và quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ.
III . Sự vận dụng của bản thân
3.1. Giới thiệu bản thân
Tôi là sinh viên khoa Ngoại ngữ kinh tế trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Định hướng: dành được tấm bằng xuất sắc tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân
3.2. Những thành công khi vận dụng quy luật lượng chất
Là học sinh, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các cấp học từ mẫu giáo đến
trung học phổ thông kéo dài 12 năm.
Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh được trang bị kiến thức cơ
bản về các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là Khoa học tự nhiên và Khoa học
xã hội. Ngoài ra, mỗi học sinh cịn trang bị cho mình những kỹ năng, hiểu biết về


cuộc sống, tự nhiên và xã hội. Chúng ta biết rằng:
- Q trình tích lũy về lượng - kiến thức của mỗi học sinh là một q trình lâu dài,
địi hỏi sự nỗ lực khơng chỉ của gia đình, nhà trường mà còn từ sự nỗ lực, năng lực
của bản thân người học.
- Quy luật về chất cho thấy mỗi học sinh tích luỹ được một lượng kiến thức nhất
định qua mỗi bài học trên lớp cũng như khi giải bài tập về nhà. Sự tích lũy kiến
thức sẽ được đánh giá qua các học kỳ, đầu tiên là kỳ thi học kỳ và cuối cùng là kỳ
thi tốt nghiệp.
Với việc tích lũy được lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua kỳ thi
và bước sang một giai đoạn học tập mới.
=> Như vậy, có thể thấy: Trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, q
trình học tập tích lũy kiến thức là độ, thi cử là điểm nút, thi đỗ là bước nhảy làm
cho hoạt động kiến thức tiếp theo của học sinh bước sang một giai đoạn mới, tức là
có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải
tích lũy một lượng kiến thức vừa đủ và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng

điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh
nào cũng muốn vượt qua đó chính là kỳ thi đại học. Vượt qua kỳ thi tốt nghiệp phổ
thông đã là một điểm quan trọng, nhưng vượt qua kỳ thi đại học còn quan trọng
hơn, vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã tích lũy đầy đủ. về lượng tạo
bước nhảy vọt, mở ra thời kỳ phát triển mới về lượng và chất, từ học sinh đến học
sinh.
3.3. Những thất bại khi vận dụng quy luật lượng chất
- Tôi đã từng gặp phải những thất bại trong học tập như: bị điểm kém ở một số
môn, chán nản khi học mãi mà không thấy kết quả
3.4. Nguyên nhân của những thành công và thất bại :
+ Nguyên nhân thất bại


Do không nắm vững được quy luật lượng chất, không chú tâm tích lũy về lượng
( kiến thức) trong quá trình học , dẫn đến khi thực hiện bước nhảy ( thi cử) khơng
đến độ nhất định , từ đó dẫn tới điểm kém , thậm chí trượt mơn .
+ Nguyên nhân thành công
Tôi đã nắm vững được quy luật lượng chất, tập trung tích lũy đầy đủ về chất, dẫn
đến tôi qua môn một cách dễ dàng và điểm số đạt rất cao, vượt cả mong đợi của
bản thân.
3.5. Đề xuất giải pháp
Chăm chỉ tích lũy kiến thức , bởi vì học tập là cả q trình chứ khơng phải là thời
điểm. Do đó bản thân mỗi người cần có thời gian và bỏ ra cơng sức để học tập.
Nhất định sự cố gắng của mỗi người sẽ được đền đáp bằng một kết quả tương xứng
.
KẾT LUẬN
Tóm lại, việc hiểu và vận dụng các quy luật lượng chất trong quá trình học tập,
nghiên cứu và phát triển của sinh viên là hết sức cần thiết và quan trọng. Chúng
không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn mối quan hệ qua lại của hai phạm trù “chất” và
“lượng”, từ đó vận dụng được mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay

đổi về chất để áp dụng vào thực tế như các ví dụ nêu trên. Một sinh viên nên làm gì
và áp dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất? Sinh viên cần xác định rõ mục
tiêu, có định hướng đúng đắn ngay từ bước đầu trong quá trình học tập và làm
việc, hiểu và vận dụng tốt quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”.
Ngồi ra việc thay đổi mơi trường từ THPT lên Đại học cũng có nhiều sự khác
nhau, để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải có
tính tự chủ, chủ động thích nghi với mơi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích
cực trong học tập và cơng việc, khơng ngừng tích luỹ kinh nghiệm để có thể thành
cơng hơn trong tương lai. Ngồi ra, “lượng” khơng chỉ là những kiến thức mà sinh


viên học trên ghế nhà trường, mà đó cịn là những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng
làm việc nhóm, thuyết trình, đàm phán,…” và khả năng linh hoạt hồ nhập với mơi
trường khác nhau. Vì thế, trong q trình học tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà,
phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có thể tăng những tích luỹ về “lượng” mà
các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng thấy rõ hơn được tầm quan
trọng và sự tác động qua lại của quy luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ
động hơn trong việc trang bị cho mình những chuyên mơn kiến thức và kĩ năng cần
thiết và đó cũng là tiền đề, bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình sau sinh những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật
2. Hỏi đáp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia sự thật
3.

Sách chuyên khảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia sự thật




×